PHÂN TÍCH SWOT VIỆC ĐẦU TƯ FDI RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
I/ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM THỜI
GIAN QUA VÀ DỰ KIẾN TRONG THỜI GIAN TỚI:
- Theo thống kê từ Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ
KH&ĐT), tính đến hết tháng 2/2011, Việt Nam đã có 575 dự án đầu tư ra nước
ngoài (ĐTRNN) vào 55 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với tổng số vốn
đăng ký đạt trên 23,7 tỷ USD. Trong đó, phần vốn của các doanh nghiệp Việt
Nam đã vượt 10 tỷ USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước có mặt tại
một số thị trường thuộc cả 5 châu lục, chủ yếu tập trung tại khu vực châu Á như
Lào, Campuchia, Singapore, Malaysia và một số nước có tiềm năng về dầu mỏ
như Algeria, Madagascar, Iraq hay thị trường truyền thống Liên bang Nga...
- Tuy không mạnh mẽ như dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (năm
2010 tổng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam là 192.92 tỉ USD với trên
10.000 dự án), vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài cũng
phần nào thể hiện những nỗ lực tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới bên ngoài biên
giới.
- Tổng hợp báo cáo của các chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự
án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 đạt khoảng 900 triệu USD.
Trong đó bao gồm các ngành như:
+ Khai khoáng đã đạt trên 700 triệu USD;
+ Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 70 triệu USD;
+ Phân phối bán buôn bán lẻ đạt 53 triệu USD;
+ Bưu chính viễn thông đạt 33 triệu USD;
+ Sản xuất điện 25 triệu USD...
1
- Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, hoạt động đầu tư ra nước ngoài năm 2010
tiếp tục hướng vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn ưu tiên thúc đẩy đầu tư ra
nước ngoài, thuộc những lĩnh Việt Nam đang cần như khái thác khoáng sản;
trồng cây công nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra bên ngoài;
dịch vụ viễn thông; hàng không; ngân hàng...
- Tuy nhiên, phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn hiện đang trong giai đoạn
đầu của quá trình đầu tư nên hiệu quả đầu tư ra nước ngoài là chưa lớn, chưa có
đóng góp đáng kể cho việc phát triển kinh tế xã hội trong nước thời gian qua. Vì
thế, các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam hiện tại và trong thời gian
tới cần được kiểm soát để có thể điều tiết được dòng tiền ra vào hợp lý, bảo đảm
cân đối vĩ mô và ổn định nền kinh tế.
- Theo dự kiến, vốn đầu tư ra nước ngoài cả năm 2011 tăng thêm khoảng 1,5 - 2
tỷ USD, trong đó các đơn vị dẫn đầu là 5 tập đoàn: Dầu khí, Công nghiệp Than Khoáng sản, Công nghiệp Cao su, Viettel, Tổng công ty Sông Đà đã chiếm đến
67% lượng vốn chuyển ra bên ngoài để đầu tư của các thành phần kinh tế.
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
- Có thể nói hoạt động ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu đạt
được những thành tựu đáng kể và đóng góp vào sự phát triển của đất nước; hoạt
động ĐTRNN đang và sẽ được coi là phương thức quan trọng nhằm giành quyền
chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động này chính là việc
chuyển các nguồn lực có lợi thế so sánh ở trong nước ra bên ngoài để tạo thế
cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất; tìm nguồn tài nguyên thay thế; hạn chế ô
nhiễm môi trường trong nước; mở rộng thị trường tiêu thụ; thúc đẩy điều chỉnh
cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn lực trong không gian rộng lớn hơn. Bên cạnh đó,
ĐTRNN cũng sẽ góp phần tăng cường nguồn lực để phát triển kinh tế bền vững
nhằm thu được lợi ích cao nhất cho đất nước.
- Tuy nhiên, trong điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay và trong những
năm tới, hoạt động ĐTRNN vẫn cần sự kiểm soát của Nhà Nước, bảo đảm cho
việc ĐTRNN có trọng tâm, trọng điểm, đúng định hướng và đạt kết quả cao nhất.
