1
Bảo hiểm vi mô
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính giúp mọi ngời quản lý rủi ro. Tuy nhiên đây không phải là
loại dịch vụ tài chính duy nhất có thể làm đợc điều đó. Trong chơng 8, phần đầu sẽ mô tả
các loại hình dịch vụ tài chính quản lý rủi ro và giải thích các điều kiện giới hạn làm cho dịch
vụ bảo hiểm đợc a dùng hơn tiết kiệm và tín dụng. Phần tiếp theo trình bày một số ví dụ về
các sản phẩm bảo hiểm vi mô do các tổ chức ngân hàng làng x (NHLX) và những ngời
đang thực hiện bảo hiểm vi mô khác đang cung cấp. Phần thứ ba mô tả các cơ cấu phân phối
bảo hiểm khác nhau. Tiếp theo là một số gợi ý thực tiễn để tạo dựng các mối quan hệ với các
nhà cung cấp bảo hiểm truyền thống, một mô hình phân phối đợc a thích. Kết thúc là
những khuyến nghị đối với các Tổ chức ngân hàng làng x đang quan tâm đến việc phân phối
bảo hiểm.
Trọng tâm của chơng này là chỉ ra đợc rằng bảo hiểm là một ngành kinh doanh mới của
các tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) chứ không đơn thuần là một sản phẩm khác. Kinh
doanh bảo hiểm có cơ cấu rủi ro phức tạp hơn rất nhiều so với các hoạt động khác của
TCTCVM, do đó nó cũng đòi hỏi các kỹ năng quản lý khác hơn. Chính vì vậy, NHLX cần
phải bớc đi thận trọng, phải hiểu rằng bảo hiểm hoàn toàn không thuộc lĩnh vực chuyên môn
của họ.
1
8.1 Các dịch vụ tài chính quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro luôn luôn là một mục tiêu của các khách hàng tín dụng nhỏ. Hầu hết các
NHLX thừa nhận rằng các khách hàng thỉnh thoảng sử dụng khoản vay kinh doanh để trả các
chi phí y tế hoặc ma chay, hoặc để giải quyết các nhu cầu tiền mặt trong gia đình. Ngay cả
khi họ không có một vấn đề gì cấp thiết, một số khách hàng cũng chỉ đầu t một phần của
khoản vay vào công việc kinh doanh, phần còn lại họ để dành để có dự trữ nếu họ gặp trở ngại
trong vấn đề trả nợ. Trong những trờng hợp này, khách hàng sử dụng một sản phẩm đợc
thiết kế cho một mục đích để đáp ứng cho một mục đích khác vì đó là một dịch vụ tài chính
duy nhất đang sẵn có.
Các NHLX hớng tới khách hàng đang bắt đầu cung cấp các sản phẩm phù hợp hơn với mục
đích của các khách hàng khi sử dụng các sản phẩm này, bao gồm cả quản lý rủi ro. Ba nhóm
sản phẩm tài chính quản lý rủi ro là (1) các tài khoản tiết kiệm linh hoạt; (2) các khoản vay
khẩn cấp (vay nóng); và (3) bảo hiểm vi mô, bao gồm bảo hiểm cho các trờng hợp nh chết,
ốm đau, tàn tật, và mất trộm.
Về lý thuyết, các sản phẩm quản lý rủi ro này có thể mở rộng phạm vi tiếp cận khách hàng
của tổ chức ngân hàng làng x. Nh đ đợc trình bày ở Chơng 4, các hộ gia đình thuộc diện
nghèo nhất thờng tự loại mình ra khỏi ngân hàng làng x vì họ không muốn liều vay đổntánh
nguy cơ không trả đợc, và bởi vì mọi ngời chỉ trích những trờng hợp trả chậm. Họ cũng có
thể bị NHLX hoặc các thành viên khác gạt ra bởi vì bản thân họ bị xem nh là những rủi ro
tín dụng tồi tệ. Các dịch vụ tài chính quản lý rủi ro có thể thích hợp cho các phân đoạn nghèo
nhất của thị trờng so với sản phẩm cho vay kinh doanh nhỏ truyền thống.
