BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------
BÀI TẬP LỚN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN 2
Đề bài:
1. Tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt? So sánh hàng
hóa sức lao động với hàng hóa thông thường? Ý nghĩa của
việc nghiên cứu này đối với hoạt động thực tiễn của sinh
viên?
2. Xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa có điểm gì giống và
khác nhau? Tại sao Việt Nam là một nước nhập khẩu tư bản?
Họ và tên: Dương Thành Bích
Mã sinh viên: 11160578
Lớp: Kinh tế học 58
Lớp tín chỉ: 22
Hà Nội, 12/05/2017
Câu 1. Tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt? So sánh hàng hóa sức lao
động với hàng hóa thông thường? Ý nghĩa của việc nghiên cứu này đối với hoạt
động thực tiễn của sinh viên?
Trả lời
a. Tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt?
Để giải thích tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt, trước hết ta tìm
hiểu về khái niệm hàng hóa và sức lao động.
Theo C.Mác, “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”. Còn hàng hóa
được định nghĩa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán. Nó là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị và
giá trị sử dụng. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa. Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Một vật, khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá
trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng
hóa. Sức lao động cũng chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử
nhất định: thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ
được sức lao động của mình và có quyển bán sức lao động của mình như một hàng
hóa; thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để
tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống. Sự tồn tại đồng thời
hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa.
Vậy tại sao nói sức lao động là hàng hóa đặc biệt? Cũng như mọi hàng hóa
khác, hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng
trong cả 2 thuộc tính đó của hàng hóa sức lao động đều tồn tại những khía cạnh
khác biệt để có thể khẳng định rằng hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt.
Trong thuộc tính “giá trị”: Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa sức lao
động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó còn bao gồm cả yếu tố tinh thần và
lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn
có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa… Lấy ví dụ về một người công nhân làm
thuê trong một nhà máy, anh ta bán sức lao động của mình cho chủ nhà máy. Sức
lao động của anh ta là có hạn nên để có thể tái sản xuất ra sức lao động, mỗi ngày
anh ta cần phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định như quần áo, đồ ăn,
nước uống, nhà ở, vật dụng sinh hoạt,…không chỉ cho chính bản thân anh ta mà
còn cho cả gia đình và con cái. Ngoài ra, anh ta còn có những nhu cầu về tinh thần,
văn hóa như giải trí sau một ngày làm việc mệt mỏi hay tham gia các phong tục tập
quán truyền thống của địa phương nơi anh ta sinh sống. Những nhu cầu đó phụ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ
thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
Xét về thuộc tính “giá trị sử dụng”. Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá
trị mà còn có giá trị sử dụng như bất kỳ một hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Nhưng quá trình sử dụng
hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng
hóa thông thường sau quá trình tiên dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử
dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa
sức lao động, đó lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là
quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã chiếm đoạt. Ví dụ khi
một công ty lương thực thực phẩm thuê công nhân, nghĩa là mua hàng hóa sức lao
động từ công nhân, quá trình họ tiêu dùng hàng hóa sức lao động chính là quá trình
người công nhân tạo ra sản phẩm là lương thực, thực phẩm, đồ ăn, nước uống,...
Những sản phẩm đó lại đem đi bán sẽ mang lại một giá trị mới. Hoặc đối với
những công ty sản xuất máy móc, công nhân của họ trong quá trình lao động sẽ tạo
ra các loại máy móc, những máy móc đó lại tiếp tục tạo ra một loạt các sản phẩm
khác, tạo ra các giá trị mới ngày càng lớn. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa
sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Nói cách khác, hàng hóa sức lao
động tạo ra giá trị thặng dư khi được đem vào sử dụng và chỉ có hàng hóa sức lao
động mới có thể tạo ra giá trị thặng dư. Chính vì vậy mà hàng hóa sức lao động là
một hàng hóa đặc biệt khác hẳn so với những hàng hóa thông thường khác.
b. So sánh hàng hóa sức lao động và hàng hóa thông thường?
Hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động đều là hàng hóa, được
đem ra mua bán trên thị trường, chịu tác động của thị trường như cung, cầu,… Cả
hai đều có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, hàng hóa sức lao
động có một số điểm khác biệt so với hàng hóa thông thường và trở thành một loại
hàng hóa đặc biệt. Ta xét bảng so sánh sau:
Tiêu chí so sánh
Phương thức tồn tại
Giá trị
Giá trị sử dụng
Hàng hóa sức lao động
Gắn liền với con người.
Chứa đựng cả yếu tố vật chất,
tinh thần và lịch sử. Được đo
gián tiếp bằng giá trị những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để tái
sản xuất ra sức lao động.