2
- Hiện nay, hệ thống pháp luật, chính sách về lĩnh vực ĐTRNN đã và đang
tiếp tục được cải thiện nhằm tạo môi trường pháp lý thông thoáng tạo điều kiện
thuận lợi và chủ động cho các doanh nghiệp khi tiến hành ĐTRNN. Bộ KH&ĐT
xác định, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTRNN phải được tăng
cường bảo đảm việc đầu tư đúng định hướng và đạt hiệu quả. ĐTRNN rất cần
được coi là một bộ phận cấu thành trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội nói chung cũng như từng ngành, từng địa phương nhằm định
hướng cho việc điều chỉnh thể chế, chính sách, định hướng thị trường, lĩnh vực
đối tác đầu tư, đảm bảo thực hiện cân đối, sát với thực tế và tránh lãng phí các
nguồn lực.
- Việt Nam đã là thành viên của WTO. Đây được xem là điều kiện thuận lợi để
Việt Nam mở rộng thị trường sang các nước và từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp lý phù hợp hơn với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Các
chuyên gia kinh tế khuyến cáo, Việt Nam cần tăng cường công tác quản lý chặt
chẽ đối với dòng vốn ĐTRNN có sử dụng vốn nhà nước, bảo đảm việc sử dụng
vốn nhà nước được công khai, minh bạch và hiệu quả. Điều này đặc biệt quan
trọng nhất là khi phần lớn các dự án đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài hiện nay
chủ yếu sử dụng nguồn vốn này.
II/ PHÂN TÍCH SWOT VIỆC ĐẦU TƯ FDI RA NƯỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY:
1) ĐIỂM MẠNH:
- Việt Nam có quan hệ tốt với các nước láng giềng như Lào, Camphuchia. Đây
cũng là hai thị trường đầu tư lớn nhất của Việt Nam hiện nay;
- Thể chế chính sách đang dần hoàn thiện;
- Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang phát triển tương đối nhanh và
rộng;
- Một số dự án lớn đã được triển khai;
3
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đang trở thành xu hướng ở Việt Nam;
- Đầu tư đa dạng về lĩnh vực, quy mô, kể cả quốc gia và vùng lãnh thổ;
- Hình thành nên một lớp doanh nhân có bản lĩnh và quyết tâm “đem chuông
đi đánh xứ người”.
2) ĐIỂM YẾU:
- Bộ máy quản lý của nhà nước còn bất hợp lý, thủ tục phức tạp và tốn kém;
- Chưa có chiến lược, chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài;
- Hoạt động còn mang tính tự phát, chưa có tổ chức;
- Nhà đầu tư Việt Nam nhìn chung không mạnh về vốn, kỹ thuật và kinh
nghiệm.
- Thông tin đầu tư còn rất hạn chế.
3) CƠ HỘI:
- Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trở thành xu hướng tất yếu;
- Toàn cầu hóa đã tạo môi trường cho đầu tư phát triển;
- Việt Nam gia nhập WTO, ký nhiều hiệp định đầu tư song phương và đa
phương;
- Nhu cầu thu hút vốn FDI của các nước ngày càng cao, đặc biệt giai đoạn hậu
khủng hoảng sắp tới.
- Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường
tiêu thụ.
- Đầu tư ra nước ngoài sẽ là động lực để các doanh nghiệp phải tìm tòi, phát
triển, hoàn thiện mình để một mặt thích ứng với môi trường kinh doanh mới,
thích ứng với quy mô hoạt động lớn hơn, phức tạp hơn và để cạnh tranh tốt
hơn.