Cung cấp các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt, vay nóng, và bảo hiểm cũng có thể góp phần mở
rộng phạm vi tiếp cận khách hàng của một ngân hàng làng x bằng việc giúp các khách hàng
1
Craig Churchill và Judith Painter viết đề cơng cho chơng này
Bảo hiểm
không đơn
thuần là một
sản phẩm tài
chính khác -
đó là một
ngành kinh
doanh hoàn
toàn khác đòi
hỏi phải có
những chuyên
môn mà các
tổ chức tài
chính vi mô
thờng không
có
Các dịch vụ
tài chính quản
lý rủi ro rất có
tiềm năng
trong việc làm
cho các
NHLX thâm
nhập đợc
rộng và sâu
hơn vào thị
trờng
2
khá giả hơn không bị rơi vào tình trạng đói nghèo. Các dịch vụ tài chính quản lý rủi ro có thể
làm giảm việc phải dùng đến những biện pháp tuyệt vọng, ví dụ nh bán tài sản hoặc vay tiền
của những ngời cho vay li, và có thể giúp tạm thời không trợt sâu hơn vào tình trạng túng
quẫn.
Tiết kiệm, Tín dụng, hay Bảo hiểm?
Mặc dù cả ba có thể giúp làm giảm tình trạng dễ bị tổn thơng, khi nào bảo hiểm là một cách
ứng phó thích hợp hơn tiết kiệm hay tín dụng? Biểu đồ số 8-1 thể hiện các trờng hợp mà các
sản phẩm bảo hiểm có thể xử lý tốt nhất dựa vào hai biến số dới đây:
1. Mức độ không chắc chắn về khả năng, thời điểm, và tần suất xảy ra thiệt hại; và
2. Chi phí của tổn thất tiềm năng.
Bảo hiểm không phải là một ứng phó có hiệu quả trong ba trờng hợp. Thứ nhất, đối với các
tổn thất chắc chắn xảy ra, cơ cấu chia xẻ rủi ro không thể thực hiện đợc (xem hộp 8-1)
2
. Thứ
hai, bảo hiểm cũng không thích hợp cho những tổn thất nhỏ vì chi phí hành chính và giao dịch
sẽ làm cho giá thành sản phẩm trở nên quá đắt. Thứ ba, bảo hiểm không phải luôn luôn có
hiệu quả trong việc giải quyết rủi ro có tính thảm hoạ, khi có nhiều ngời tham gia bảo
hiểm đồng thời bị ảnh hởng bởi một rủi ro (xem Hộp 8-2: Định nghĩa ngắn gọn các thuật
ngữ bảo hiểm)
2
Mặc dù tất cả chúng ta chắc chắn sẽ chết, sự không chắc chắn xuất hiện vì chúng ta không biết khi nào điều đó xảy ra
Hộp 8-1
Định nghĩa về Bảo hiểm vi mô
Thuật ngữ Bảo hiểm th-ờng bị dùng sai. Mọi ng-ời th-ờng nói đến bảo hiểm
khi họ đề cập đến các sản phẩm tiết kiệm hoặc tín dụng có khả năng đáp
ứng chức năng quản lý rủi ro.
Để bảo hiểm thực sự là bảo hiểm, cần phải có một cơ chế chia xẻ rủi ro.
Cơ chế này tập hợp các nguồn lực của số đông để bù đắp cho các tổn thất
của một số ít. Thực tế, những ng-ời mua bảo hiểm trả phí bảo hiểm để
trang trải mức tổn thất trung bình của một nhóm chứ không phải là cho chi
phí thực tế phải gánh chịu khi một sự kiện rủi ro xảy ra. Chia xẻ rủi ro
đem lại lợi ích cho một số ít những ng-ời phải chịu tổn thất, trong khi
số đông cơ bản là chỉ nhận đ-ợc "sự yên tâm về tinh thần" thông qua việc
đóng phí bảo hiểm.