Giá trị sử dụng đặc biệt: quá
trình tiêu dùng hàng hóa sức
lao động lại là quá trình tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó, đó chính là giá trị
thặng dư.
Nhỏ hơn giá trị.
Hàng hóa thông thường
Không gắn liền với con
người.
Chỉ thuần túy là yếu tố vật
chất. Được đo trực tiếp
bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết.
Giá trị sử dụng thông
thường: sau quá trình tiêu
dùng hay sử dụng thì cả giá
trị lẫn giá trị sử dụng đều
tiêu biến mất theo thời gian.
Có thể tương đương với giá
trị.
Người mua có quyền sử dụng, Người mua và người bán
Quan hệ giữa người không có quyền sở hữu, người hoàn toàn độc lập với nhau.
mua và người bán bán phải phục tùng người
mua.
Quan hệ mua bán đặc biệt: Ngang giá, mua đứt – bán
mua bán chịu, thường không đứt.
Quan hệ mua – bán
ngang giá và mua bán có thời
hạn.
Là nguồn gốc của giá trị thằng Là biểu hiện, là hình thái
dư.
nguyên tố của của cải trong
Ý nghĩa
Sức lao động là hàng xã hội tư bản.
hóa đặc biệt.
Giá cả
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu này đối với hoạt động thực tiến của sinh viên?
Mục đích và mong muốn chung của mọi sinh viên là có được một công việc
ổn định sau khi ra trường, tuy nhiên đó không phải là điều dễ dàng. Việc nghiên
cứu về vấn đề này và đưa ra kết luận sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt có ý
nghĩa thực tế rất lớn đối với việc giải quyết nỗi lo này của sinh viên cũng chính là
thực trạng thiếu việc làm của xã hội. Trước hết, việc nghiên cứu hàng hóa sức lao
động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng thị trường lao động ở Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hóa (khi có đủ các điều
kiện trở thành hàng hóa) cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi,
trọng tâm của Đảng ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường và Nghị quyết của Đại
hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thị
trường lao động từ chỗ không tồn tại đã bắt đầu hình thành và phát triển.
Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch vụ lao động được
mua bán thông qua một quá trình để xác định số lượng lao động được sử dụng
cũng như mức tiền công và tiền lương. Thị trường lao động là một trong những
loại thị trường cơ bản và có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thị trường của
nền kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển cũng như sự vận động của thị
trường lao động có những đặc điểm hết sức riêng biệt. Thị trường lao động cũng
như các loại thị trường khác tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở
đây là do tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động như đã trình bày ở trên.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các
chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát
triển, tạo nhiều việc làm đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người
lao động, do đó cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở
rộng, tình trạng thất nghiệp sau khi tốt nghiệp đại học của sinh viên ngày càng
giảm. Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi
công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc cho người lao
động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp
luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa
bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh
quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, trang 114 – 115). Vì vậy từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự
bố trí công việc của Nhà nước, người lao động đã trở nên năng động hơn, chủ động
tự tìm việc làm trong các thành phần kinh tế. Các quan hệ lao động – việc làm thay
đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình và tự chủ hơn
trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị
trường. Lực lượng sinh viên không chỉ có nhiều sức lao động mà còn được qua đào
tạo chuyên ngành, có thể tự do lựa chọn công việc để phát huy năng lực. Người sử
dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp nên đẩy mạnh đầu tư tạo việc
làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra
khả năng to lớn giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động bán sức
lao động của mình.
Ngày nay, vai trò của Nhà nước trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản.
Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ
chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành
chính và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển
sản xuất, tạo thêm việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ
hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý
chí chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo
các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao
động.
Tóm lại, nghiên cứu thừa nhận sức lao động là hàng hóa đã tạo cơ hội để
việc xây dựng thị trường sức lao động được chú trọng, đẩy mạnh. Quá trình hình
thành và phát triển cũng như sự vận động của thị trường lao động đã tạo ra nhiều
việc làm hơn, giúp cho sinh viên có thể tự do phát huy năng lực của mình và tự chủ
hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp.
Câu 2. Xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa có điểm gì giống và khác nhau?
Tại sao Việt Nam là một nước nhập khẩu tư bản?
Trả lời
a. Xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa có điểm gì giống và khác nhau?
