A. MỞ ĐẦU
Tội phạm học là ngành khoa học thực nghiệm nghiên cứu về tội phạm hiện
thực nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm nhầm mục đích phòng ngừa
tội phạm. không biết bắt đầu từ khi nào, những bặc tiền bối của chúng ta đã có cái
giải thích về tội phạm học. Tuy nhiên các giải thích này còn mang tính thần bí siêu
nhiên. Tuân theo theo sự phát triển cuả xã hội con người cũng đã có những tư
tưởng đầu tiên về tội phạm học, dù là vậy nhưng trong quãng thời gian ban đầu
chưa có một công trình nghiên cứu nào về tội phạm học cho đến khi Cessa Beccara
cho rời đời tác phẩm “tội phạm và hình phạt” năm 1764 mới đánh dấu bước ngoặt
vô cùng quan trong cho sự ra đời của một nghành khoa học. Tuy nhiên mãi đến tận
năm 1885 thuật ngữ tội phạm học mới được ra đời và nó là một vấn đề nan giải của
xã hội. Làm thế nào để hạn chế sự phát triển của tội phạm là một câu hỏi được đặt
ra đối với tắt cả các quốc gia trên thế giới. Để trả lời cho câu hỏi này trước hế ta
phải tìm ra nguyên nhân của tội phạm để từ đó mới có thể đưa ra phương hướng
giải quyết phù hợp, nhầm đáp ứng yêu cầu đó ngành nghiên cứu tội phạm học đã ra
đời, nhiều thuyết tội phạm học đã được sản sinh. Một trong thuyết đó là thuyết rối
loạn tổ chức xã hội của Emile Durkheim để làm rõ hơn về thuyết này em xin chọn
đề tài “Trình bày hoàn cảnh ra đời, nội dung của thuyết rối loạn tổ chức xã hội
của Emile Durkheim. Đánh giả khả năng áp dụng thuyết này trong việc giải
thích nguyên nhân của tội phạm và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam” để đi sâu
và hiểu rõ hơn.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thuyết rối loạn tổ chức xã hội
1. Hoàn cảnh ra đời
Thuyết rối loạn tổ chức xã hội ra đời vào cuối thế kỉ XIX đến thập niên 20 của
thế kỉ XX. Đây là thời kì xã hội các nước phương tây thay đổi một cách mạnh mẽ
về kinh tế dẫn đến sự phân công lao động trong xã hội tạo ra những tầng lớp xã hội
khác nhau. Do đó nhiều trường phái ra đời ở thời kì đầu có nguồn gốc từ việc
nghiên cứu những khu định cư và cộng đồng thành thị cũng như phong trào sinh
thái của con người đầu thế kỉ XX. Và thuyết rối loạn xã hội học cũng ra đời vì thời
điểm này con người tranh giành nhau về nơi ở về sinh thái của con người tranh
giành nhau về nơi ở về sinh thái làm cho cuộc sống xã hội trở nên rối loạn dẫn tới
tội phạm diễn ra rất nhiều.
2. Giới thiệu về học giả Emile Durkheim
Emile Durkheim (1858 – 1917) sinh ra ở E’pial của nước Pháp. Ông là nhà xã
hội học, nhân loại học lỗi lạc. Ông được coi là một trong những người tiên phong
sang lập ra chuyên ngành xã hội học. Các công trình nghiên cứu của ông thuộc lĩnh
vực xã hội khá đa dạng: giáo dục, tội phạm, tôn giáo, tự sát,…
Ông là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tác phẩm có đóng góp
nhiều nhất đối với tội phạm học là Sự phân công lao động trong xã hội (1893)
3.Quan điểm của Emile Durkheim
Trong công trình “Sự phân công lao động trong xã hội”, Emile Durkheim cho
rằng sự thay đổi xã hội nhanh chóng sẽ đưa tới sự gia tăng về phân công lao động
và như vậy tạo ra sự mất cân bằng trong xã hội, làm phá vỡ các chuẩn mực và giá
trị cuộc sống cũng như phá vỡ các chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con
người. Đó chính là nguyên nhân phát sinh các hành vi các hành vi lệch lạc trong xã
hội, tội phạm và hành vi tự tử.