Bởi có cơ chế chia xẻ rủi ro này nên giá trị của một quyền lợi bảo hiểm
liên quan tới chi phí của một tổn thất, chứ không liên quan tới giá trị
3
Biểu đồ 8-1
Tín dụng, tiết kiệm hay bảo hiểm?
Trên cơ sở đánh giá này, các sản phẩm tiết kiệm khác nhau có thể phù hợp hơn đối với các sự
kiện thông thờng trong đời (nh sinh đẻ, cới hỏi, giáo dục). Kể cả những tổn thất không dự
tính trớc nhng có chi phí thấp cũng có thể đợc giải quyết qua các tài khoản tiết kiệm linh
hoạt.
Ngời nghèo không thể lúc nào cũng tiết kiệm để dành cho những ngày khó khăn. Đối với họ,
các khoản vay nóng có thể giải quyết các nhu cầu đột xuất và không thể lờng trớc - đây là
mục đích chính của tài khoản nội bộ. Nếu tài khoản nội bộ không hoạt động hoặc không đợc
chuẩn bị để giải quyết các khoản vay nóng, thì khi đó NHLX có thể cung cấp những khoản
vay đợc thiết kế riêng cho từng cá nhân để đáp ứng các nhu cầu cụ thể của các thành viên
(xem Chơng 6)
Mức độ không chắc chắn
Chi phí
tổn thất
t-ơng
đối
Tiết
kiệm và
tín dụng
linh
hoạt
Bảo hiểm
Tiết kiệm
linh hoạt
Đ-ợc bảo
hiểm một
phần
Chắc
chắn
Rất chắc
chắn
Nhỏ
Rất
lớn
4
Tiết kiệm và tín dụng linh hoạt hơn rất nhiều so với bảo hiểm. Ví dụ nh, một hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ sẽ chẳng giúp gì đợc cho những ngời bị trộm cớp hoặc bị cháy nhà. Hầu
hết các tổn thất xảy ra cho những hộ gia đình có thu nhập thấp là những tổn thất nhỏ. Để giúp
giảm tình trạng dễ bị tổn thơng của họ thì tài khoản tiết kiệm linh hoạt và các khoản vay
nóng là những đối sách thích hợp hơn để giải quyết phần lớn những rủi ro của họ. Trớc khi
mạo hiểm tiến vào thế giới khó hiểu của bảo hiểm, một NHLX sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn
rất nhiều nếu NH bắt đầu bằng việc phát triển những dịch vụ tài chính quản lý rủi ro này. Một
khi đ giúp đợc các khách hàng của mình giảm khả năng phải đối mặt với hầu hết các rủi ro
của họ, một tổ chức có thể cân nhắc làm thế nào để giảm nguy cơ dễ bị tổn thơng của khách
hàng đối với một số ít, nhng sẽ đắt hơn nhiều, các rủi ro có thể đợc bảo hiểm.
8.2 Các sản phẩm bảo hiểm vi mô
Các sản phẩm bảo hiểm dành cho các khách hàng của NHLX cần phải thích ứng với rất nhiều
rủi ro khác nhau mà họ phải đối mặt. Nguy cơ của họ trớc thiệt hại về tài chính là rất nghiêm
trọng trong trờng hợp ốm đau kéo dài, tổn thất về tài sản, tàn tật, và tử vong. Đối với mỗi
loại trong những rủi ro này có thể sử dụng một loại hình bảo hiểm khác nhau.
