LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 25 năm đổi mới kể từ đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã bước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở
vật chất – kỹ thuật và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới – giai đoạn công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng khởi
sắc. Cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế quốc tế, Việt Nam từng
bước tham gia vào các hiệp định song phương, đa phương, các liên minh kinh tế
nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
giúp định hướng phát triển kinh tế vào các vùng, các ngành trọng điểm. Nhận định
về FDI thì đây là một khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò
quan trọng và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Trong hơn 25 năm qua,
FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng kinh tế. Trong hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam,
FDI cũng đóng một vai trò quan trọng, góp phần vào việc tăng cường cơ sở vật
chất cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạo ra khoảng 2 triệu
việc làm trực tiếp và một số lượng lớn việc làm cho lao động gián tiếp. FDI cũng
đưa Việt Nam hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối
ngoại, đồng thời mang đến phương thức đầu tư kinh doanh mới và có tác động lan
toả đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu
tư trong nước…Các doanh nghiệp FDI đang ngày càng tham gia đông đảo, lớn
mạnh về số lượng và quy mô doanh nghiệp.
Có rất nhiều chính sách đã được Đảng và Nhà nước đưa ra nhằm thu hút
nguồn vốn FDI và xây dựng một cộng đồng các doanh nghiệp FDI phát triển đạt
hiệu quả cao. Đó có thể là chính sách về môi trường đầu ưu, các chính sách về ưu
đãi và khuyến khích đầu tư… Trong các chính sách đó, nổi bật lên là các chính
sách về thuế đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp FDI. Các chính
sách thuế thông thoáng, đồng bộ, hợp lý sẽ giúp thu hút FDI một các hiệu quả và
1
giúp các doanh nghiệp FDI thuận lợi hơn trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Cùng với quá trình tham gia hội nhập nền kinh tế quốc tế, các chính sách thuế
cũng đã được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với các điều kiện và thông lệ quốc
tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập về chính sách thuế như: Các DN FDI hiện
đang áp dụng khung chính sách thuế chung cho các DN Việt Nam, trừ các ưu đãi
trước đây và đến nay DN vẫn được hưởng. Bên cạnh đó, các ưu đãi về thuế TNDN
khi đạt tỷ lệ xuất khẩu hoặc đạt tỷ lệ nội địa hóa cũng không còn nữa, do Việt Nam
phải thực hiện các cam kết khi tham gia WTO; thuế suất ưu đãi áp dụng chung cho
các địa bàn đặc biệt khó khăn và khó khăn, mà không phân biệt ngành nghề. Do
đó, không khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề có đặc thù tỷ suất lợi nhuận
thấp, đòi hỏi vốn đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn chậm; trong khi nhu cầu xã hội
và sự phát triển của đất nước cần thiết phải có (như cơ khí chế tạo, công nghiệp
phụ trợ, nông nghiệp, lâm nghiệp...)… Những bất cập về chính sách nêu trên là
một trong những nguyên nhân quan trọng khiến một bộ phận không nhỏ trong
khối DN FDI kinh doanh thua lỗ hoặc cố tình lỗ giả, lãi thật, gây thiệt hại cho nền
kinh tế. Chính vì vậy, hoàn thiện chính sách thuế là một đề tài mang tính lý luận và
thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa thời sự.
Với ý nghĩa đó, em tập trung nghiên cứu đề tài: “ Hoàn thiện chính sách
thuế đối với các doanh nghiệp FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”
góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn nêu trên.
Mục đích nghiên cứu:
Với việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp người đọc hiểu sâu hơn về
các chính sách thuế của Việt Nam đối với việc thu hút nguồn vốn FDI vào trong
nước trong bối cảnh hội nhập. Đồng thời góp phần làm rõ lý luận về vị trí, vai trò
của FDI trong nền kinh tế hội nhập mang tính cạnh tranh sâu sắc, vai trò của chính
sách thuế đối với nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp FDI nói riêng
trong bối cảnh hộp nhập kinh tế quốc tế.
2
Bài viết cũng nhằm khái quát thực trạng của các chính sách thuế mà Việt Nam
đang áp dụng; phân tích một số chính sách thuế như thuế xuất nhập khẩu, thuế thu
nhập doanh nghiệp…; những thuận lợi, khó khăn mà các doanh nghiệp FDI gặp
phải khi thực hiện các chính sách đó.
