LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một quốc gia láng giềng của Việt Nam, được xem là “núi liền
núi, sông liền sông”, giáp Việt Nam tại biên giới phía Bắc Việt Nam. Hiện nay,
Trung Quốc là một trong bốn nước giống Việt Nam xây dựng đất nước đặt dưới
chế độ Xã hội Chủ nghĩa, phấn đấu tiến lên Xã hội Chủ nghĩa, lại là một cường
quốc lớn trên thế giới. Việt Nam và Trung Quốc cũng có mối quan hệ lâu đời, trải
qua nhiều thăng trầm của lịch sử, sự phát triển hay thụt lùi quan hệ hai đước đều
ảnh hưởng tới tình hình mỗi nước. Chính vì những điều đặc biệt đó, chính sách đối
ngoại của Trung Quốc luôn được đặt ở vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam.
Hiện nay Việt Nam và Trung Quốc đang xây dựng, đẩy mạnh quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện, tức là hai bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn
nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mà các
bên cùng có lợi. Đồng thời hai bên còn xây dựng sự tin cậy lẫn nhau ở cấp chiến
lược. Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác giữa hai nước phát triển nhanh
chóng và sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Tuy
nhiên bên cạnh hợp tác chiến lược cùng phát triển, Việt Nam và Trung Quốc vẫn
còn xảy ra một số tranh chấp chưa có tiếng nói chung, phải kể đến là tranh chấp
chủ quyền biển đảo trên Biển Đông về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong vấn đề này Việt Nam vừa kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa phải hết sức giữ
vững môi trường hòa bình, hợp tác để phát triển.
Bên cạnh tình tình quan hệ hai nước thì hiện nay, tình hình thế giới cũng có
những chuyển biến hết sức phức tạp, khi cuộc công nghiệp 4.0 được hình thành,
các cường quốc, siêu cường quốc muốn củng cố vị thế, sự bá quyền của mình trên
thế giới, trong khi đó các đước đang phát triển lại phải hòa mình vào toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế. Các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các nước diễn ra và ảnh hưởng
đến kinh tế, hòa bình và ổn định thế giới, có thể kể đến là cuộc chiến tranh thương
mại Mỹ Trung 2018.
Để vừa bảo đảm được quyền lợi Quốc gia vừa tiến đến xây dựng quan hệ
láng giềng vững mạng tốt đẹp với Trung Quốc thì đỏi hỏi chính sách đối ngoại với
Trung Quốc phải dựa trên thực tiễn tình hình hiện nay, phát hiện ra những thuận
lợi, khó khăn đối với chính sách đối ngoại từ đó hoạch định chính sách chính xác,
đúng đắn, mang tính chiến lược. Để hiểu rõ thêm phần não những khó khăn và lợi
ích mà tình hình hiện nay đặt ra đối với chính sách đối ngoại VN với Trung Quốc,
tôi lựa chọn đề tài: “” và trình bày bài tiểu luận theo ba phần:
Nội dung bài tiểu luận sẽ nêu lên được nhưng điểm thuận lợi, khó khăn đối
với chính sách đối ngoại Việt Nam với Trung Quốc được đặt ra từ chính tình hình
thực tiễn cũng như lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam, Trung Quốc.
MỤC LỤC
PHẦN I: BỐI CẢNH QUỐC TẾ HIỆN NAY
I. Xu thế trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới có những biến chuyển hết sức
nhanh chóng, các nước đặt lợi ích quốc gia làm mục tiêu tối thượng trong quan hệ
quốc tế, tùy theo điều kiện của mình tham gia vào đời sống chính trị nhộn nhịp.
Thế giới đang trong thời kì của cuộc công nghiệp 4.0 là động lực thúc đấy các
nước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, sự tương quan về sức
mạnh của các nước lớn, các trung tâm quan hệ quốc tế lớn trên thế giới cũng có sự
thay đổi. Trong tình hình đó, quan hệ giữa các quốc gia nổi bật các xu thế: Hoà
bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc
và các quốc gia trên thế giới; Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều
vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại
và nhiều lĩnh vực khác; Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ
quyền và nền văn hoá dân tộc; Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và
công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Các nước có chế độ chính trị- xã
hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
II.
Quan hệ giữa các nước lớn và an ninh toàn cầu hiện nay.