4. Nội dung quan điểm của Emile Durkheim về nguyên nhân tội phạm
Emile Durkheim nghiên cứu vấn đề trật tự xã hội như thế nào để duy trì các
loại xã hội khác nhau. Ông tập trung nghiên cứu về sự phân công lao động, sự khác
nhau giữa các xã hội truyền thống và xã hội hiện đại. Ông cho rằng, sự thay đổi xã
hội nhanh chóng sẽ đưa tới sự gia tăng về phân công lao động và như vậy, nó sẽ tạo
ra trạng thái hỗn độn, thiếu sự quan tâm giữa con người với con người, đưa đến
tình trạng thiếu hụt chuẩn mực và giá trị cuộc sống cũng như phá vỡ các chuẩn
mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người. Ông gọi trạng thái này là “tình trạng
vô tổ chức” (Anomie). Từ trạng thái vô tổ chức sẽ phát sinh ra các hành vi lệch lạc
trong xã hội, tội phạm, hành vi tự tử. Hay nói cách khác, tình trạng vô tổ chức
trong xã hội là nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Tuy nhiên, ông khẳng định sự lệch lạc hay tội phạm không có gì bất thường.
Nó không chỉ cần thiết đối với các điều kiện cơ bản của tất cả đời sống xã hội mà
nó còn có các chức năng xã hội sau:
Sự lệch lạc khẳng định giá trị và tiêu chuẩn văn hóa: Cũng như không xã hội
nào có thể tồn tại nếu không có những giá trị văn hóa, sự lệch lạc là không thể
thiếu. Nếu một xã hội như một tu viện hoàn hảo gồm toàn những cá thể gương mẫu
thì tội phạm, hiểu theo nghĩa thông thường sẽ không tồn tại, nhưng khi đó một lỗi
lầm nhỏ mà trong xã hội bình thường coi là không đáng kể sẽ lại trở thành tội
phạm. Thế nên, một người gần như hoàn hảo sẽ thẳng thắn đánh giá những thất bại
nhỏ nhặt của mình với sự nghiêm khắc mà đa số chỉ dành cho sự phạm tội.
Phản ứng với sự lệch lạc làm sáng tỏ ranh giới đạo đức: theo Durkheim, phản
ứng với niềm tin và hành động của một số người lệch lạc làm sáng tỏ ranh giới
hành vi có thể chấp nhận được với mọi người trong một xã hội. Ví dụ một người
uống rượu vào bữa tối có thể được cộng đồng coi là bình thường nhưng khi anh ta
uống rượu vào bữa sáng thì sẽ bị cộng đồng cho là đã nghiện rượu. Phản ứng của
cộng đồng trong trường hợp này cho thấy ranh giới về thời điểm của hành vi uống
rượu. Không những đối với người có hành vi lệch lạc, những người khác cũng thấy
được đâu là ranh giới của hành vi uống rượu một cách đúng đắn.
Phản ứng với sự lệch lạc thúc đẩy tính thống nhất của xã hội: khi cộng đồng
phản ứng với một sự lệch lạc, họ đã tự nhắc bản thân mình các tiêu chuẩn văn hóa
kết hợp họ với nhau. Đồng thời nếu sự lệch lạc không bị phản ứng thì định chuẩn
về những gì được xem là đúng đắn sẽ bị kéo giãn ra và phá vỡ tính ổn định. Ngày
làm việc ở công sở bắt đầu từ 8 giờ sáng nhưng nó sẽ trở thành 8 giờ 30 hoặc muộn
hơn nếu những người đi muộn không bị phản ứng.
Sự lệch lạc khuyến khích thay đổi xã hội: vì nó đưa ra các biện pháp thay thế
các giá trị và tiêu chuẩn đang tồn tại. Các giá trị và tiêu chuẩn thay đổi theo thời
gian, những gì ngày hôm nay được xem là sự lệch lạc có thể trở thành tiêu chuẩn
cho ngày mai. Trong thập niên 1950, nhạc rock and roll đều bị đa số người Mỹ cho
là làm hư hỏng thanh niên thì ngày nay đã trở thành một phần trong trào lưu văn
hóa Mỹ.