Nêu những tồn tại và nguyên nhân trong hệ thống chính sách thuế nói
chung ở nước ta. Kết hợp với các quan điểm hoàn thiện chính sách thuế của
nhiều chuyên gia nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu và các chính
sách thuế nội địa khác, từ đó góp phần cho việc đề xuất các định hướng, các
quan điểm đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế phù hợp với quan
điểm và mục tiêu về đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2020.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Thuế là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước, đóng một vai trò
thiết thực tác động tới đời sống của nhân dân và nền kinh tế. Chính sách thuế của
một nước thể hiện hướng điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô của nước đó đang diễn ra
theo xu hướng nào: bảo hộ các doanh nghiệp trong nước hay thu hút đầu tư nước
ngoài…Như vậy, thuế có vai trò quan trọng đối với một quốc gia. Chính vì vậy mà
đối tượng nghiên cứu của luận văn chính là vấn đề lý luận và thực tiễn các chính
sách thuế và các giải pháp hoàn thiện các chính sách thuế đối với các doanh
nghiệp FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Không gian nghiên cứu là chính sách thuế
đối các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam và thời gian nghiên cứu là từ khi Việt Nam
mở cửa hộp nhập với nền kinh tế quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể
khác như: thống kê so sánh, tổng hợp phân tích các dữ liệu thực tế. Ngoài ra
còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
phát triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới.
3
Kết cấu của luận văn:
Nội dung của luận văn được trình bày thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về hoạt động FDI và chính sách thuế đối với
hoạt động đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng chính sách thuế đối với các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đối với các doanh nghiệp
FDI tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Trong quá trình hoàn thành khóa luận, em đã nhận được sự góp ý và hướng
dẫn từ Thạc sĩ Trần Thị Ngọc Quyên, giảng viên bộ môn Đầu tư, khoa Kinh tế và
Kinh doanh quốc tế, trường đại học Ngoại Thương, em xin chân thành cảm ơn!
4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG FDI VÀ CHÍNH
SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÓ TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về FDI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tên gọi tiếng anh là Foreign Direct Investment
(FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác
bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó
sẽ nắm quyền quản lí cơ sở sản xuất, kinh doanh này. Trên thế giới đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa về FDI dựa trên những tiêu chí và khía cạnh khác nhau. Như theo
tổ chức thương mại thế giới WTO thì “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường
hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty
mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Còn theo
quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những
quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp)
thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục
đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý
doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát
triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI
bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác)
bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ
phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp
5
đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân
trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền
biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm
soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG nào đều sử dụng mức 10% làm
mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong
doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành
quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư
gián tiếp. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận
để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh
hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà
đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó
để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm
này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình
công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị …), tài sản vô
hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài
chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là
một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
Đặc điểm của FDI
Đây là hình thức mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao. Với hình thức này,
các nhà đầu tư phải tuân thủ luật pháp của nước nhận đầu từ về vốn pháp định và
tỷ lệ vốn tối thiểu. Các nước khác nhau thì quy định tỷ lệ vốn pháp định khác
nhau. Mỹ quy định số vốn pháp định là 10% trong khi một số nước khác lại là
20%, 30%. Các nhà đầu tư là người bỏ vốn và đồng thời tự mình trực tiếp quản lý
6
và điều hành dự án. Quyền quản lý phụ thuộc vào sô vốn đóng góp mà chủ đầu tư
đã góp trong vốn pháp định của dự án, nếu doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì
họ có toàn quyền quyết định. Thu nhập chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh. Kết quả thu được từ dự án được phân chia cho các bên theo tỷ lệ vốn góp
vào vốn pháp định sau khi đã nộp thuế cho nước nhận đầu tư và trả lợi tức cổ phần
cho các cổ đông nếu là công ty cổ phần. FDI thường được thực hiện thông qua
việc xây dựng mới hay mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt
động, thông qua việc mua cổ phiếu để thông tin xác nhận
1.1.2. Phân loại FDI
Có rất nhiều cách để phân loại FDI. Có thể phân loại FDI theo hình thức thâm
nhập quốc tế, phân theo hình thức đầu tư, theo tính chất dòng vốn hay động cơ của
nhà đầu tư. Đối với việc phân loại theo hình thức thâm nhập quốc tế thì gồm có 2
hình thức chủ yếu là đầu tư mới (GI: Greenfield Investment) và mua lại và sáp
nhập (M&A: Merger and Acquisition).
Đầu tư mới (GI): là hoạt động đầu tư trực tiếp vào các cơ sở sản xuất, kinh
doanh hoàn toàn mới ở nước ngoài, hoặc mở rộng một cơ sở sản xuất kinh doanh
đã tồn tại. Với hình thức này, cần phải bỏ ra nhiều tiền để đầu tư, nghiên cứu thị
trường, chi phí liên hệ cơ quan nhà nước và có nhiều rủi ro. Tuy nhiên, đây lại là
hình thức thường được các nước nhận đầu tư đánh giá cao vì nó có khả năng tăng
thêm vốn, tạo thêm việc làm và giá trị gia tăng cho các nước này.