Những nước lớn là những nước có tiềm lực về kinh tế, chính trị và quân sự hơn
hẳn so với các nước trên thế giới. Chính vì vậy các nước lớn có một vị thế quan
trọng, quan hệ giữa các nước lớn ảnh hưởng rất lớn đến tình hình thế giới nhất là
đối với vấn đề an ninh toàn cầu. Trước sự biến động phức tạp của tình hình thế
giới, các nước lớn điều chỉnh chiến lược, điều chỉnh quan hệ với các nước khác
nhằm thu về lợi ích cao nhất có thể cho quốc gia mình. Xem xét quan hệ giữa các
nước lớn và an ninh toàn cầu hiện nay, thấy nổi lên mấy điểm đáng chú ý: Các
nước lớn muốn khẳng định vị trí “nước lớn” của mình trên trường quốc tế, tranh
đoạt bá quyền, và đặc biệt là sự trỗi dậy của một số nền kinh tế làm cho cán cân
quyền lực thế giới có sự thay đổi; Quan hệ hợp tác song phương, hợp tác song
phương toàn diện giữa các nước trên thế giới, các nước tận dụng các mối quan hệ
để cùng có lợi, đem về lợi ích cho quốc gia mình; Những thách thức đối với vấn đề
an ninh toàn cầu có những diễn biến phức tạp xuất phát từ những vấn đề về an ninh
truyền thống, an ninh phi truyền thống. Những điểm này được thể hiện nổi bật, cụ
thể qua mối quan hệ các nước lớn trên thế giới:
Quan hệ Mỹ – Trung: Trong thời gian vừa qua, quan hệ Mỹ – Trung vẫn phát
triển theo chiều hướng điều chỉnh và về cơ bản là kiềm chế, cả hai bên đều tránh
xung đột và cố gắng xây dựng khuôn khổ quan hệ theo hướng thực dụng hơn.
Trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, và tiềm năng phát triển của nước này,
Mỹ lo sợ về vị trí siêu cường quốc duy nhất của mình hiện tại. Chính vì vậy tuy
quan hệ hai nước vẫn đang trong sự kiềm chế, tránh xung đột nhưng mâu thuẫn
nãy sinh và ngày càng gia tăng căng thẳng tập trung vào cạnh tranh khu vực ảnh
hưởng, nhất là can dự vào các điểm nóng như Biển Đông, biển Hoa Đông; cạnh
tranh về tạo dựng “luật chơi” thông qua các cơ chế, thể chế đa phương; đặc biệt là
mâu thuẫn giữa hai nước về vấn đề thương mại mà đỉnh điểm là cuộc chiến tranh
thương mại nổ ra vào đầu năm 2018; Trung Quốc phản đối việc Mỹ triển khai hệ
thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) và tăng cường hiện diện
quân sự tại khu vực Đông Bắc Á. Trong thời gian quan để phản đối việc Trung
Quốc có những hoạt động trái phép trên Biển Đông, Mỹ cũng đã có những động
thái cụ thể.
Quan hệ Nga – Mỹ: Đang ở tình trạng trả đũa lẫn nhau về ngoại giao và kinh tế,
nhất là sau khi Thượng viện Mỹ thông qua luật trừng phạt Nga cuối tháng 7/2017.
Nga coi việc Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu là mối đe dọa an
ninh đối với Nga. Tuy nhiên, hai nước vẫn duy trì trao đổi ở kênh ngoại giao và
quân sự, tránh đụng độ bùng nổ thành xung đột trực tiếp.
Quan hệ Nga – Trung: Tiếp tục được củng cố theo hướng gắn kết và liên kết cao
hơn trong năm 2017, thể hiện qua việc hai nước tăng cường gặp gỡ cấp cao; phối
hợp và hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế như: vấn đề hạt nhân Triều
Tiên, hợp tác trong khuôn khổ Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Nhóm BRICS
(Brasil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi)…
Quan hệ Trung – Ấn: Giảm căng thẳng sau khi chấm dứt vụ đối đầu tại Doklam
và Thủ tướng Ấn Độ dự Hội nghị Thượng đỉnh BRICS tại Hạ Môn (9/2017). Cạnh
tranh ảnh hưởng giữa hai nước vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, Ấn Độ công khai
không ủng hộ sáng kiến và không cử đại diện tham dự Diễn đàn “Vành đai, con
đường”.
III.
Những điểm nóng định hình quan hệ quốc tế hiện nay.