5. Ý nghĩa của thuyết Rối loạn tổ chức xã hội đối với sự phát triển của tội
phạm học
Thuyết rối loạn tổ chức xã hội đã đạt được góc nhìn khách quan hơn về
nguyên nhân của tội phạm khi lý giải về sự thay đổi đột biến trong xã hội, sự phân
chia, khoảng cách trong xã hội làm con người có những hành vi lệch lạc tạo nên
tình trạng vô tổ chức mới là nguyên nhân dẫn đến tội phạm. Bên cạnh đó đã sử
dụng các số liệu thống kê chính thức về tội phạm, dân số, dân tộc học và đã phân
tích một cách có hệ thống, logic để tìm ra nguyên nhân của tội phạm dưới góc độ
tội phạm học cũng như điều tra, truy tìm người phạm tội trong điều tra hình sự.
Mỗi nghiên cứu của các nhà xã hội học vừa bổ sung thêm về nguyên nhân tội
phạm, vừa giúp tìm ra cách ngăn ngừa tội phạm, tình hình tội phạm qua các giai
đoạn từng thời kì.
II. Khả năng ứng dụng thuyết rối loạn tổ chức xã hội này vào hoàn cảnh
Việt Nam.
1. Nguyên nhân của tội phạm ở Việt Nam
Nguyên nhân khách quan
Tàn dư lạc hậu của chế độ cũ vẫn còn tồn tại và gây ảnh hưởng tiêu cực đến
nhận thức cũng như hành vi của một số đông người Việt Nam: hạ tầng cơ sở - kỹ
thuật còn nghèo nàn, lạc hậu; thượng tầng kiến trúc chưa phát triển đầy đủ, nhất là
hệ thống các quy phạm pháp luật. Các biểu hiện về quan liêu cửa quyền, tham
nhũng, tình trạng mê tín dị đoan…vẫn là những vấn đề đáng lo ngại.
Các thế lực phản động trong nước và nước ngoài vẫn điên cuồng chống đối.
Chúng lợi dụng những người dân còn hạn chế về mặt nhận thức để xúi giục họ đi
vào con đường phạm tội nhằm đạt được mục đích phá hoại phá hoại, chống đối
chính quyền.
Tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên thế giới diễn ra khá phức tạp,
đã tác động xấu đến sự hình thành và phát triển tội phạm ở nước ta, làm nhiều loại
tội phạm mới nảy sinh, phát triển như: tội phạm khủng bố quốc tế, tội phạm rửa
tiền, sử dụng bom thư, ăn cắp cước điện thoại qua vệ tinh; rút tiền ngân hàng bằng
các thẻ tín dụng giả, phá song, ...
Nguyên nhân chủ quan
Con người ngày càng đề cao “sức mạnh” của đồng tiền, vị kỷ cá nhân, coi
thường pháp luật, kể cả đi vào con đường phạm tội, hoạt động tệ nạn xã hội... do bị
tác động của lối sống thực dụng, tiền tệ hoá các quan hệ xã hội khiến cho đạo đức
xã hội bị xuống cấp, ý thức chấp hành pháp luật của người dân giảm sút.
Công tác quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều sơ hở, thiếu sót, chưa đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo
điều kiện tốt để tội phạm, tệ nạn xã hội tiếp tục hoạt động và phát triển.
Quản lý văn hoá - tư tưởng: do chưa quản lý tốt các sản phẩm văn hoá, một số
văn hoá phẩm có nội dung không lành mạnh đã gây ra những ảnh hưởng, tác động
xấu đến một bộ phận dân cư, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên.
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự chưa được thường xuyên quan tâm, đầu
tư đúng mức. Có nơi, có lúc còn buông lỏng, chưa có các biện pháp hữu hiệu trong
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp
luật khác...