4) THÁCH THỨC:
4
- Cạnh tranh trong đầu tư ngày càng gia tăng, đặc biệt là các nước trong khu
vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapo, …;
- Tình hình chính trị - kinh tế - xã hội ở nhiều nước còn bất ổn, dẫn đến rủi ro
trong khi đầu tư;
- Môi trường đầu tư ở một số nước chưa hoàn thiện;
- Cơ hội đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lời cao như khai khoáng, viễn
thông... ngày càng ít đi do sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
- Xuất phát điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong nước còn quá
thấp, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp vẫn còn ảnh hưởng khá nặng nề…
- Quan niệm sai lầm nghĩ rằng khi nào nền Kinh tế thừa vốn mới tiến hành
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tư duy phiến diện một chiều, nghĩ rằng đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài gia tăng sẽ khiến đầu tư trong nước bị giảm sút, chảy
máu ngoại tệ, giảm việc làm trong nước…
- Năng lực tài chính, kinh nghiệm đầu tư quốc tế còn non kém, năng lực cạnh
tranh tổng hợp của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp... khiến khả năng đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài chưa cao.
- Hệ thống pháp luật có thay đổi nhưng chưa tạo ra động lực cho doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: Quy trìn thẩm định và đăng ký cấp phép đầu tư
chậm, qua nhiều khâu, thiếu quy định và chế tài cụ thể; thủ tục rườm rà, tốn
thời gian nên không có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài hoặc khiến cho doanh nghiệp lỡ cơ hội kinh doanh.
- Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp ra nước ngoài bị hạn chế. (Theo điều 9
NĐ 78, dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài
chính, tín dụng, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn
nhà nước từ 150 tỷ đồng trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 300 tỷ
đồng trở lên phải được Thủ tướng chấp nhận; ...)
5
- Chưa có bộ phận chuyên trách về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính) trong việc quản lý các dự án đầu tư
ra nước ngoài còn hạn chế; chưa thành lập được các đoàn khảo sát tại chỗ để
đánh giá sâu hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Mối quan hệ giữa cơ
quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra
sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của nhà nước.
- Chưa có một website nối mạng quốc tế và các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp
hoạt động trên phạm vi toàn quốc và toàn cầu để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
đầu tư ra nước ngoài như: cung cấp thông tin thị trường; thông tin đối tác, cơ
hội và kinh nghiệm kinh doanh; thông tin về môi trường đầu tư; các dịch vụ
xúc tiến thương mại; các dịch vụ hỗ trợ tư pháp về đăng ký và xử lý tranh
chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế...
- Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO về mặt lý thuyêt là giúp cho
các doanh nghiệp tiếp cận được các thị trường được dễ dàng hơn qua các Hiệp
định Song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Nhưng trên thực tế
thì Việt Nam chưa có quan hệ pháp lý trực tiếp cần thiết để triển khai các hoạt
động đầu tư trực tiếp song phương thuận lợi theo các tiêu chuẩn nguyên tắc và
thông lệ quốc tế hiện hành; còn nhiều tổ chức và định chế pháp lý kinh doanh
quốc tế mà Việt Nam chưa phải là thành viên; ngay cả các chủ trương và quy
định chính thức mang tính pháp lý cần thiết nhằm định hướng và hỗ trợ các
doanh nhân, doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài cũng còn chưa đầy
đủ, nhất quán và cụ thể... Nghĩa là, chúng ta đang đứng trước yêu cầu bức
bách phải nhanh chóng “lấp đầy” những “khoảng trống” pháp lý trong nước
và quốc tế để tạo ra môi trường đầu tư ngày càng “đồng chất” hơn theo yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần khẳng
định rằng nhu cầu đầu tư ra nước ngoài là khách quan và ngày càng gia tăng,
6
do đó nếu không được định hướng và bảo hộ bằng luật pháp nhà nước thì các
hoạt động “đầu tư lậu”, tự phát, đầy rủi ro sẽ càng nhiều hơn...
III/ NHỮNG CÔNG CỤ, CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐTRNN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA:
1. Các công cụ Chính phủ đang áp dụng từ năm 1989 đến nay:
- Năm 1989, Việt Nam bắt đầu tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài với
duy nhất một dự án là dự án giữa đối tác Việt Nam và một đối tác của Nhật Bản
với số vốn đăng ký là 563.380 USD. Nhưng có thể nói chính dự án này đã mở
đường cho hoạt động ĐTRNN của Việt Nam.