Hình thức M&A: Đây là hình thức đầu tư trực tiếp liên quan đến việc mua lại
hay hợp nhất với một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động. Ưu điểm của hình
thức này là có thể tận dụng lợi thế của đối tác ở nơi tiếp nhận đầu tư để tiết kiệm
thời gian và giảm thiểu rủi ro. Theo luật cạnh tranh của Việt Nam có hiệu lực từ
ngày 1 tháng 7 năm 2005 đã đưa ra khái niệm về mua lại và sáp nhập như sau: Sáp
nhập ( merger ) doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của một doanh nghiệp bị sáp nhập; Mua lại
7
( acquisition) doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần
tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phí một phần hoặc toàn bộ một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Phân theo hình thức đầu tư: Gồm có các hình thức FDI sau: hợp đồng hợp tác
kinh doanh; công ty hay xí nghiệp liên doanh; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài,
các hợp đồng BT, BOT, BTO..
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: Đây là một văn bản được ký kết giữa
một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để
tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở
quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một
công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào. Hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoài này có đặc điểm: cả hai bên cùng hợp tác kinh doanh
trên cơ sở văn bản hợp đồng đã ký kết giữa các bên về sự phân định trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ; không thành lập một pháp nhân mới, tức là không cho ra
đời một công ty mới; thời hạn của hợp đồng hợp tác kinh doanh do hai bên thoả
thuận, phù hợp với tính chất hoạt động kinh doanh và sự cần thiết để hoàn thành
mục tiêu của hợp đồng..
Hình thức công ty hay xí nghiệp liên doanh: Xí nghiệp hay công ty liên doanh
được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầy tư và một bên là
các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. một xí nghiệp liên doanh có thể gồm hai
hoặc nhiều bên tham gia liên doanh. đặc điểm của hình thức liên doanh này là: cho
ra đời một công ty hay một xí nghiệp mới, với tư cách pháp nhân mới và được
thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn; thời gian hoạt động, cơ cấu tổ
chức quản lý của công ty, xí nghiệp liên doanh được quy định tùy thuộc vào luật
pháp cụ thể của mỗi nước; các bên tham gia liên doanh phải có trách nhiệm góp
vốn liên doanh, đồng thời phân chia lợi nhuận và rủi ra theo tỉ lệ góp vốn.
Hình thức công ty hay xí nghiệp 100% vốn từ nước ngoài: Đây là hình thức
các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước
8
ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh. Đặc điểm của các công ty này là được thành lập dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và
hoạt động dưới sự chi phối của Luật pháp nước nhận đầu tư
Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực
hiện những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T). Những dự án
B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi
để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Theo dự thảo nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật đầu tư của Việt Nam
năm 2005, các hình thức FDI tại Việt Nam bao gồm:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BBC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp
đồng BT
- Đầu tư phát triển kinh doanh
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lí hoạt động đầu tư
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI
Các nhân tố ảnh hướng tới FDI bao gồm: các nhân tố liên quan đến chủ đầu
tư, các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư, các nhân tố liên quan đến nước
nhận đầu tư và các nhân tố liên quan đến môi trường quốc tế.
Các nhân tố liên quan đến chủ đầu tư: Với vai trò là các chủ đầu tư, mục tiêu
mà các chủ đầu tư đặt ra là nhằm thu lợi nhuận cao. Chính vì vậy mà họ đầu tư ra
thị trường nước ngoài nhằm mở rộng hoạt động và môi trường đầu tư bằng các
9
cách thức xâm nhập khác nhau: xuất khẩu, nhượng quyền…. Các chủ đầu tư cần
phải xem xét xem hình thức xâm nhập nào là phù hợp nhất và đem lại hiệu quả cao
nhất góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư: Nước chủ đầu tư là một trong
những nhân tố ảnh hưởng tới việc cung cấp vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Các nước có thể đưa ra các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ nhằm giúp các chủ đâu
tư của nước mình tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, song cũng có
các biện pháp để hạn chế hoặc cấm đầu tư ra nước ngoài. Các biện pháp khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài như: Nhà nước có thể tham gia kí kết các hiệp
định song phương và đa phương về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư hoặc đứng
ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước cũng có
thể đưa ra các biện pháp ưu đãi về thuế và tài chính dưới dạng hỗ trợ tài chính trực
tiếp cho chủ đầu tư, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc tài trợ cho các chương
trình đào tạo của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với các biện pháp hạn chế đầu tư, nước chủ đầu tư có thể dùng thuế hay đưa
ra các biện pháp hạn chế chuyển đổi vốn ra nước ngoài để nhằm kiểm soát cán cân
thanh toán, hạn chế thâm hụt….