2. Liên hệ ứng dụng trong việc giải thích về nguyên nhân của tội phạm ở
Việt Nam
Thuyết rối loạn tổ chức xã hội tập chung giải thích nguyên nhân của tội phạm
là do môi trường sống. Sự thay đổi một cách nhanh chóng của xã hội luôn mang
đến những mặt tiêu cực bên canh những mặt tích cực. Sự ảnh hưởng tiêu cực ấy thể
hiện ở chỗ xã hội tạo ra sự phân cấp ngày càng rõ rệt khiến cho mối quan hệ giữa
con người với con người trở nên lạnh nhạt, ít quan tâm đến nhau, các cuẩn mực xã
hội điều chỉnh hành vi của con người bị phá vỡ dẫn đến tình trạng phạm tội ngày
càng tăng cao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tội phạm ở
Việt Nam trong những năm gần đây.
Hiện nay nước ta là một trong những nước đang phát triển rất mạnh mẽ. Tác
động của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội, quan
điểm đạo đức của đất nước ta. Xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng
hiện đại, tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh… thì sự chênh lệch về giàu nghèo
ngày càng lớn, trong khi đó lại thường xuyên xảy ra các biến động lớn làm cho
kinh tế xã hội bị ảnh hưởng như nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng , lạm phát và
khủng hoảng kinh tế, chưa có cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành nghề hợp lý nên
không điều chỉnh được tỷ lệ di dân tự do từ các vùng nông thôn lên các thành phố
lớn để làm ăn và sinh sống với nhiều ngành nghề khác nhau đã tạo ra các sức ép
lớn gây mất trật tự trị an, tình hình các tội phạm về trộm cắp tài sản, buôn bán ma
tuý, mại dâm… ngày càng gia tăng.
Thực trạng xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy con người đang có xu hướng
sống ích kỷ và vụ lợi hơn bởi lối sống chạy theo đồng tiền. Tiền xâm nhập vào
nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn
hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc
ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền
bằng tiền... chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay nhưng hiện vẫn đang
diễn ra phức tạp và là nỗi lo lắng của xã hội.
Ảnh hưởng của môi trường sống đến hành vi phạm tội được thể hiện một cách
rõ rệt trong xã hội Việt nam hiện nay, mà ví dụ cụ thể chính là hiện tượng trẻ hóa
tội phạm và hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội ngày càng
nghiêm trọng hơn. Nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng như vụ án Lê Văn Luyện tại
Bắc Giang, ...
Theo số liệu của Bộ Công an, hiện cả nước có khoảng 20.000 trẻ em trong độ
tuổi tới trường lang thang bụi đời, tụ tập băng nhóm ngoài xã hội, đó chính là mầm
mống của tội phạm đã và đang nảy sinh trong lứa tuổi vị thành niên.
Nguyên nhân cho tình trạng này là do xã hội phát triển, gắn với các vấn đề
phát sinh từ thực tiễn cuộc sống và các áp lực của xã hội lên mỗi cá nhân và gia
đình càng nhiều, xã hội luôn luôn thay đổi, vì thế tâm lý, nhận tức và tư duy của
mỗi thành viên trong xã hội ngày càng cao, chất lượng cuộc sống ngày càng tốt
hơn..., nên các thành viên trong xã hội, và thế hệ trẻ được gia đình, xã hội, nhà
trường chăm sóc tốt hơn. Chính điều này đã làm cho con người và nhất là trẻ em
phát triển nhanh hơn cả về hình thể và nhận thức, tâm lý và khả năng tiếp nhận các
thông tin. Do đó, trẻ vị thành niên dễ mắc phải các sai phạm, các loại tội mới như:
Hiếp dâm, tội phạm có liên quan đến công nghệ thông tin, nghiện hút ma tuý, cố ý
gây thương tích, thậm chí giết người…
Hiện nay nhiều bậc cha mẹ, và những người lớn tuổi trong gia đình không có
nhiều thời gian để quan tâm đến con cái mà chỉ mải mê kiếm tiền nên đã vô hình
chung tạo ra sự xa cách, lãnh cảm, không có sự thân mật giữa các bậc cha mẹ, ông
bà với con cái như trước đây, đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện
nay có rất nhiều em nhỏ, trẻ em vị thành niên đã mắc phải bệnh trầm cảm, nhiều
em cảm thấy mình bị lạc lõng và bị bỏ rơi nên lao vào con đường nghiện game
online, các trò chơi điện tử, các tệ nạn xã hội… với mục đích tìm các cảm giác lạ,
tìm các niềm vui mới trong xã hội vốn đã đầy rẫy sự phức tạp với vô vàn các tác
động xấu.