-
Ngày 14/4/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP
quy định về hoạt động ĐTRNN. Thực tế trong những năm đầu, ĐTRNN chỉ
mang tính chất nhỏ lẻ, vì thế mà số dự án cấp mới cũng như số vốn đăng ký
không nhiều. Tuy nhiên, đến giai đoạn 2006 - 2010, số lượng dự án và quy mô
vốn ĐTRNN bắt đầu tăng cao đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành các Nghị
định mới.
-
Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài được chính phủ ban hành để thay thế Nghị định 22/1999/NĐ-CP
trước đây. Nghị định 78/2006/NĐ-CP bổ sung các quy định về lĩnh vực khuyến
khích, cấm, hạn chế đầu tư ra nước ngoài; ưu đãi đầu tư; thời hạn triển khai thực
hiện dự án; quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong đó quy định
rõ về trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan và ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 113
quy định về việc hỗ trợ nhà đầu tư ở nước ngoài. Thời gian cấp phép đầu tư được
rút ngắn, cụ thể là chỉ còn 15 ngày so với 30 ngày như trước đây. Vốn đầu tư của
những dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng cũng lớn hơn rất nhiều.
Cụ thể dự án thuộc các lĩnh vực ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, tài chính,
tín dụng, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có sử dụng vốn nhà nước từ
150 tỷ đồng Việt Nam trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 300 tỷ đồng
7
Việt Nam trở lên; các dự án thuộc các lĩnh vực khác có sử dụng vốn nhà nước từ
300 tỷ đồng trở lên hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 600 tỷ đồng Việt Nam
trở lên sẽ được Thủ tướng chấp thuận.
-
Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 về đầu tư ra nước ngoài
trong hoạt động dầu khí và Nghị định số 17/2009/NĐ-CP ngày 16/2/1009 của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 121.
-
Thông tư số 97/2002/TT-BTC về chính sách ưu đãi thuế cho doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài: Các loại máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu...
xuất khẩu ra nước ngoài để tạo tài sản cố định cho dự án đầu tư của các doanh
nghiệp sẽ được miễn thuế xuất khẩu và thuế suất VAT 0%. Các khoản thu của
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài, nếu đã chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp ở nước ngoài thì khi tính thuế tại Việt Nam, doanh nghiệp đó sẽ được trừ
phần đã nộp ở nước ngoài. Số thuế thu nhập của các đơn vị này, nếu đã được
miễn, giảm theo luật pháp của nước sở tại (đối với phần lợi nhuận được hưởng từ
các dự án), cũng sẽ được trừ khi xác định số thuế tại Việt Nam
-
Các hiệp định, nghị định thư, các thỏa thuận, định chế pháp lý trong nước
và quốc tế khác liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu tư, lưu chuyển
hàng hóa, dịch vụ và lao động qua biên giới quốc gia: Cho đến nay, Việt Nam đã
ký khoảng 90 hiệp định thương mại song phương và 47 hiệp định bảo hộ đầu tư.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã phần nào thể hiện được sức mạnh
không chỉ về kinh tế của Việt Nam mà còn cả về chính trị, tạo những mối quan hệ
tốt đẹp với các nước tiếp nhận đầu tư, từ đó nâng cao uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế. Việc thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh
nghiệp Việt Nam sử dụng vốn có hiệu quả hơn, khả năng tài chính của doanh
nghiệp được đảm bảo, do đó thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính và đóng góp một
phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước, làm tăng nguồn vốn phát triển kinh tế
quốc dân.
2. Đầu tư ra nước ngoài là tất yếu:
8
“Mục tiêu của quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH-HDH) đất
nước là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở, vật chất kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Để có thể thực hiện được mục tiêu CNH-HDH đất nước, ngoài việc có vốn để
thực hiện, các doanh nghiệp cần có thêm rất nhiều các điều kiện tiên quyết khác
để có thể thành công. Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có được cơ hội:
a) Làm quen và thích nghi với thị trường thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không những góp phần thúc đẩy hoạt động
đầu tư của Việt Nam mà còn giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường thế giới và
tìm kiếm nguồn lợi nhuận. Đây là điều rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp tự
tin mà còn giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đón nhận việc mở cửa thị
trường trong nước.