Để có thể so sánh xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa, trước tiên ta tìm
hiểu về khái niệm hàng hóa, tư bản và điểm giống và khác nhau giữa tư bản và
hàng hóa. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Chúng đều có
những điều kiện để đồ vật có thể trở thành hàng hóa hoặc tư bản, tuy nhiên những
điều kiện đó thì khác nhau. Để đồ vật trở thành hàng hóa, chúng cần có: tính ích
dụng đối với người dùng; giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động; sự
hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm. Những hàng hóa có đặc điểm sau
được coi là tư bản: có thể sử dụng để tạo ra hàng hóa khác; có để tạo ra được, đối
lập với đất đai là nguồn lực tồn tại tự nhiên với các đặc điểm như vị trí địa lý,
khoáng sản dưới lòng đất; không bị sử dụng hết ngay lập tức trong quá trình sản
xuất như nguyên liệu hoặc bán sản phẩm.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà hàng hoá dịch
vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác. Nói một cách đơn giản xuất khẩu hàng
hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ của một nước, hoặc đưa vào khu
vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ nước đó được coi là khu vực hải quan riêng theo
quy định của pháp luật. Xuất khẩu tư bản là đem tư bản ra nước ngoài, nhằm chiếm
được giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác được tạo ra ở các nước nhập khẩu tư
bản. Cả xuất khẩu hàng hóa và xuất khẩu tư bản đều là đưa đồ vật, hàng hóa ra
khỏi lãnh thổ của một nước. Giữa chúng có một số điểm khác nhau được trình bày
trong bảng sau:
Tiêu chí
so sánh
Xuất khẩu hàng hóa
Là bán hàng hóa ra thị trường nước
ngoài để thực hiện giá trị và giá trị
thặng dư.
Định nghĩa VD: xuất khẩu mặt hàng thời trang,
thực phẩm,…ra nước ngoài để thực
hiện giá trị và giá trị thặng dư.
Mục đích
Hình thức
Là thủ đoạn để các nước tư bản tiến
hành bóc lột các nước chậm phát
triển thông qua trao đổi không
ngang giá (tồn tại dưới hình thái
hiện vật).
- Hàng hoá nước ta bán ra nước
ngoài theo hợp đồng thương mại
được ký kết của các thành phần
kinh tế của nước ta với các thành
phần kinh tế ở nước ngoài không
thường trú trên lãnh thổ Việt Nam;
- Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư
Xuất khẩu tư bản
Là xuất khẩu giá trị ra nước
ngoài để sản xuất giá trị thặng
dư ở nước sở tại.
VD: Công ty cử người sang
nước ngoài xây dựng công ty
con để làm ăn và thu về lợi
nhuận cho công ty trong nước.
Là thủ đoạn để các nước tư bản
tiến hành bóc lột giá trị thặng
dư ở các nước nhập khẩu tư bản
bằng cách xuất khẩu tư bản cho
vay.
Xét về hình thức đầu tư, có thể
phân chia thành:
- Xuất khẩu tư bản hoạt động
(đầu tư trực tiếp): đưa tư bản ra
nước ngoài để trực tiếp kinh
doanh thu lợi nhuận cao;
- Xuất khẩu tư bản cho vay
Điều kiện
áp dụng
Kết quả
nước ta bán cho nước ngoài qua các
đường biên giới, trên bộ, trên biển,
ở hải đảo và trên tuyến hàng không;
- Hàng hoá do các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài bán cho
người mua nước ngoài nhưng giao
hàng tại Việt Nam;
- Hàng hoá do các chuyên gia,
người lao động, học sinh, người du
lịch mang ra khỏi nước ta.
Khi một nước có điều kiện tự
nhiên, khoa học kĩ thuật, yếu tố đầu
vào và người lao động,…hơn hẳn
các nước khác thì hao phí lao động
xã hội sẽ thấp khiến cho giá cả
hàng hoá thấp, hàng hoá bán ở
trong nước vấp phải cạnh tranh cao,
lợi nhuận không nhiều. Vì vậy họ
tìm cách xuất khẩu sang các nước
có điều kiện sản xuất kém hơn
mình để mang lại tỷ suất lợi nhuận
cao hơn.
Làm cho quan hệ thương mại giữa
các nước trên thế giới gắn kết lại
với nhau hơn. Được lợi cho cả
nước xuất khẩu hàng hoá (thu được
tỷ suất lợi nhuận cao) và lợi cho
nước nhập khẩu hàng hoá (mua
được sản phẩm rẻ hơn so với chi
phí mình bỏ ra để làm chúng).
Tuy nhiên làm cho nước nhập khẩu
phụ thuộc vào nước xuất khẩu
nhiều.
(đầu tư gián tiếp): cho vay để
thu lợi tức.