Thế giới đang chứng kiến những mẫu thuẫn, xung đột, kéo dài, vẫn chưa có dấu
hiệu kết thúc. Những mâu thuẫn, xung đột, căng thẳng đó bao gồm cả xuất phát từ
quan hệ cạnh tranh, tranh giành bá quyền, chủ quyền giữa các nước, quan hệ giữa
các nước lớn, và cả xuất phát từ các vấn đề khác như xung đột về tôn giáo, sắc tộc,
khủng bố… Những vấn đề này đã thành lập nên các điểm nóng về an ninh thế giới,
cũng góp phần định hình quan hệ quốc tế.
1.
Xung đột vũ trang trên bán đảo Triều Tiên.
Triều Tiên rõ ràng là cuộc khủng hoảng chính sách ngoại giao nghiêm trọng
nhất mà thế giới đang phải đối mặt hiện nay. Sự thành công của Triều Tiên trong
chương trình phát triển tên lửa đạn đạo, kết hợp với việc chính quyền Donald
Trump thiếu kinh nghiệm ngoại giao, đã tạo ra một tình huống vô cùng nguy hiểm.
Với nhiều lần thực hiện các vụ thử hạt nhân và tên lửa trong suốt thập kỷ qua,
Triều Tiên chưa cho thấy có bất kỳ dấu hiệu sụp đổ nào trước sức ép của Mỹ.
Trong khi đó, Mỹ đã phản ứng với sự thiếu nhất quán về ngoại giao, các quan chức
cấp cao của Mỹ thường thể hiện sự mâu thuẫn lẫn nhau khi đưa ra các tuyên bố.
Vấn đề càng thêm phức tạp khi cả Triều Tiên và Mỹ đều có những động cơ đáng kể
để ra tay trước. Mỹ là nhằm phá hủy hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở của
Triều Tiên trước khi các tên lửa rời mặt đất, còn Triều Tiên là nhằm tránh khỏi một
số phận như thế. Tình hình này rất dễ dẫn đến những tính toán sai lầm của cả hai
bên, và nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến mà có thể kéo cả Nhật Bản và Trung
Quốc tham gia.
2.
Xung đột về vấn đề Biển Đông.
Sức nóng hạt nhân từ bán đảo Triều Tiên đã biến Biển Đông trở thành điểm
nóng bị quốc tế lãng quên trong năm 2017. Điều đó không đồng nghĩa trên thực địa
nó hoàn toàn im ắng. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy Trung Quốc đã hoàn tất và bắt
đầu xây dựng các công trình thiết yếu cho các tiền đồn lưỡng dụng bất hợp pháp
trên Biển Đông. Khả năng Bắc Kinh sẽ triển khai vũ khí tới những thực thể nhân
tạo này đang ngày càng hiện hữu. Các nhà chứa máy bay cỡ lớn, hầm chứa tên lửa
và các trạm radar cỡ lớn đã gần như hoàn tất, cho phép các máy bay chiến đấu của
Trung Quốc đồn trú, tương tự như điều họ đang làm trái phép tại đảo Phú Lâm.
Trung Quốc gần đây đã trở nên cứng rắn hơn với vùng lãnh thổ Đài Loan, cả về
phát ngôn lẫn hành động. Năm 2017, Trung Quốc 16 lần tập trận không quân sát
Đài Loan. Trước những hành động đó của Trung Quốc, Mỹ nhiều lần lặp lại chỉ
trích Trung Quốc quân sự hóa các thực thể trên Biển Đông và đáp trả bằng việc
hiện diện thường xuyên các vũ khí chiến lược tại khu vực này cũng như diễn tập
quân sự với các nước đồng minh trong khu vực.
3. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung 2018.
Sự trỗi dậy mạnh mẽ đó của Trung Quốc trong thời gian gần đây làm Mỹ lo sợ
vị trí siêu cường quốc duy nhất của mình, có thể nói đây chính là nguyên nhân
chính làm cho mối quan hệ Mỹ-Trung hiện nay luôn trong tình trạng giằng co căng
thẳng mà đỉnh điểm là cuộc chiến Tranh thương mại giữa Mỹ-Trung năm
2018 khởi đầu vào ngày vào ngày 22 tháng 3 năm 2018 khi Tổng thống Hoa
Kỳ Donald Trump tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 50 tỷ đô la Mỹ cho hàng
hóa Trung Quốc dựa theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974, để ngăn
chặn những gì họ cho là hành vi thương mại không công bằng và hành vi trộm
cắp tài sản trí tuệ.