8.1 Các loại hình bảo hiểm
Có một số loại hình bảo hiểm khó triển khai hơn so với các loại hình bảo hiểm khác
3
. Nhìn
chung, Bảo hiểm nhân thọ là đơn giản nhất vì (1) sự kiện bảo hiểm -tử vong- chỉ xảy ra một
3
Các loại hình bảo hiểm khác bao gồm bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm các thảm hoạ; chúng không đợc đề cập đến ở
đây vì các NHLX vẫn cha có kinh nghiệm về các loại hình dịch vụ này
Hộp 8-2
Định nghĩa các thuật ngữ bảo hiểm
Rủi ro đạo đức (Moral Hazard). Các nguy hiểm nảy sinh từ bất kỳ một đặc
tính cá nhân phi vật chất nào làm cho ng-ời tham gia bảo hiểm tăng khả
năng tổn thất hoặc mức độ nghiêm trọng của tổn thất. Ví dụ, những thói
quen xấu nh- nghiện r-ợu làm tăng khả năng chết sớm và đòi bồi th-ờng chi
phí y tế cao; ng-ời mua bảo hiểm vật nuôi có thể không trông nom con bò
của mình cho chu đáo vì anh ta nghĩ rằng anh ta sẽ đ-ợc thanh toán tiển
bảo hiểm nếu con gia súc bị chết.
Lựa chọn ng-ợc (Adverse Selection). Xu h-ớng của những ng-ời có cơ hội
tổn thất cao hơn mức trung bình tìm kiếm bảo hiểm ở mức tiêu chuẩn (trung
bình), nếu không đ-ợc kiểm soát bằng quá trình lập hợp đồng bảo hiểm thì
lựa chọn ng-ợc sẽ mang lại mức tổn thất cao hơn dự định.
Rủi ro kết hợp (Covariance). Xu h-ớng cho hoặc (1) nhiều hộ gia đình bị
ảnh h-ởng bởi một rủi ro cùng một lúc hoặc (2) một loạt rủi ro cùng xảy
ra (cùng một thời điểm hay cùng một hoàn cảnh).
Tái bảo hiểm (Reinsurance). Chuyển một phần hoặc tất cả rủi ro đ-ợc bảo
hiểm từ nhà bảo hiểm này sang một nhà bảo hiểm khác. Tái bảo hiểm cho
phép các nhà bảo hiểm chia sẻ rủi ro với các nhà bảo hiểm ở các khu vực
khác, phát triển có hiệu quả cơ chế chia xẻ rủi ro bằng cách kết hợp các
5
lần; (2) việc xác minh sự kiện đó đ xảy ra khá dễ dàng, (3) những vấn đề rủi ro về đạo đức ít
xảy ra vì hầu hết những ngời tham gia bảo hiểm không chủ ý làm tăng các cơ hội cho phép
sự kiện đó xảy ra bằng cách thực hiện các hành vi có tính rủi ro. Một số loại hình nhất định
của bảo hiểm nhân thọ, ví dụ bảo hiểm niên kim và bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, thì cực kỳ
phức tạp.
Bảo hiểm tài sản rất phức tạp vì trộm cắp, hoả hoạn, hoặc các thiệt hại khác có thể xảy ra lặp
đi lặp lại, và rất khó xác định là thiệt hại đó đ xảy ra, đặc biệt là trong trờng hợp trộm cắp.
Hơn nữa, những rủi ro đạo đức trong bảo hiểm tài sản là rất đáng kể: Một ngời tham gia bảo
hiểm có thể sẽ không quan tâm đầy đủ đến tài sản đ đợc bảo hiểm.
Loại hình bảo hiểm khó triển khai nhất là Bảo hiểm y tế. Một phần của sự khó khăn này xuất
phát từ thực tế là một cơ quan khác, cơ quan cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế, cũng liên quan
tới vấn đề này. Bảo hiểm y tế rất phức tạp cũng còn vì có rất nhiều các loại bệnh tật và
phơng pháp điều trị khác nhau, và vì nó còn đòi hỏi sự kiểm soát rất đáng kể đối với hành vi
lừa đảo, rủi ro thuộc về đạo đức, và việc sử dụng quá mức cần thiết
4
.
8.2 Các vấn đề trong phân phối
NHLX cần phải chú ý đến ba vấn đề cơ bản liên quan đến việc phân phối dịch vụ khi xem xét
phát triển một sản phẩm bảo hiểm : (1) phân phối kết hợp, (2 hợp đồng bảo hiểm cá nhân hay
hợp đồng theo nhóm nhóm, và(3) các sản phẩm tự nguyện hay bắt buộc
5
.