Xét về chủ sở hữu tư bản, có
thể phân chia thành xuất khẩu
tư bản nhà nước và xuất khẩu
tư bản tư nhân.
Một số nước lạc hậu về kĩ thuật
hiện đang thiếu tư bản, mặt
khác tiền lương thấp và nguyên
liệu rẻ. Ở một số nước phát
triển, họ có nhu cầu về vốn
để đầu tư đổi mới kĩ thuật.
Một mặt làm cho quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa phát triển
và mở rộng ra trên địa bàn quốc
tế, thúc đẩy nhanh quá trình
phân công lao động và quốc tế
hóa đời sống kinh tế của nhiều
nước, làm cho quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở các
nước nhập khẩu phát triển
nhanh chóng. Mặt khác để lại
trong các quốc gia nhập khẩu tư
bản những hậu quả nặng nề
như: nền kinh tế phát triển mất
cân đối và lệ thuộc, nợ nần
chồng chất do bị bóc lột năng
nề.
b. Tại sao Việt Nam là một nước nhập khẩu tư bản?
Ngược lại với xuất khẩu tư bản, nhập khẩu tư bản là nhập tư bản từ các nước
ngoài vào nước mình hay kêu gọi đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản nhằm huy
động vốn, tạo việc làm khắc phục tình trạng thất nghiệp, tạo môi trường trí tuệ
công nghệ hiện đại để đào tạo nguồn nhân lực, tạo được thị trường quốc tế ngay
trong nước mình.
Luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước
kém phát triển hoặc đang phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%). Các nước này
thường có những đặc điểm rất hấp dẫn đầu tư tư bản: Thứ nhất, năng suất lao động
ở các nước đang phát triển rất thấp. Lý do là nguyên liệu thì rẻ nhưng lại rất thiếu
vốn tự nhiên (yếu tố cơ bản của sản lượng biên) và chất lượng lao động thấp. Thứ
hai, nhi
ều nước còn lạc hậu về kinh tế, khoa học kĩ thuật dẫn đến thiếu việc
làm, tiền lương thấp, mức thất nghiệp và bán thất nghiệp cao và ngày càng tăng.
Thứ ba, sự phổ biến của các thị trường không hoàn hảo và thông tin không đầy đủ.
Thành công của một nền kinh tế thị trường phát triển phụ thuộc chủ yếu vào sự tồn
tại của các điều kiện tiên quyết về luật pháp, văn hoá và thể chế nhất định. Chẳng
hạn như bộ máy tư pháp mạnh, quyền sử hữu được xác định rõ ràng, hệ thống tiền
tệ ổn định, cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống giao thông và thông tin liên lạc thuận
tiện, nhiều thông tin. Trong khi ở các nước công nghiệp phát triển phần lớn những
điều kiện này phần lớn đã được đảm bảo, thì ở các nước đang phát triển nhiều cơ
sở tổ chức và luật pháp còn thiếu thốn hay yếu kém. Kết quả là không phân phối
được các nguồn lực.
Việt Nam cũng là một trong số các nước đang phát triển, còn tồn tại một số
nhược điểm. Tiềm lực tài chính của đại đa số các doanh nghiệp Vịêt Nam còn yếu.
Theo kết quả điều tra về doanh nghiệp được tổng cục thống kê công bố, tính đến
cuối năm 2003, cả nước có khoảng 72.016 doanh nghiệp, với tổng lượng vốn đầu
tư là 1 .709 nghìn tỷ đồng, trung bình quy mô vốn đầu tư của một doanh nghiệp đạt
23,73 tỷ đồng, như vậy quy mô là rất nhỏ. Ngoài tiềm lực tài chính yếu, doanh
nghiệp Vịêt Nam còn bộc lộ một số hạn chế như mức độ áp dụng công nghệ tiên
tiến vào sản xuất chưa cao, hệ thống đại lý phân phối sản phẩm mỏng, chưa tạo
dựng được thương hiệu có danh tiếng, thông tin thị trường không hoàn hảo… Bên
cạnh đó, lực lượng lao động của Việt Nam khá lớn nhưng tỷ lệ lao động chất lượng
cao hoặc đã qua đào tạo lại thấp, môi trường đào tạo kém chuyên nghiệp nên vẫn
còn tồn tại tình trạng thất nghiệp. Nước ta còn lạc hậu cả về kinh tế, tiền lương, lực
lượng lao động, khoa học kĩ thuật, nguyên liệu rẻ nhưng lại thiếu tư bản nên hấp
dẫn đầu tư, trở thành một nước nhập khẩu tư bản.
Hết