PHẦN II: LỊCH SỬ QUAN HỆ GIỮA HAI NƯỚC VIỆT- TRUNG.
I.
Lịch sử ngoại giao Việt Trung.
Việt Nam, Trung Quốc là hai nước láng giềng vốn có mối quan hệ lâu đời. Mối
quan hệ này được quy định bởi sự gần gũi về địa lý, văn hóa và ở một thời là bởi ý
thức hệ.
1. Thời phong kiến.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ngoại giao được xem
là một lĩnh vực quan trọng. Qua các thời kỳ lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy hoạt
động ngoại giao Việt Nam đã phản ánh nhiều nét đặc trưng của bản sắc văn hóa
dân tộc; trong quan hệ với các nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã góp phần quan
trọng không chỉ đối với việc bảo tồn mà còn góp phần làm giàu thêm bản sắc văn
hóa của dân tộc trong việc ứng xử và tiếp biến các giá trị văn hóa của các dân tộc
khác. Trong đó, quan hệ với Trung Hoa được xem là mối quan hệ lâu đời và quan
trọng nhất của Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử. Với tư cách là một nước nhỏ
nằm kế cận một nước lớn, văn hóa ứng xử của Việt Nam trong quan hệ với Trung
Hoa luôn thể hiện một cách chủ động tích cực, mang đậm bản sắc dân tộc, cũng
như sự hiểu biết và tôn trọng “thiên triều” Trung Hoa với mong muốn xây dựng
một mối quan hệ hòa bình và ổn định.
Trong suốt mất ngàn năm lịch sử, không triều đại phong kiến Trung Hoa nào
không coi Việt Nam là phiên thuộc và luôn không ngừng tìm cách xâm chiếm,
đồng hóa. Về đặc trưng văn hóa, Việt Nam vốn thuộc loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp với đặc trưng cơ bản là lối sống cộng đồng và trọng tình, nên truyền thống
ứng phó với môi trường xã hội thường hướng đến tinh thầnhiếu hòa, tránh đối đầu,
tránh chiến tranh[3]. Chính xuất phát từ những đặc trưng gốc này, trong quan hệ
với Trung Hoa luôn có thế ứng xử ngoại giao trên tinh thần hiếu hòa, hiểu biết, tôn
trọng và cứng rắn qua các thời kỳ lịch sử.
Là một nước láng giềng của Trung Hoa ở phía Nam, Việt Nam cũng phải
chịu quan hệ “sắc phong, triều cống”, tuy vậy quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Hoa không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa chư hầu và tông chủ[4]. Tuy Việt
Nam luôn chấp nhận hình thức “sắc phong, triều cống” theo văn hóa ứng xử “biết
người biết ta”, nhưng không phải vua nào của Việt Nam cũng phải chờ thiên triều
phong mới lên ngôi hoặc phải đợi ý kiến thiên triều giải quyết các vấn đề đối ngoại
của mình.
2. Thời hiện đại:
Trước thời điểm thiết lập quan ngoại giao 1950, quan hệ hai bên là giữa các nhà
lãnh tụ, mà tiêu biểu là mối thân tình giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Mao
Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai. Đây chính là cơ sở của mối quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc sau này.
Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, ngày 15/1/1950, Bộ Ngoại giao
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa. Đến ngày 18/1/1950, Trung Quốc gửi điện trả lời đồng ý.
Trung Quốc là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cũng là
nước đầu tiên cử đại sứ sang ta. Ngày 11/9/1954, ông La Quý Ba là đại sứ nước
ngoài đầu tiên trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Trung Quốc đã hỗ trợ
mạnh mẽ cho Việt Nam về cả con người và vật chất. Giai đoạn 1950-1954, Trung
Quốc cử các tướng lĩnh như Đại tướng Trần Canh, Thượng tướng Vi Quốc Thanh
và rất nhiều cố vấn sang giúp Việt Nam đánh Pháp. Giai đoạn 1965-1975, Trung
Quốc cử nhiều đơn vị quân đội sang Việt Nam để giúp bảo vệ hệ thống cầu đường,
đảm bảo giao thông vận chuyển vũ khí, quân nhu từ miền bắc vào chiến trường
miền nam. Rất nhiều bộ đội Trung Quốc đã hy sinh trên đất nước ta.