Một trong những thách thức lớn nhất của việc cung cấp bảo hiểm vi mô là chi phí khá cao cho
việc quản lý một số lợng lớn những giao dịch nhỏ. Thách thức này cũng giống nh đối với
các sản phẩm tài chính vi mô khác, song với bảo hiểm thì khoản tiền đóng phí có xu hớng
còn nhỏ hơn nữa.
Giải pháp tốt nhất cho vấn đề này là phân phối kết hợp với một dịch vụ tài chính khác do đó
giao dịch bảo hiểm có thể đợc kết hợp với việc trả nợ hoặc gửi tiết kiệm. Tuy nhiên nếu bảo
hiểm đợc gắn với tín dụng thì chỉ những ngời có một khoản tiền vay cha thanh toán đợc
tham gia bảo hiểm. Sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm sẽ mở rộng thị trờng tiềm năng và
làm tăng giá trị của dịch vụ này, điều này củng cố tầm quan trọng của khẩu hiệu tiết kiệm là
hàng đầu.
Một vấn đề khác ảnh hởng đến chi phí phân phối là nên phân phối bảo hiểm theo nhóm hay
cho từng cá nhân. Các nhà cung cấp bảo hiểm cho cá nhân đánh giá rủi ro gắn liền với mỗi
ngời tham gia bao hiểm và có thể điều chỉnh chính sách của họ theo yêu cầu. Còn bảo hiểm
nhóm cho phép có mức phí bảo hiểm thấp hơn bằng cách bảo hiểm cho nhiều ngời trong
cùng một hợp đồng. Bằng việc đa một số đông ngời vào cùng một hợp đồng, nhà bảo hiểm
giảm đợc chi phí tiếp thị và chi phí hành chính. Nhìn chung, các sản phẩm theo nhóm thích
hợp hơn đối với thị trờng bảo hiểm vi mô.
Một quyết định quan trọng khác là liệu bảo hiểm nên là bắt buộc hay tự nguyện. Có thể áp
dụng bất cứ cách nào, tuy nhiên việc tham gia bảo hiểm phải nhất quán trong mỗi NHLX. Nói
cách khác, nếu một NHLX quyết định có một chơng trình bảo hiểm, thì tất cả các thành viên
4
Ví dụ về các loại hình sản phẩm bảo hiểm này, xin mời xem Brown and Churchill (2000)
5
Rất nhiều các vấn đề khác liên quan đến sản phẩm định giá, định kỳ đóng phí,các qui trình thẩm định, và kiểm soát đối
với lựa chọn ngợc (adverse selection), rủi ro đạo đức, và lừa đảo- không đợc đề cập đến ở chơng này. Xin xem Brown and
Churchill (1999) để biét thêm chi tiết. Tuy cần phải hiểu đợc những vấn đề này, các NHLX áp dụng mô hình đối tác-đại lý
(partner-agent model) có thể dựa vào các đối tác của họ để giải quyết các vấn đề này
Tiết kiêm là
hàng đầulà
một khẩu hiệu
phù hợp, vì các
dịch vụ tiết kiệm
không kỳ hạn và
thuận tiện là một
giải pháp tốt hơn
đối với hầu hết
các khủng hoảng
mà các hộ gia
đình có thu nhập
thấp gặp phải, đó
không phải là
các khủng hoảng
gây ra các tỏn
thất lớn
Hình thức phân
phối kết hợp tốt
nhất là một hợp
đồng bảo hiểm
theo nhóm trên
cơ sở tự nguyện
kết hợp với một
dịch vụ tiết
kiệm. Thật
không may, đây
là một sự kết hợp
khó khăn.
Một số các sản
phẩm bảo hiểm
rất khó cung cấp
so với các loại
hình bảo hiểm
khác. Bảo hiểm
nhân thọ cơ bản
rất đơn giản,
trong khi bảo
hiểm y tế thì
phức tạp hơn rất
nhiều.