Như vậy, nguyên nhân về sự tác động của môi trường sống đến người phạm
tội mà thuyết rối loạn tổ chức xã hội đưa ra là một trong những nguyên nhân chủ
yếu của tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù quá trình nghiên cứu đã diễn ra
cách đây những một thế kỷ nhưng khả năng áp dụng của học thuyết vào việc giải
thích nguyên nhân của tội phạm trong xã hội hiện đại vẫn rất chuẩn xác.
Từ đó ta có thể thấy được tác dụng được thuyết này đối với tình hình tội phạm
ở Việt Nam đó là:
Thứ nhất: Qua việc ứng dụng thuyết này thì những nhà tội phạm học có thể
nghiên cứu được về tội phạm ở Việt Nam thông qua việc nghiên cứu được nguyên
nhân của tội phạm, tình hình của tội phạm. Chính từ tình hình xã hội mà các nhà
nghiên cứu tội phạm học có thể biết được rằng ở những khu vực nào là nơi có tình
hình xã hội phức tạp thì tình hình tội phạm ở những nơi đó cũng phức tạp và có thể
là diễn ra mạnh mẽ hơn, nhiều hơn những nơi khác, tính chất của tội phạm cũng
mang tính nguy hiểm cao hơn. Từ đó tránh những trái trạng “vô tổ chức của xã
hội”, tăng cường sự quan tâm giữa con người với con người, sự quan tâm giữa cơ
quan nhà nước với công dân, và tăng cường đề ra những giá trị sông tích cực, lành
mạnh để tránh đc sự rối loạn xã hội.
Thứ hai: Từ việc nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm, tình hình của tội
phạm giúp cho việc đề ra các hình phạt đối với từng tội mà tội phạm được thực
hiện.
Thứ ba: bên cạnh việc đề ra các hình phạt thì từ đó đề ra được các biện pháp
phòng chống tội phạm. Hình phạt với những người phạm tội được sử dụng để củng
cố giá trị, để nhắc nhở người đó cái gì đúng, sai, răn đe để học không phạm tội
cũng như không tái phạm
C. KẾT LUẬN
Tội phan học là ngành khoa học xã hội có vai trò đắc lực trong kiểm soát, đẩy
lùi tội phạm, duy trì an ninh, trật tự an toàn xã hội. Với tính chất là khoa học đa
ngành nghiên cứu về tội phạm, việc nghiên cứu về tội phạm nói chung, nguyên
nhân của tội phạm nói riêng để làm sáng tỏ vấn đề tại sao con người ta phạm tội
cũng như tìm ra hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm hữu hiệu. từ những
phân tích trên có thể cho ta thấy thuyết rối loạn tổ chức xã hội giải thích về nguyên
nhân tội phạm và là công cụ hữu ích để phòng ngừa tội phạm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường đại học luật Hà Nội. Giáo trình tội phạm học. Nhà xuất bản công an
nhân dân.
2. PGS. TS Dương Tuyết Miên. Tội phạm học đương đại. Nhà xuất bản chính
trị hành chính.
3. TS.Dương Tuyết Miên. Tội phạm học nhập môn. Nahf xuất bản công an
nhân dân.
4. Trường đại học luật TPHCM. Giáo trình tội phạm học. Nhà xuất bản hồng
đức-hiệp hội luật sư Việt Nam.
5. Đại học Huế, Trung tâm đào tại từ xa, Giáo trình tội phạm học, Nxb.
CAND, Hà Nội
6. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình tội phạm học, Nxb. ĐHQGH
7. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt Nam, một số
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. CAND, Hà Nội
8. TS. Trần Hữu Trang. Bàn về nguyên nhân của tội phạm