Tuy nhiên, lịch sử quan hệ hai nước vẫn tồn tại những mảng tối. Năm 1974, lợi
dụng thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn quyết liệt, Trung
Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1979, Trung Quốc gây nên cuộc chiến tranh
biên giới phía Bắc. Đến năm 1988, Trung Quốc lại đưa quân ra chiếm 7 đảo thuộc
quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Có thể nói giai đoạn 1979-1990, quan hệ hai
nước xuống mức thấp nhất từ trước đến nay.
Đến năm 1990, trước sự thay đổi của tình hình thế giới, hai nước đều có nhu
cầu bình thường hóa quan hệ. Tháng 11/1991, trong chuyến thăm Bắc Kinh của
nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lãnh đạo Việt Nam và
Trung Quốc đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước.
II.
Thành tự và trở ngại trong ngoại giao hai nước.
1. Thành tựu.
Từ năm 1991 đến nay, với sự hợp tác trên các lĩnh vực trên nhiều cơ sở
những thuận lợi trong hợp tác song phương. Ngoại giao hai nước Việt – Trung
đã tạo nên những thành tựu không thể phủ nhận:
Thứ nhất, với các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo hai nước, hai bên đã xây
dựng được khuôn khổ quan hệ song phương là phương châm 16 chữ, tinh thần 4 tốt
và quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện.
Thứ hai, hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề biên giới lãnh thổ do
lịch sử để lại, gồm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc
năm 1999 và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định Hợp tác nghề cá trên
Vịnh Bắc Bộ năm 2000.
Thứ ba, quan hệ kinh tế - thương mại hai nước phát triển nhanh chóng, với kim
ngạch thương mại song phương tăng từ mức 37 triệu USD năm 1991 đến mức trên
50 tỷ USD năm 2014.
Thứ tư, quan hệ giao lưu, trao đổi giữa hai đảng, giữa các bộ ngành liên quan và
các địa phương vùng biên giới, đã xây dựng được các cơ chế hợp tác rõ ràng, chặt
chẽ. Giao lưu nhân dân cũng rất phát triển.
Những thành tựu trên khẳng định được quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam
– Trung Quốc, hứa hẹn một tương lai tươi đẹp cho mối quan hệ giữa hai nước láng
giềng, đồng thời chính là động lực cho những nhà hoạch định chính sách đối ngoại
có những đường lối đúng đắn nhằm cũng cố, phát triển mối quan hệ Việt-Trung
trên cơ sở độc lập dân tộc, hòa bình ổn định và đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
2. Trở ngại.
Tuy nhiên, quan hệ hai nước vẫn còn tồn tại ba trở ngại chính:
Trở ngại thứ nhất là các vấn đề trên Biển Đông (gồm biển và quần đảo). Cái gọi
là “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã lấn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
của Việt Nam theo luật quốc tế. Về vấn đề quần đảo, chúng ta có đầy đủ chứng cứ
lịch sử và pháp lý để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam. Đây chính là trở ngại lớn nhất hiện nay trong quan hệ hai nước.
Trở ngại thứ hai là sự tin cậy lẫn nhau đang bị xói mòn, dù sau bình thường hóa
quan hệ, hai nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng lại. Nhưng việc Trung
Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981 trong vùng biển của ta, đã làm
tổn thương đến nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến sự tin cậy lẫn nhau mà
hai bên vừa qua cố gắng lắm mới đạt được.
Trở ngại thứ ba là nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc còn lớn,
mà chủ yếu là nguyên vật liệu phụ trợ, linh kiện và máy móc thiết bị. Hướng giải
quyết là một mặt phải tự chủ động trong nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản
xuất, mặt khác phải đa dạng hóa thị trường cung cấp.
Như vậy muốn phát triển mối quan hệ giữa hai nước cần có những biện pháp
thống nhất giữa hai bên để duy trì hòa bình, ổn định trên các khu vực tranh chấp,
tiến tới giải quyết theo đúng luật quốc tế. Cũng như có những biện pháp kinh tế
phù hợp để kinh tế nước nhà phát triển vượt mọi trở ngại.
PHẦN III: THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC TRONG TÌNH HÌNH HÌNH HIỆN NAY
I.
1.
Chính sách đối ngoại Việt Nam đối với Trung Quốc
Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam trong hoạt động đối ngoại.
Trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu,
thiết thực, hiệu quả. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại đa phương, nhất là
trong ASEAN, Liên hợp quốc. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong bảo
đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Kiên trì thúc đẩy giải quyết
các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và
nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và chủ động, tích
cực đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; khai thác tối đa
các cơ hội thuận lợi, hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực để mở rộng thị trường,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển. Nâng cao năng lực giải quyết các
tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế.