Bên cạnh đó doanh nghiệp có cơ hội học hỏi được nhiều bài học trong đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài cũng như cách thức tồn tại trong nền kinh tế thế giới,
tạo ra động lực và niềm tin cho các doanh nghiệp trong nước đoàn kết mang lại
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh trên thương trường.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một lĩnh vực chứa đựng nhiều khó khăn
thử thách, song cũng là một cơ hội rất lớn nếu các doanh nghiệp biết nắm bắt để
tạo ra khả năng mới cho nền kinh tế.
b) Tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ.
Trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ thông tin thì đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài là một trong những phương thức mà các doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển có thể áp dụng để tiếp cận với khoa học công nghệ cao, đồng thời
học hỏi những ứng dụng trong công nghệ thông tin.
Ngày nay khoa học công nghệ và công nghệ thông tin đang biến đổi và
phát triển từng giây từng phút, những áp dụng của nó có vai trò vô cùng quan
9
trọng đối với kinh tế và trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Khi thực hiện
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở các nước tiên tiến có khoa học công nghệ phát
triển cao thì Việt Nam có cơ hội được tiếp cận trực tiếp với những ứng dụng khoa
học công nghệ ở các nước này. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội
mang những tiến bộ khoa học công nghệ cao mà trong nước chưa có điều kiện áp
dụng để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, tạo ra những sảm phẩm mới, thị trường
mới có sức cạnh tranh tại các nước phát triển.
c) San sẻ rủi ro trong đầu tư và kinh doanh.
Một trong những biện pháp để san sẻ, phòng tránh rủi ro là thực hiện đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài, đa dạng hóa các danh mục đầu tư nhằm thu được lợi
nhuận, củng cố hoạt động kinh doanh bền vững, ổn định và sự phát triển của các
doanh nghiệp, tránh rủi ro về lạm phát, rủi ro về tỷ giá... Mặt khác đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài còn tạo ra các khoản thu bằng ngoại tệ cho các doanh nghiệp
góp phần làm tăng ngoại tệ của đất nước, giúp cho cán cân thanh toán được ổn
định và phát triển theo chiều hướng tốt.
d) Tạo điều kiện để doanh nghiệp đổi mới cơ cấu sản xuất, tăng cường khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp đổi mới cơ cấu
sản xuất, tạo điều kiện để áp dụng các công nghệ sản xuất mới, tăng cường tính
năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
e) Giúp các doanh nghiệp phát huy được lợi thế của mình.
Mỗi doanh nghiệp đều có điểm mạnh, lợi thế riêng của mình, việc đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp tận dụng tối da được lợi thế đó,
phát huy được điểm mạnh về sản phẩm của doanh nghiệp đặc biệt là các sản
phẩm truyền thống riêng có cuả quốc gia.
1
IV/ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM:
1) Cần có sự "nhận thức lại" của các cấp các ngành và bản thân các DN,
doanh nhân Việt Nam về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Hiện nay còn nhất nhiều người cho rằng Việt Nam đang là nước đang phát
triển cho nên chỉ cần quan tâm đến dòng vốn chảy vào nền kinh tế, mà ít quan
tâm đến dòng vốn chảy ra, nhất là dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
các doanh nghiệp. Đây là một quan điểm phiến diện, vì thực tế đất nước nào mà
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài càng mạnh thì càng có cơ hội mở rộng thị trường
hợp tác kinh doanh, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Do đó cần phải
thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền, của các doanh nghiệp... trong vấn đề
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
+ Nâng cao trình độ của cán bộ trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
phải tuyên truyền, giải thích cho các doanh nghiệp thấy được lợi ích nhiều mặt
của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
+ Xây dựng danh mục các dự án khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
với những ưu đãi cụ thể về tín dụng, thuế, cơ chế chính sách... Cần đi vào cụ
thể không nên để chung chung, chỉ nêu danh mục các dự án...