Các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư: Để đảm bảo mọi điều kiện khi
thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư cần tìm hiểu kĩ các điều kiện
sản xuất – kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Theo hội nghị của LHQ về thương mại
và phát triển( UNCTAD), có 3 nhóm yếu tố quyết định FDI của nước tiếp nhận
đầu tư. Nhóm thứ nhất là yếu tố về khung chính sách về FDI của nước tiếp nhận
đầu tư. Đó có thể là các quy định về luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp tới
FDI bao gồm các quy định về việc thành lập và hoạt động doanh nghiệp của các
nhà đầu tư nước ngoài, các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI và cơ chế hoạt động của
thị trường trong đó có sự tham gia của các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Nhóm yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả hoạt
động của FDI.
10
Nhóm ảnh hưởng thứ hai là các yếu tố của môi trường kinh tế. Nhiều nhà kinh
tế cho rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ành hưởng
quyết định trong thu hút FDI. Tùy động cơ của chủ đầu tư nước ngoài mà có thể
có các yếu tố sau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn FDI:
+ Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố:
dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị
trường; khả năng tiếp cận thị trường của khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt
của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cầu thị trường.
+ Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài
nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề;
công nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra; cơ sở
hạ tầng…
+ Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các
nguồn tài nguyên và tài sản; các chi phí đầu vào; chi phí mua bán thành phẩm…
Nhóm ba chính là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh, bao gồm chính
sách xúc tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực
phí bằng cách giải quyết nạn tham nhũng; cải cách thủ tục hành chính để nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lí Nhà nước; nâng cao chất lượng dịch vụ các
tiện ích xã hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài;
các dịch vụ hậu đầu tư… Nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố tạo thuận
lợi trong kinh doanh, các nước đã đưa ra các chính sách ưu đãi phù hợp nhằm tạo
thuận lợi nhiều hơn cho các chủ đầu tư
Các nhân tố của môi trường quốc tế: Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh
tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn định hay không, có thuận lợi hay không thuận
lợi đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư cũng như cho chính chủ đầu tư
khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Đối với môi trường đầu tư, nước
nào xây dựng môi trường đầu tư có sức hấp dẫn cao hơn thì nước đó sẽ có khả
năng thu hút FDI tốt hơn.
11
1.1.4. Vai trò của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư
Thứ nhất, FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu
hụt vốn đầu tư góp phần tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Đối với
các nước đang phát triển, việc tiếp nhận số lượng lớn vốn đầu từ nước ngoài sẽ
vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt
cầu, vì đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi chủ chi tiêu nên những thay đổi
bất thường về đầu tư có ảnh hưởng lớn đến sản lượng và thu nhập về mặt ngắn
hạn. Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản
lượng tiềm năng tăng theo, do đó giá cả sản phẩm giảm xuống. Sản lượng tăng, giá
cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản
xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển
kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi
thành viên trong xã hội.
Thứ hai, đầu tư sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các nước đang
phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó
từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của quốc gia, góp phần phát triển các
ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời, đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện
đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất kém màu mỡ.
Điều này giúp cho các nước đang phát triển nâng cao được năng lực cạnh tranh
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới trong việc tiếp tục thu hút đầu tư
nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán, do khoản
mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư trực tiếp nước ngoài thường hoạt động trong
các lĩnh vực xuất khẩu do đó giảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ từ hoạt động
12
của doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Do vậy sẽ làm cán cân thanh toán dịch chuyển
theo chiều thăng dư.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nước
đang phát triển thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực
một do không có nhiều vốn. Vì vậy FDI sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hợp lý hơn, dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng
trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự
phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết
những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát
triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa lý, kinh tế, chính trị, … Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản
phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng
đáp ứng tốt hớn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở
các nước tiếp nhận đầu tư: Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, có điều
kiện để nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hện công nghệ
mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, công nghệ hạng ba. Đã dẫn tới nhu cầu
chuyển giao công nghệ. Trong khi nước sở tại khan hiếm vốn không có điều kiện
nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thường thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận
công nghệ song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường
quan hệ thương mại vì không có vốn. Nên thông qua con đường FDI để tiếp nhận
công nghệ là chủ yếu. Với hình thức này nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận
công nghệ mới và tận dụng được các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở nước đối tác
nhưng còn tiên tiến hơn so với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm
được thời gian nghiên cứu, có điêù kiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách về
mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác dụng lan tỏa, thúc
đẩy cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp nội địa ở các nước đang phát triển. Hiệu
13
quả họat động của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được nâng cao qua số
lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức
quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ năm, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài học hỏi được kinh
nghiệm kinh doanh, nâng cao hiêu quả quản lý, và tác phong lao động của các nhà
đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm kinh doanh, có khả năng quản lý hiệu quả.
Trong quá trình hơp tác: cùng kinhdoanh, cùng quản lý...sẽ nâng cao hiệu quả
quản lý, kinh nghiệm kinh doanh cho nước tiếp nhận.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển phân công lao động
trong nước và quốc tế, tạo công ăn việc làm, làm tăng thu nhập cho người lao động
và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ bảy, đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện cho nước đang phát triển
mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngòai theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa,
góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đặc
biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Thông qua FDI các nước nhận đầu tư có
thể tiếp cận với thị trường thể giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các
công ty đa quốc gia thực hiện mà các công ty có lợi thể về việc tiếp cận với khách
hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của
họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn...
1.2. Tổng quan về chính sách thuế
1.2.1. Khái niệm và bản chất thuế
Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách quốc gia, là một công cụ quan
trọng mà bất kì Nhà nước nào cũng sử dụng để hoàn thành chức năng của mình.
Hơn nữa, thuế có sự điều tiết và chia sẻ công bằng giữa người có thu nhập cao và
người có thu nhập thấp, đồng thời nói lên sức mạnh tự chủ về tài chính của một
14
quốc gia. Nói đến khái niệm về thuế, theo từ điển Tiếng Việt ( xuất bản năm 1977)
thì thuế là một phần tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dung vào mọi
việc chi tiêu của Nhà nước. Còn ở góc độ nghiên cứu và pháp luật thì thuế được
quan niệm là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc
mọi tổ chức và cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước. Dưới góc độ của người
thu thuế thì thường hiểu thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo nghĩa vụ do pháp
luật quy định. Thuế là khoản thu không phải hoàn trả ngang giá và trực tiếp. Với
người nộp thuế thì hiểu thuế đơn thuần là khoản bắt buộc phải nộp cho Nhà nước
theo quy định. Tuy nhiên, dù xem xét thuế ở góc độ nào, hiều thuế theo khía cạnh
nào thì ta có thể kết luận rằng: Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân
có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
theo chức năng của Nhà nước. Người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu
nhập còn lại
Bản chất của thuế: Thuế phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và
tồn tại của Nhà nước. Chính vì vậy, thuế có bản chất kinh tế - xã hội – chính trị sâu
sắc. Thuế đóng góp một phần lớn và quan trọng trong các khoản chi tiêu của Nhà
nước. Kinh tế là cơ sở của thuế vì không có sản xuất hiệu quả thì không có sự gia
tăng về nguồn thu từ thuế của Nhà nước. Vì vậy, việc thu thuế phải tác động được
tới sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển. Đây chính là
bản chất kinh tế của thuế.
Về bản chất giai cấp của thuế: Nhà nước thuộc bản chất giai cấp nào thì sẽ
quyết định bản chất của thuế như thế. Cùng một hiện tượng Nhà nước thu thuế của
dân, nhưng với các Nhà nước khác nhau thì bản chất của thuế cũng sẽ khác nhau:
Thu thuế vào ai? Thu thuế như thế nào? Thu thuế để làm gì? Trong xã hội bóc lột
người, nhân dân lao động phải đóng thuế cho Nhà nước để nuôi bộ máy áp bức,
bóc lột. Còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân đóng thuế để chi tiêu cho
những công việc nhằm phục vụ chính bản than mình. Đó là sự khác biệt cơ bản về
bản chất giai cấp, bản chất chính trị của thuế.
15
Không chỉ thể hiện bản chất kinh tế, bản chất chính trị, thuế còn cho thấy tính
xã hội sâu sắc trong đó. Trước hết vì thuế thu vào dân, thuế có liên quan đến tất cả
các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nó cũng điểu chỉnh các quan hệ phân phối, phân
phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ chức kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư.
1.2.2. Phân loại thuế
Phân loại theo tính chất chuyển dịch về thuế:Bao gồm thuế gián thu và thuế
trực thu để phân biệt đối tượng chịu thuế.
Thuế gián thu. (Indirect taxes):Là loai thuế mà người trực tiếp nộp thuế không
phải là người chịu thuế. Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ
phận cấu thành trong giá mua hàng hoá, nhằm động viên sự đóng góp của người
tiêu dùng. Thực chất người tiêu dùng phải trả khoản thuế đó nhưng lại nộp thông
qua nhà kinh doanh, nhà sản xuất. Như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất nhập khẩu…
Thuế trực thu. (Direct taxes): Là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế đồng
thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên thu nhập của người nộp
thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền
sử dụng đất.
Phân loại thuế theo đối tượng chịu thuế:Theo cách phân loại này có thể chia
thuế thành:
- Thuế đánh vào hoạt động kinh doanh, dich vụ như: thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào hàng hoá tiêu dùng đặc biệt như: thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế đánh vào thu nhập như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh
nghiệp.
- Thuế đánh vào tài sản như : thuế nhà đất, lệ phí trước bạ.
- Thuế đánh vào việc sử dụng một số tài sản quốc gia như: thuế tài nguyên,
thuế sử dụng đất nông nghiệp.
16
1.2.3. Vai trò của thuế
1.3.2.1. Đối với nền kinh tế
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách: Một nền tài chính quốc gia lành
mạnh và vững chắc phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc
dân. Thuế là nguồn thu quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng kinh tế định hướng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Hiện nay nguồn thu từ nước ngoài giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển
thành có vay, có trả. Trước mắt, thuế phải là một công cụ quan trọng góp phần tích
cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã
hội và phát triển kinh tế bền vững. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống
thuế phải được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế, thuế phải bao quát
hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tài nguyên chịu thuế và
tiêu dùng xã hội.
Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế: Ngoài việc huy động nguồn thu cho
ngân sách, thuế có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập. Vì vậy căn cứ vào tình hình cụ thể,
nhà nước sử dụng công cụ này để chủ động điều hành nền kinh tế. Lúc nền kinh tế
quá thịnh thì việc gia tăng thuế có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng nhu
cầu làm giảm phát triển của kinh tế. Những mặt hàng quan trọng như xăng dầu, sắt
thép… khi có sự biến động giá cả trên thế giới, để ổn định giá cả trong nước nhà
nước thông qua công cụ thuế để ổn định giá cả. Như vậy, qua việc xây dựng các
luật thuế mà nhà nước có thể chủ động phát huy vai trò điều hoà nền kinh tế. Dựa
vào công cụ thuế, nhà nước có thể thúc đẩy hoăc hạn chế việc tích luỹ đầu tư,
khuyến khích xuất khẩu….
Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng
xã hội: Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành
phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.
Sự bình đẳng và công bằng xã hội được thể hiện thông qua chính sách động viên
17
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đằng về nghĩa vụ đối với mọi công
dân, không có đặc quyền, đặc lợi cho bất kì đối tượng nào. Công bằng xã hội
không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa. Người có thu nhập cao phải đóng thuế
nhiều hơn người có thu nhập thấp. Tuy nhiên phải để người có thu nhập cao chính
đáng được hưởng thành quả lao động của mình thì mới khuyến khích họ phát triển
sản xuất kinh doanh, tránh lạm thu, trùng lắp để đảm bảo công bằng và bình đẳng
xã hội. Bình đẳng, công bằng xã hội không chỉ là đạo lý, lý thuyết mà phải được
biểu hiện bằng luật pháp, chế độ qui định của nhà nước. Phải có những biện pháp
chống thất thu về thuế đối với đối tượng nộp thuế, về căn cứ tính thuế, về tổ chức
quản lý thu thuế, về chế độ miễn giảm thuế, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối
với các vụ vi phạm trốn thuế…
1.2.3.2. Đối với các doanh nghiệpFDI
Như chúng ta đã biết, thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, là một
nguồn thu quan trọng trong NSNN. Trong nền kinh tế thị trường, thuế được coi là
một công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò của thuế đối với nền
kinh tế của một nước là quá rõ ràng. Đối với các doanh nghiệp FDI, thuế cũng là
một nhân tố đáng lưu ý khi nó ảnh hưởng quan trọng đến tỷ suất lợi nhuận của vốn
đầu tư. Khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, tất yếu họ sẽ
quan tâm trước hết tới lợi nhuận. Thuế tác động đến lợi nhuận và do đó ảnh hưởng
tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài và đóng vai trò bảo vệ sản
xuất trong nước( thuế quan nhập khẩu) nên sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào
nền kinh tế nội địa. Thông thường một mặt hàng nào đó, để tránh thuế nhập khẩu
cao( ôto du lịch, xe máy, điện tử…) thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ đến việc đầu tư ở
Việt Nam.
Vai trò của thuế đối với các doanh nghiệp FDI còn thể hiện ở chỗ thuế là một
trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư. Thuế có ảnh hưởng quyết
định đến việc chi tiêu ngân sách. Ngân sách càng có nguồn thu lớn thì càng tạo ra
18
môi trường tốt để khuyến khích đầu tư. Thuế thu đủ cho chi tiêu ngân sách sẽ góp
phần hạn chế lạm phát. Điều đó tạo ra môi trường tài chính thuận lợi cho hoạt
động đầu tư; nguồn thu thuế càng ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho Nhà
nước đầu tư vào lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn dài như:
cơ sở hạ tầng y tế, giáo dục ở nông thôn, miền núi… và do đó tạo ra môi trường
cần thiết để hấp dẫn FDI. Hơn nữa, thuế lại là biện pháp quan trọng trong chính
sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Các ưu đãi đầu tư về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt
tài chính để thu hút các nhà đầu tư vào một quốc gia hay vào một lĩnh vực kinh tế
nhất định.
1.3. Chính sách thuế đối với các doanh nghiệp FDI trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế
1.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của sự phát triển kinh tế thế giới
bên cạnh xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu sắc. Nó là quá trình gắn
kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ
lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn
phương đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế về bản chất chính là việc tham gia cạnh tranh trên thị
trường quốc tế và ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập kinh tế quốc tế có
hiệu quả, một nước cần phải có nội lực đủ mạnh, cần phải có sự cải cách và điều
chỉnh về các cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong
nước sao cho phù hợp với “ luật chơi chung” của quốc tế. Chính sách hội nhập
phải gắn chặt với sự phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành
chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập.
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự
nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình từng
bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào
19
các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta từng
bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có
định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào
làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế và các rào
cản khác để việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa
Việt Nam và các nước được dễ dàng, phù hợp với những quy định của các tổ
chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới mà Việt Nam tham gia. Đồng thời việc
đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại
với các nước, Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại
quốc tế như: gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại
Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996; trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 – khối kinh tế khu
vực lớn nhất thế giới; là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO năm 2007… Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia vào các liên kết kinh tế tiểu
vùng như: Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang Đông Tây(WEC), Tam
giác phát triển Việt Nam – Lào –Campuchia…
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không
mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích
dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục
tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội
IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về
Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an
ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Đây
là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước
ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh
20
tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công
hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước
ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù
hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh
doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó
có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong
nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá
là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi
của nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính
sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong
kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng này, cần
nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu
tư nước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm
quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn
thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách
tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính nhất
quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư;
xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp
với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình hội nhập mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho
các thành phần kinh tế; thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định
21
song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại
Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập
khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động trong hội nhập
và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác
lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
1.3.2. Những yêu cầu, đòi hỏi đối với chính sách thuế trong bối cảnh hội
nhập.
Chính sách thuế phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối
với nền kinh tế, vừa động viên được các nguồn lực đồng thời thúc đẩy phát triển
nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư; khuyến khích
đổi mới công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế
tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào NSNN, đảm bảo nhu
cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích lũy phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên Nhà nước vẫn cần tiếp
tục miễn, giảm thuế TNDN để khuyến khích đầu tư, khuyến khích những ngành,
nghề, lĩnh vực và các địa bàn kém phát triển, có điều kiện khó khăn và đặc biệt
khó khăn. Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp để khoan sức dân, tạo điều
kiện phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Không thu sử dụng vốn NSNN
để doanh nghiệp Nhà nước có thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện
bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện, tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính sách thuế
phải từng bước tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. áp dụng hệ thống
thuế thống nhất không phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau.
22
Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai;
tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế; nhanh chóng hiện đại hoá và
nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực,
yếu kém trong quản lý thuế; kiện toàn bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững
mạnh.
1.3.3. Thực tiễn chính sách thuế của các nước trên thế giới đối với các
doanh nghiệp FDI
Trong những năm gần đây, hòa mình với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia trên thế giới đang có xu hướng cải cách các chính sách thuế của mình
cho phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế cao
hơn nữa và vươn mình mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ở mỗi nước
cũng có những nội dung cải cách theo xu hướng khác nhau tùy đặc điểm chính trị kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Tùy vào mục tiêu và phương hướng thu hút FDI của
mình mà các nước đưa ra những chính sách thuế khác nhau nhằm tận dụng hiệu
quả nguồn vốn FDI. Có thể tìm hiểu thực tiễn chính sách thuế của Trung Quốc và
Đài Loan đối với các doanh nghiệp FDI trong bối cảnh hội nhập mà qua đó Việt
Nam có thể tham khảo nhằm thu hút nguồn vốn FDI đạt hiệu quả cao hơn.
1.3.3.1. Chính sách thuế của Đài Loan
Đài Loan - điển hình của các nước công nghiệp mới - được xem như là rất
thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhờ có hệ thống
chính sách thuế hợp lý. Bởi lẽ từ nhận thức xem thuế là một công cụ có hiệu lực
góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước
tiến lên giàu mạnh và tạo được nguồn tài chính quốc gia lành mạnh, Chính phủ
Đài Loan đã không ngừng quan tâm đến việc xem xét, cải cách hệ thống thuế đặc
biệt đầu năm 1960, sau khi có Luật thuế khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhằm
bảo đảm hệ thống thuế luôn hợp lý, đạt hiệu quả cao trong tình hình kinh tế - xã
hội thường xuyên biến động
23
Từ năm 1981, hệ thống thuế Đài Loan được phân chia cho ba cấp phụ trách
quản lý thu gồm có : thuế quốc gia, thuế tỉnh (thành phố), thuế huyện (quận). Và
theo thời gian hệ thống chính sách thuế của Đài Loan đã không ngừng hoàn thiện,
thuế suất thuế thu nhập ngày càng giảm dần theo xu hướng ưu đãi hơn. Các quy
định miễn giảm thuế cũng được mở rộng, bổ sung nhiều hơn. Các ưu đãi và
khuyến khích về thuế thu nhập gián tiếp bằng cách loại trừ ngày càng nhiều các
khoản thu ra khỏi thu nhập chịu thuế đồng thời cho phép tăng khấu hao và chấp
nhận một số khoản chi phí như : chi nghiên cứu, sản xuất thử, chi tiếp thị…Chế độ
thuế quan được thực hiện rất thông thoáng với mục tiêu đạt được thông lệ của
WTO. Đây cũng là đặc trưng cải cách thuế ở các nước công nghiệp mới, đặc biệt
là ở Singapore và Hồng Kông, hai quốc gia này được ví như hai “cảng tự do”.
Điều này mang ý nghĩa rất lớn đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.3.3.2. Chính sách thuế của Trung Quốc
Vào buổi bình minh của thời kỳ mở cửa, đó là năm 1978, đầu tư nước ngoài là
cực kỳ cần thiết cho phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Một loạt các chính sách ưu
đãi, trong đó có ưu đãi về thuế được đưa ra để mời chào các nhà đầu tư nước
ngoài. Ở Trung Quốc, các dự án đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu công nghệ cao sẽ
được ưu đãi về thuế, các dự án đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn như miền
Tây, miền Trung - sẽ được thuê đất miễn phí, miễn thuê thu nhập trong vòng 10
năm
Trung Quốc từng bước hạ thấp mức thuế tổng thể và tiến hành điều chỉnh một
cách hợp lý cơ cấu thuế suất. Mức thuế nhập khẩu của Trung Quốc đã giảm từ
17% (năm 2001) xuống còn 17% (năm 2005). Giảm thuế kinh doanh đối với
doanh nghiệp bảo hiểm và tài chính từ 8% xuống còn 7% năm 2001, 6% năm 2002
và 5% năm 2003 ; thuế kinh doanh đối với dịch vụ giải trí cao cấp (hộp đêm, sàn
nhảy, săn bắn…) là 20%;…
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
2.1. Các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
2.1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Tình hình chung
Tính gộp trong toàn giai đoạn 2001-2010 (tính đến ngày 21/12/2010), Việt
Nam đã thu hút được 12.213 dự án, với tổng vốn đăng ký đạt khoản 192,9 tỷ USD
và vốn thực hiện là khoảng 63 tỷ USD, bình quân 16,2 triệu USD/dự án và 5,5
triệu USD/dự án nếu xét lần lượt theo vốn đăng ký cam kết và thực hiện hàng
năm. Nếu nhìn bình diện chung so với các nước đang phát triển trong thời kỳ này,
Việt Nam là một trong số 15 nước được tiếp nhận luồng FDI lớn nhất trên thế giới.
Bảng 1: FDI tại Việt Nam từ năm 2000 – 2011
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Số dự án
Vốn đăng kí
Vốn thực hiện
391
555
808
791
811
970
833
1544
1557
839
1238
1085
( Triệu USD)
2838,9
3142,8
2998,8
3191,2
4547,6
6839,8
12004
20347,8
71726
21482
18600
14628
( Triệu USD)
2413,5
2450,5
2591
2650,5
2852,5
3308,8
4100,1
8030
11500
10000
11000
11000
Nguồn: Tổng cục Thống kê
25