Nâng cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng
cường công tác thông tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và
tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Đẩy mạnh công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và hỗ trợ
đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để phát triển và hòa nhập tốt
với cộng đồng nước sở tại, đóng góp vào tăng cường hữu nghị, hợp tác giữa Việt
Nam với các nước. Tạo thuận lợi để kiều bào tham gia xây dựng và bảo vệ đất
nước. Làm tốt công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài.
2. Chính sách đối ngoại Việt
2.1.
Về chính trị
Nam đối với Trung Quốc
Sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn chủ trương
thiết lập, xây dựng, đẩy mạnh mối quan hệ chính trị. Việt Nam luôn kiềm chế,
tránh nhắc lại những xung đột, bất đồng trong quá khứ ảnh hưởng đến quan hệ hai
nước trong tương lai. Về mặt ngoại giao, Việt Nam luôn cam kết tuân theo
“phương châm 16 chữ vàng”, là láng giềng tốt của Trung Quốc. Trước những vấn
đề về chủ quyền lãnh thổ hai nước, nhất là căng thẳng ở khu vực Biển Đông liên
quan đến quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Việt nam luôn kiềm chế những tranh
chấp, xung đột vũ trang. Đồng thời lên án hành động trái với Công ước LHQ về
luật biển 1982 của TQ trên khu vực biển đông, kiên quyết bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ.
Đối với quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản anh em, Việt nam luôn trân trọng sự
ủng hộ và giúp đỡ quý báu của nhân dân trung hoa đối với cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam cũng như đối trong tiến trình xây dựng XHCN hiện nay.
2.2.
Về kinh tế
Trung Quốc hiện là đối tác hợp tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Riêng về
kinh tế, Trung Quốc hiện là đối tác thương mại, thị trường du lịch lớn nhất của Việt
Nam, là nhà đầu tư trực tiếp đứng thứ 8 ở Việt Nam. Do đó Việt Nam tận dụng
những điều này tiếp tục phát triển mối quan hệ kinh tế giữa hai nước, với phương
châm “cùng hợp tác, cùng phát triển” nhằm đem về lợi ích cho quốc gia.
Trong một nền kinh tế thế giới mở, tất cả những quốc gia đều phụ thuộc lẫn vào
nhau. Việt Nam không nên và sẽ không bao giờ trở nên hoàn toàn độc lập với
Trung Quốc và ngược lại bởi vì hai nước ở sát cạnh nhau và Trung Quốc có một
nền kinh tế lớn thư hai trên thế giới. Mà điển hình là tình hình hiện tại với Cuộc
chiến tranh thương mại Mỹ-Trung 2018 Việt Nam sẽ xây dựng chiến lược phù hợp
để tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức đặt ra.
2.3.
Về văn hóa xã hội
Việt Nam tăng cường hợp tác văn hoá với Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu nhân dân
hai nước đi vào thực chất. Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng, đều đi
theo con đường phát triển của Chủ nghĩa xã hội, có nền văn hoá tương đồng, lịch
sử truyền thống giao lưu văn hoá lâu đời.
Trong sự giao lưu văn hóa đó , Việt Nam sẽ tiếp thu có chọn lọc những nét
tiến bộ văn hóa Trung Quốc trên cơ sở phát huy giữ gìn bản sắc truyền thống văn
hóa dân tộc.
II.
Đặc điểm chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Năm 2018 là năm đầu tiên Trung Quốc triển khai chính sách đối ngoại kể từ sau
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 được tổ chức vào tháng 10/2017, do
đó đường lối đối ngoại của Trung Quốc năm nay có nhiều điểm mới so với các
năm trước.Có thể kể tới một số điểm nổi bật như sau:
Một là, Trung Quốc đề ra chính sách ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc
trong thời đại mới. Đây chính là nội dung đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Trung Quốc Tập Cận Bình trình bày tại Đại hội 19 vừa qua với hai nội hàm chính
đó là xây dựng quan hệ quốc tế kiểu mới và xây dựng cộng đồng chung vận mệnh
nhân loại.
Hai là, Ngoại giao nguyên thủ. Năm nay chúng ta có thể thấy, Trung Quốc dành
một phần nội dung để nói về vai trò quan trọng của Ngoại giao nguyên thủ với hạt
nhân là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình. Kể từ Đại hội Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ 18 đến nay Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đi thăm 57
quốc gia và đón tiếp hơn 110 nguyên thủ các nước đến thăm Trung Quốc, đây thực
sự là một con số đáng nể thể hiện lịch trình ngoại giao dày đặc của người đứng đầu
Trung Quốc.