+ Phân cấp lại thẩm quyền quyết định cấp phép đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
theo hướng trao nhiều quyền hơn cho các địa phương để rút ngắn thời gian
chờ đợi cấp phép đầu tư.
2) Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
* Về phía Nhà nước:
-
Cân nhắc kỹ khi lựa chọn chính sách ưu đãi, hỗ trợ dưới dạng bao cấp
hoặc bảo hộ và nếu có, cần tính toán thời gian và phương pháp hợp lý. Cần tập
trung xây dựng chính sách tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường
phù hợp, tự chủ, minh bạch cho hoạt động của doanh nghiệp.
11
-
Khẩn trương tiến hành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đang cản trở hoạt
động bình thường của doanh nghiệp nói chung, tập trung chủ yếu trên các nội
dung sau:
Khắc phục tình trạng thiếu nhất quán, không đồng bộ, chồng chéo,
mâu thuẫn trong các chính sách và việc thực hiện không thống nhất giữa các cấp,
các ngành. Cho đến nay, chính sách vẫn còn nhiều thay đổi bất thường, khó dự
đoán, làm đảo lộn các tính toán chiến lược của doanh nghiệp, chuyển lãi thành lỗ,
rủi ro đầu tư cao.
Các lĩnh vực tài chính, thuế, tín dụng… chậm được đổi mới, việc
thực thi còn gây nhiều phiền hà, cản trở.
Những can thiệp phi kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp. Để đối phó với tình hình đó các doanh nghiệp phải
luồn lách, trốn tránh, khai báo thiếu trung thực để trang trải nhiều chi phí phát
sinh. Khắc phục tình trạng này cần tiếp tục cải cách hành chính triệt để, mạnh mẽ,
được tiến hành một cách đồng bộ, kiên quyết.
Từng bước giảm giá các hàng hoá và dịch vụ công, ổn định giá các
hàng hoá đầu vào có tác động làm tăng chi phí sản xuất như giá điện, nước, bưu
chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay,
dịch vụ hành chính.
* Về phía Doanh nghiệp:
-
Tiếp tục chuyển đổi sở hữu, tái cơ cấu bằng nhiều biện pháp: cổ phần
hoá, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể. Cần xác định phạm vi và tiêu chí cụ thể
các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, Nhà nước chiếm cổ phần chi phối.
-
Xây dựng các liên kết kinh tế, kỹ thuật giữa các doanh nghiệp Nhà nước
với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm phát huy sức mạnh,
khai thác lợi thế, khắc phục yếu kém trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1
-
Xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, thương hiệu…
từng bước nâng cao năng lực quản trị trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cũng cần đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đổi mới công
nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến.
-
Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đi đôi với cắt giảm
chi phí nhằm hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều biện pháp
là một trong những yếu tố “quyết định” khả năng cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp.
-
Đổi mới tổ chức quản lý, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, tăng
cường kỹ năng kinh doanh hiện đại, khả năng tiếp cận và phát triển thị trường,
khả năng bán hàng …
Để làm được điều này cần có lộ trình đào tạo, thu hút, sử dụng nhân tài trong
kinh doanh. Đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh trong các doanh nghiệp, các tập
đoàn kinh tế phải thực sự nhà nghề, vừa đảm bảo yêu cầu đạo đức, văn hoá
truyền thống của con người Việt Nam, vừa có đủ kỹ năng, trình độ hội nhập với
thị trường thế giới. Họ không chỉ làm giàu cho bản thân, cho đơn vị mà còn biết
chăm lo lợi ích cộng đồng
3) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài:
-
Đẩy nhanh tiến độ thẩm định cấp phép cho các dự án đầu tư ra nước
ngoài, giảm thiểu các thủ tục hành chính, điều chỉnh lại thủ tục xin phép đầu tư:
Đăng ký trực tuyến, thời gian cấp phép phải được giảm thiểu tối đa.
-
Xây dựng danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với những hình thức ưu đãi phù hợp về tín dụng,
mua ngoại tệ, thuế...xây dựng đề án về các cơ chế hỗ trợ khuyến khích để thúc
đẩy hoạt động Đầu tư ra nước ngoài
4) Tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
1
Việc tổ chức hỗ trợ các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài không thể thực hiện tự phát, nhất thời và khoán trắng cho một vài đơn vị, tổ
chức, cá nhân nào, mà ngược lại, cần được tiến hành có chỉ đạo tập trung, thống
nhất, liên tục trong sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp của một hệ thống các cơ cấu
tổ chức, các cấp, ngành, đơn vị và cá nhân hữu quan:
-
Cần có những bộ phận cơ cấu mang tính liên ngành và chuyên ngành,
cùng các cán bộ chức năng chuyên trách, đủ trình độ và trách nhiệm cao, đảm
nhận việc quản lý nhà nước các hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài,
đồng thời có trách nhiệm và quyền lực cần thiết để nghiên cứu, đề xuất xây dựng,
điều chỉnh và thông qua những văn bản, quy định pháp lý trực tiếp liên quan đến
các hoạt động này.
-
Các đại sứ quán, lãnh sự quán và phòng thương vụ Việt Nam ở nước
ngoài phải tạo điều kiện cao nhất, hỗ trợ toàn diện các doanh nhân và doanh
nghiệp Việt Nam đang và sẽ hoạt động tại quốc gia, vùng lãnh thổ do mình phụ
trách, đặc biệt là hỗ trợ về cung cấp hộ chiếu, xin visa; hỗ trợ về đảm bảo an ninh
tài sản và an toàn cá nhân; hỗ trợ về thủ tục, thậm chí bảo lãnh pháp lý, xin nước
sở tại cho phép thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, các trung tâm thương mại,
các doanh nghiệp và tổ hợp sản xuất kinh doanh của người Việt Nam ở những địa
điểm thích hợp trên nước, vùng lãnh thổ sở tại.
-
Các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam cần có những chi nhánh,
văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng đồng
đông đảo doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam hoặc ở những trung tâm thị trường
tài chính quốc tế lớn để trực tiếp cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và
bảo lãnh cần thiết cho hoạt động đầu tư của Việt Nam ở nước ngoài.
-
Cần nghiên cứu thành lập các Công ty đầu tư tài chính quốc tế thích hợp
có chức năng huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư tài
chính quốc tế, nhằm đa dạng hoá các công cụ đầu tư ra nước ngoài của doanh
nhân và doanh nghiệp Việt Nam...
1
-
Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp Việt
Nam ở từng nước, các hiệp hội ngành hàng đặt trụ sở trong nước và nhiều chi
nhánh đại diện ở nước ngoài; chủ động tham gia và tích cực hoạt động trong các
tổ chức hiệp hội ngành hàng khu vực và quốc tế.
-
Chính phủ cần quan tâm tổ chức các đường dây nóng, các cuộc gặp gỡ,
tiếp xúc định kỳ và không định kỳ giữa Chính phủ - các doanh nhân, doanh
nghiệp Việt Nam – các đại sứ quán, lãnh sự quán, thương vụ nước ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam và của Việt Nam ở các nước thị trường tiềm năng hay nơi có đông
đảo cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động... để nắm bắt
và xử lý nhanh, kịp thời, chính xác, hiệu quả hơn các nhu cầu, vấn đề bức xúc đặt
ra trong quá trình hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nhân, doanh nghiệp
Việt Nam.
-
Việc bảo hộ và hỗ trợ về pháp lý của nhà nước nhằm thành lập những
trung tâm kinh tế thương mại của người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở những
thị trường đã và đang phát triển, truyền thống và mới (Mỹ, Nhật, Đức, Nga và
một số nước Mỹ la tinh, kể cả ở châu Phi) đang và sẽ tiếp tục là một hướng quan
trọng nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả dòng đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra
nước ngoài.