6
nhóm sẽ phải tham gia. Vì thành viên phải cùng chịu trách nhiệm về các khoản vay của
nhóm, thật không công bằng cho một số thành viên khi họ phải đóng phí bảo hiểm và do đó
làm cho nhóm thoát khỏi gánh nặng phải trả thay trong trờng hợp họ không thanh toán đợc
nợ do một rủi ro đợc bảo hiểm gây ra, trong khi những ngời khác tiếp tục dựa vào nhóm khi
họ gặp khó khăn. Nhìn chung, bảo hiểm tự nguyện có lợi hơn cho khách hàng, trong khi bảo
hiểm bắt buộc thì dễ hơn và ít rủi ro hơn cho nhà bảo hiểm, nh đợc tổng kết ở Bảng 8-1
Bảng 8-1
Những thuận lợi của bảo hiểm tự nguyện so với bảo hiểm
bắt buộc
Tự nguyện Bắt buộc
1. Bảo hiểm tự nguyện đòi hỏi khách hàng và
nhân viên có sự hiểu biết về sản phẩm. Điều
này đòi hỏi một sự đầu t thoả đáng trong việc
phát triển các điều khoản rõ ràng, có thể truyền
đạt đợc dễ dàng, cho mục đích marketting.
2. Nó giúp cho tổ chức này đánh giá nhu cầu
đối với sản phẩm
3. Một dịch vụ tự nguyện cung cấp một giá trị
tốt hơn cho khách hàng vì nó không bắt buộc
họ mua những sản phẩm mà họ không muốn
1. Bảo hiểm bắt buộc yêu cầu một hệ thống
quản lý và theo dõi đơn giản. Theo dõi bảo
hiểm đối với toàn bộ khách hàng dễ hơn là
phải phân biệt giữa ngời đợc bảo hiểm và
ngời không đợc bảo hiểm
2. Nó làm giảm nguy cơ của việc lựa chọn
ngợc. Vì tất cả các khách hàng đ đợc yêu
cầu tham gia, sẽ không có việc những ngời có
mức rủi ro cao chiếm một tỷ lệ phầm trăm cao
trên tổng số khách hàng.
3. Nó giúp cho nhà cung cấp bảo hiểm tiếp cận
một số lợng lớn ngời tham gia bảo hiểm,
điều đó cho phép thu lợi do qui mô và tăng khả
năng là những tổn thất thực tế sẽ gần với các
tổn thất dự kiến.
Điểm khởi đầu
Mặc dù trong chơng này có khuyến cáo là các NHLX nên cung cấp bảo hiểm thông qua hợp
tác với một công ty bảo hiểm chính thức (mô hình đối tác-đại lý), đối tác không tồn tại ở mọi
nơi. Cho đến tận khi thị trờng bảo hiểm phát triển, bảo hiểm sinh mạng gắn với tín dụng là
một sản phẩm mà một NHLX có khả năng tự cung cấp đợc.
Bảo hiểm tín dụng bảo hiểm số d cha thanh toán trong một khoản vay của khách hàng nếu
ngời đó chết trớc khi trả đợc khoản nợ đó. Đôi khi loại hình này đợc mở rộng bao gồm
cả trợ cấp bằng tiền mặt cho gia đình cho các chi phí chôn cất. Thậm chí có thể có một khoản
trợ cấp tiền mặt cho ngời vay nếu một thành viên trong gia đình bị chết trong thời hạn vay
tiền. Loại hợp đồng bảo hiểm này rất có tiềm năng trong việc giúp đỡ cho cả tổ chức tài chính
(qua việc duy trì chất lợng vốn vay) và khách hàng hoặc gia đình của họ
Loại hình bảo
hiẻm duy nhất
mà NHLX có
thể tự triển
khai là bảo
hiểm nhân
mạng, nhng
thậm chí dịch
vụ tơng đối
dễ này cũng
có thể trở nên
phức tạp