Ba là, quan hệ Trung- Mỹ. Đây là điểm đáng chú ý so với mọi năm. Năm nay
chúng ta không thấy Trung Quốc nhắc đến cụm từ quan hệ nước lớn kiểu mới với
Mỹ mà thay vào đó là quan hệ ngang hàng giữa hai nước. Với tư cách là quốc gia
đang phát triển lớn nhất thế giới và quốc gia phát triển lớn nhất thế giới, có thể nói
quan hệ Trung – Mỹ là mối quan hệ có tầm ảnh hưởng mạnh nhất lên thế giới hiện
nay. Trung Quốc khẳng định, mặc dù có bất đồng, có cọ xát giữa hai bên thì đối
thoại và hợp tác vẫn là dòng chính trong quan hệ hai nước vì đây là lựa chọn tất
yếu và hiện thực nhất.
Bốn là, tính chủ động trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Có thể thấy
với hai đề xuất xây dựng quan hệ quốc tế kiểu mới và cộng đồng chung vận mệnh
nhân loại, Trung Quốc sẽ gia tăng tính chủ động của nước này trong việc tham dự
vào các vấn đề sự vụ quốc tế. Mọi năm chúng ta chỉ thấy Trung Quốc là một bên
tham gia tích cực nhưng bắt đầu từ năm nay có thể sẽ có sự thay đổi lớn khi Trung
Quốc sẽ là bên đề xuất chủ động các phương án nhằm tháo gỡ các điểm nóng như
cục diện tình hình trên bán đảo Triều Tiên, tình hình Trung Đông, căng thẳng
Bangladesh-Myanmar... Đây có thể được coi là động thái rõ nét nhằm gia tăng ảnh
hưởng cũng như mở rộng không gian quốc tế cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới
này.
III.
Điểm thuận lợi đối với chính sách đối ngoại Việt Nam đối với Trung
Quốc.
Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng với
những diễn biến phức tạp. Xu thế hình thành trật tự thế giới mới theo hướng đa cực
ngày càng rõ. Quan hệ giữa các nước theo xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp tác cùng
phát triển. Trung Quốc lại là một cường quốc có tiềm năng đang trỗi dậy, lại là
quốc gia láng giềng của Việt Nam. Trước tình hình đó, đặt ra cho Việt Nam khá
nhiều thuận lợi trong chính sách đối ngoại đối với nước này:
Thứ nhất, xu thế lớn hợp tác quốc tế hiện nay là hòa bình, ổn định và phát
triển tạo là phù hợp với đường lối đối ngoại của Việt Nam đó là đường lối độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác cùng phát triển. Đây chính là điều kiện để hai nước Việt
Trung có tiếng nói chung trong quan hệ hữu nghị hai nước, là cơ sở , định hưỡng
dẫn đường cho quan hệ hại nước phát triển.
Thứ hai, Thị trường Trung Quốc - một thị trường khổng lồ mà bất cứ một
doanh nghiệp ở một nước nào đó đều muốn xâm nhập và chiếm lĩnh. Lại trong bối
cảnh diễn ra tranh giành quyền lực, bá quyền Mỹ-Trung, Cuộc chiến tranh thương
mại Mỹ -Trung 2018 là đỉnh điểm căng thẳng quan hệ kinh tế Mỹ Trung. Điều này
tạo thuận lợi cho thị trường hàng hóa Trung Quốc tại Việt Nam cũng như thị
trường hàng hóa Việt Nam tại Trung Quốc. Việt Nam cần tranh thủ cơ hội để phát
triển quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Thứ ba, kể từ khi Hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, thế giới
thiết lập tồn tại hai phe, phe XHCN trong đó có Việt Nam Trung Quốc và phe
TBCN mà đứng đầu về sức mạnh quốc gia là Mỹ, thì việc Trung Quốc trỗi dậy và
Mỹ cạnh tranh ngôi vị bá quyền có tác động tích cực đến công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ đó củng cố mỗi quan hệ anh em giữa hai Đảng Cộng
sản, việc thiết lập mối quan hệ giữa hai nước cũng góp phần giúp Việt Nam giữ
được thành quả Cách mạng tiến lên XHCN.