-
Ban hành một số quy định cụ thể về chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; tổ chức các chương trình xúc
tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài kết hợp với đầu tư vào Việt Nam; tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện đề án về các cơ chế hỗ trợ khuyến khích để thúc đẩy hoạt
động Đầu tư ra nước ngoài năm 2007-2010 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ nhằm khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài vào những lĩnh vực, ngành nghề mà Việt Nam muốn khai thác
nguyên liệu, chuyển dịch ra nước ngoài như dệt, may, giày, dép...
5) Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực FDI.
-
Tham gia ký kết các hiệp định đầu tư đa phương và song phương.
1
Hiện nay Việt Nam đã tham gia ký kết vào các hiệp định đầu tư đa phương,
như Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIM), Hiệp
định về vấn đề thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, cùng một số quy
định về vấn đề FDI, ta cần tiếp tục tham gia vào các hiệp định đa phương để gỡ
bỏ những rào cản cho doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Bên cạnh đó ta cần tích cực thúc đẩy việc ký kết các hiệp định về đầu tư với
từng nước cụ thể, hiện nay Việt Nam đã ký kết được với một số đối tác chủ yếu.
Việc ký kết được các hiệp định về đầu tư song phương sẽ bảo vệ các doanh
nghiệp Việt Nam khi đầu tư sang nước đã ký kết và nâng cao khả năng tạo ra lợi
nhuận của các doanh nghiệp khi triển khai dự án ở nước ngoài.
-
Tích cực đàm phán các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nâng cao
hiệu quả của các hiệp định đã ký. Với các biệp pháp cụ thể sau:
Xác định rõ nước cần ký kết. Tập trung với nước đã có quan hệ kinh tế-đầu tư
với Việt Nam, hoặc có tiềm năng phát triển mạnh trong thời gian tới.
Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tham gia đàm phán. Những người
tham gia đàm phán phải hiểu biết kỹ cang về các mẫu hiệp định, các điều khoản
và các khía cạnh pháp lý. Ngoài ra còn hiểu rõ quan hệ kinh tế-đầu tư hiện tại
giữa hai nước...
Tăng cường triển khai các hiêp định đã ký kết. Nâng cao năng lực cuả bộ máy
quản lý và thực hiện Hiệp định, ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thực
hiện Hiệp định đã ký. Đông thời tăng cường trao đổi thông tin giữa Việt Nam và
các nước ký kết để nâng cao hiệu quả thi hành của Hiệp định. Đồng thời phải
tuyên truyền cho các doanh nghiệp để họ hiểu rõ về các Hiệp định tránh đánh
thuế trùng để doanh nghiệp có cơ hội tận dụng các ưu đãi đã được ký kết.
V/ KẾT LUẬN:
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có tính chất hai mặt, một mặt giúp cho các
doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng kinh doanh ra thị trường quốc tế, tiếp
1
cận được với nền khoa học hiện đại, thị trường rộng mở, cơ hội học tập và ứng
dụng các nghiên cứu trong nước vào thực tiễn... Tuy nhiên, nếu không có sự kiểm
soát tốt, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ khiến cho nguồn vốn của Việt Nam bị
chảy ra thị trường quốc tế trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đang rất cần
được đầu tư; lao động trong nước dư thừa, thiếu việc làm trong khi doanh nghiệp
Việt Nam lại đang nỗ lực giải quyết nạn thất nghiệp cho các nước nhận đầu tư.
Vì vậy, với một quốc gia mới bước vào ngưỡng thu nhập trung bình như nước
ta việc cân đối hài hòa các nguồn lực để tạo ra tăng trưởng nhanh và ổn định là
điều điều hết sức quan trọng. Đầu tư ra nước ngoài là một xu thế tất yếu, tuy
nhiên đầu tư chỉ mang lại hiệu quả khi các dòng vốn đầu tư được định hướng và
sử dụng một cách hiệu quả.
1