Thứ tư, Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là động lực cho toàn cầu hóa, thúc
đẩy lực lượng sản xuất ở các nước phát triển, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước, giúp cho quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Việt Trung thêm gắn kết nhằm
tận dụng hết thời cơ, cơ hội trong thời kì này.
Ngoài những thuận lợi thời đại mang đến cho chính sách đối ngoại Việt Nam
với Trung Quốc, không thể phủ nhận lịch sử quan hệ hợp tác, những thành tự trong
suốt quá trình lịch sử ngoại giao song phương, là tiền đề, cơ sở cho đối ngoại Việt
Nam đối với Trung Quốc.
IV.
Điểm Khó khăn đối với chính sách đối ngoại Việt Nam đối với Trung
Quốc.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi cục diện quốc tế mang lại, chính sách đối
ngoại Việt Nam vẫn tồn tại nhiều khó khăn trên các lĩnh vực chín trị, kinh tế, văn
hóa xã hội:
Thứ nhất, trước tình hình cạnh tranh của các nước lớn, các nước lớn muốn
khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung
Quốc và sự lo lắng về vị trí siêu cường quốc duy nhất của mình của Mỹ, căng
thẳng hai nước này đang trên “chảo dầu sôi”, cuộc Chiến tranh thương mại nổ ra
ngoài tạo ra cho kinh tế Việt Nam nhiều cơ hội thì cũng đặt ra không ít thách thức
về kinh tế, về xuất nhập khẩu với Trung Quốc. Đây là một khó khăn đặt ra đối với
đối ngoại kinh tế Việt Nam với Trung Quốc.
Thứ hai, tuy thời gian gần đây những đụng độ trên Biển Đông giữa Trung Quốc
và Việt Nam dịu nhẹ tuy nhiên Trung Quốc vẫn không ngừng gia tăng những hoạt
động trái phép trên khu vực này. Đây là một ảnh hưởng không hề nhỏ trong đối
ngoại của Việt Nam, với sự nhất quán trong đường lối đối ngoại hòa bình, hữu
nghị, tránh xung đột vũ trang tuy nhiên vẫn kiên quyết giữ vững chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ thì vấn đề Biển Đông yêu chính sách đối ngoại phải vừa khéo léo vừa
cương quyết, là một khó khăn lớn.
Thứ ba, lịch sử ngoại giao Việt Nam được thiết lập từ khá lâu, tuy nhiên trong
lịch sử hai nước ngoài sự giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau nhưng cũng không ít lần Trung
Quốc xâm phạm đến chủ quyền Việt Nam, chính những xung đột ấy tạo ra những
vết nhơ trong ngoại giao hai nước. Chính vì vậy bên xây dựng quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện giữa hai nước, trong chính sách đối ngoại Việt Nam luôn có
sự dè chừng đối với ông hàng xóm to lớn này.
V.
Biện pháp khắc phục những khó khăn đối với chính sách đối ngoại Việt
Nam và Trung Quốc.
Tuy gặp tình hình hiện nay đặt ra cho đối ngoại Việt Nam đối với Trung
Quốc nhiều khó khăn, cản trở. Nhưng xác định đường lối đối ngoại Việt Nam
với Trung Quốc vừa là láng giềng gần gũi vừa là đồng chí trên con đường xây
xựng chế độ XHCN. Nên Đảng ta phải có những biện pháp vượt qua những khó
khăn trên, tiến đến xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện ngày càng
vững chắc:
Một là, đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện cục diện thế giới, khu vực để
đề ra chiến lược, chính sách đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc; tổ chức lại các
lực lượng nghiên cứu lĩnh vực đối ngoại theo sự chỉ đạo thống nhất, trên tinh
thần: “Việt Nam cần kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa; sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc
gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Hai là, trong khuôn khổ chiến lược chung, cần định vị rõ Việt Nam ở vị trí
nào trong chiến lược của Trung Quốc, Trên quan điểm tổng thể cần có phương
cách đối phó nào để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Ba là, kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì lợi ích dân tộc thực sự,
theo đuổi chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa nhất quán, khéo léo tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, tránh xung đột vũ trang về
các vấn đề chủ quyền với Trung Quốc.
Bốn là, có chính sách rõ ràng hơn và những biện pháp thiết thực nhằm hạn
chế tác động tích cực về các cuộc cạnh tranh kinh tế tranh bá quyền giữa các
nước lớn.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO