TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÁNH HÒA
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: DI SẢN KIẾN TRÚC VÀ MĨ THUẬT
VIỆT NAM
NÉT ĐẸP TRONG KIẾN TRÚC CHÙA
KEO THÁI BÌNH
GVHD: ThS. NGUYỄN ĐĂNG ĐỨC
SVTH: LÊ VĂN DUY
LỚP: VIỆT NAM HỌC K1
Nha Trang, ngày 25 tháng 5 năm 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHÁNH HÒA
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
----------
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: DI SẢN KIẾN TRÚC VÀ MĨ THUẬT
VIỆT NAM
NÉT ĐẸP TRONG KIẾN TRÚC CHÙA
KEO THÁI BÌNH
GVHD: ThS. NGUYỄN ĐĂNG ĐỨC
SVTH: LÊ VĂN DUY
LỚP: VIỆT NAM HỌC K1
Nha Trang, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Việt Nam là đất nước có lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Trong suốt những năm ấy là quá trình hình thành, xây dựng và
vung đấp một nền văn hóa manh đậm bản sắc dân tộc cũng như gìn giữ nếp
sống từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nền văn hóa ấy, nếu là phi vật thể được
thể hiện qua lối sống, qua phong tục tập quán, qua cách ứng xử giữa con
người với thiên nhiên, giữa con người với con người. Nếu là vật thể, nét văn
hóa ấy được thể hiện trong các công trình kiến trúc mĩ thuật của người Việt
Nam.
Với một lịch sử phát triển lâu dài, cha ông ta đã để lại một hệ thống
các di sản kiến trúc mĩ thuật rất phong phú và đặc sắc, thể hiện rõ những nét
văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những nét chung,
những công trình này vẫn thể hiện được những nét riêng trong phong cách
mĩ thuật, trong sự phát triển của từng thời kỳ lịch sử.
Một trong những hệ thống các công trình kiến trúc còn lại nhiều nhất
và thể hiện rõ nét những đặc trưng kiến trúc mĩ thuật Việt Nam truyền thống
đó là hệ thống các đền chùa.
Qua quá trình học tập, tìm hiểu về học phần “Di sản kiến trúc và mĩ thuật
Việt Nam”, cũng như nghiên cứu các tài liệu về các di sản kiến trúc Việt
Nam qua từng thời kì, tôi thấy vô cùng hứng thú với kiến trúc mĩ thuật thời
Hậu Lê. Ngoài các công trình kiến trúc về cung điện, lăng tẩm của vua, dinh
thự của quan lại, đền miếu điện… thì kiến trúc về chùa chiền đã để lại trong
tôi sự thôi thúc phải đi sau vào tìm hiểu hơn nữa. Và trong những ngôi chùa
vào thời kì này đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất chính là chùa Keo
Thái Bình với những nét đẹp trong kiến trúc mà tôi không thể quên. Có thể
nói, chùa Keo Thái Bình thực sự là một công trình thể hiện được tài hoa của
các nghệ nhân, kiến trúc của chùa là sự kết hợp hài hòa giữa lối thờ Phật và
thờ Thánh, đã để lại dấu ấn đặc biệt đối với tôi trong quá trình tìm hiểu,
khiến tôi muốn khám phá và tìm hiểu sâu sắc về ngôi chùa này, và có thể nói
đây là ngôi chùa còn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo có từ thời Hậu
4
Lê. Đồng thời, nhu cầu trở về cội nguồn, tìm hiểu những văn hóa truyền
thống là một nhu cầu thiết yếu trong mỗi người, trong đó không ngoại trừ
bản thân tôi. Vì thế, với sự đam mê nghệ thuật kiến trúc chùa Keo Thái Bình
cũng như mong muốn được tìm hiểu văn hóa truyền thống, tìm hiểu cái hay,
cái đẹp của cha ông nên chúng tôi quyết định tìm hiểu đề tài này để làm tiểu
luận cho học phần “Di sản kiến trúc và mĩ thuật Việt Nam.
Thông qua việc tìm hiểu, phân tích vẻ đẹp và sự kết hợp phong cách
kiến trúc độc đáo trong văn hóa thờ Phật và thờ Thánh mà chùa Keo Thái
Bình còn lưu giữ cho tới ngày nay, nhằm giới thiệu cho du khách trong và
ngoài nước biết đến công trình độc đáo này. Hơn nữa, việc quảng bá, giới
thiệu này cũng phục vụ cho công việc sau này của sinh viên ngành Việt Nam
học mà tôi đang theo học.
Trong thời gian ngắn cũng như phạm vi nghiên cứu có hạn, do không
có điều kiện thực tế nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về nét đẹp trong
kiến trúc của ngôi chùa bằng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp
phân tích giá trị, phương pháp thuyết trình, đối chiếu và tổng hợp nguồn tài
liệu tìm kiếm trên sách báo cũng như trên Internet.
5
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái quát về sự hình thành chùa Keo Thái Bình
Chùa Keo ( tên chữ: 神神神 -Thần Quang tự ), thuộc thôn Hành Dũng
Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Hình 1. Quan cảnh chùa Keo Thái Bình nhìn từ trên cao
Theo các nghiên cứu từ Ban Quản lý di tích tỉnh Thái Bình, thì vào
năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý
Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp
Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính
Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành
chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi
dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam
- hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện
Xuân Trường, Nam Định); một bộ định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông
Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia
thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa
Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái
6
Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo
dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự.
Căn cứ vào văn bia ở Chùa Keo tỉnh Thái Bình thì chùa do một vị
quan lớn thời Lê - Trịnh đứng ra khởi lập, đó là quận công Hoàng Nhân
Dũng ở làng
Tứ Quán, phủ Hải Thanh. Vì lúc bấy giờ đang có cuộc nội chiến
Trịnh - Nguyễn nên chúa Trịnh chỉ cấp cho nhà chùa 100 cây gỗ lim, còn tất
cả vật liệu khác đều do nhân dân tự đóng góp. Chính vì vậy, Hoàng Nhân
Dũng đã phải mất 19 năm ròng đi vận động quyên góp (1611-1630), đến
tháng 7/1630 ông đã mời được 42 hiệp thợ và khởi công xây dựng. Sau 28
tháng thì hoàn thành, Chùa Keo Thái Bình khánh thành vào cuối năm 1632.
Sau khi xây dựng xong, chùa được trùng tu nhiều lần, vào các năm 1689,
1707, 1941... Lần trùng tu năm 1941, có sự giúp đỡ của Trường Viễn Đông
Bác Cổ Pháp. Qua nhiều lần trùng tu, đến nay Chùa Keo vẫn giữ nguyên bản
sắc kiến trúc độc đáo có từ thời Hậu Lê ở thế kỷ 17.
Hình 2. Du khách thập phương đến viếng lễ chùa
Năm 1962, chùa Keo được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa
Quốc gia. Đến năm 2012, chùa tiếp tục được xếp hạng là Di tích Quốc gia
đặc biệt. Và năm 2013, chùa còn được công nhận là “ Điểm đến du lịch
Quốc gia”
7
2. Lối kiến trúc xây dựng và các hạng mục kiến trúc
chính trong chùa Keo Thái Bình
2.1 Lối kiến trúc xây dựng
Chùa Keo Thái Bình là một trong những công trình tiêu biểu cho
kiến trúc nghệ thuật thời Lê, đến nay vẫn giữ được dáng dấp kiến trúc cổ ban
đầu. Ngoài quy mô rộng lớn bậc nhất trong các chùa cổ ở Việt Nam, Chùa
Keo cũng có nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo riêng.
Chùa Keo Thái Bình quay mặt hướng chính nam, các công trình
được xây dựng cân đối theo lối kiến trúc đặc trưng “nội nhị công, ngoại nhất
quốc”. Nếu tính Tam quan ngoại là kiến trúc điểm đầu và Gác chuông phía
sau chùa là điểm cuối, thì hai điểm này nằm trên một đường thẳng theo
hướng Bắc - Nam, gọi là đường thần đạo.
Được đánh giá là một kiệt tác nghệ thuật bằng gỗ lim, Chùa Keo còn
được xem là công trình nghệ thuật đồ sộ với nguyên vẹn 12 tòa, và 102 gian
kiến trúc chính. Ngoài ra còn có 4 tòa, 24 gian của các công trình kiến trúc
phụ trợ. Tổng số là 16 tòa, 126 gian trên một diện tích đo đạc gần đây là xấp
xỉ 56.000 m2.
Hình 3. Sơ đồ tổng thể chùa Keo
Điểm khác biệt với các ngôi chùa khác là Ngoài chức năng thờ Phật,
chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh
Dương Không Lộ và những người có có công lớn trong việc dựng chùa
(Trịnh Thị Ngọc Lễ, Hoàng Nhân Dũng, Trần Thị Ngọc Duyên, Lê Hồng
Quốc, Nguyễn Văn Trụ). Chùa Keo Thái Bình là một trong những công trình
8
sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như
dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam.
2.2 Các hạng mục kiến trúc chính
2.2.1 Tam quan ngoại
Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột,
mái lợp ngói mũi hài. Kết cấu vì chính theo kiểu giá chiêng, kết cấu vì nách
theo kiểu chồng rường.
Phía trước Tam quan ngoại có 4 trụ biểu và một sân lát đá (kích
thước 11,10m x 10,10m), phía sau là một hồ nước (hình vuông), bờ kè đá,
diện tích khá rộng. Xung quanh hồ là hệ thống đường giao thông dẫn vào
khu vực Tam quan nội.
2.2.2 Tam quan nội
9
Hình 4. Tam quan ngoại
Hình 5. Tam quan nội
Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3
gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Hai vì giữa
được kết cấu theo kiểu chồng rường, vì hồi được kết cấu theo kiểu kẻ
chuyền. Đây là một kiến trúc khá độc đáo, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo.
Đặc biệt là bộ cửa ở vị trí trung quan, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ
XVII (Bộ cửa ở đây hiện nay là hiện vật phục chế, bộ cửa gốc hiện được lưu
giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam).
2.2.3 Chùa thờ Phật
Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà
(chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo).
- Tòa Ông Hộ: được dựng theo thức tàu đao lá mái, gồm 7 gian, kết
cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Khung kiến trúc gồm 6 bộ vì chính và 2 bộ vì
chái bồ câu, dựng trên 4 hàng chân cột. Các cấu kiện kiến trúc được chạm
khắc rất công phu, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật kiến trúc thế kỷ
XVII. Trong khu vực này an vị hai tượng Hộ pháp, khám và tượng các vị
từng có nhiều công lao đối với việc dựng chùa xưa kia: Hoàng Nhân Dũng,
Nguyễn Văn Trụ, Trịnh Thị Ngọc Trân, Lại Thị Ngọc Lễ. Hai gian đầu hồi
an vị bộ tượng Thập điện Diêm vương.
10
Hình 6. Tòa ông Hộ
Hình 6. Tòa Ông hộ
- Tòa Ống muống: khung gỗ, không có tường bao, gồm 3 gian, 4 bộ
vì, 4 hàng chân cột, kết cấu vì theo dạng thức thượng giá chiêng, hạ chồng
rường, mái lợp ngói mũi hài, nối liền chùa Ông Hộ và Tam bảo.. Trong
không gian này có một chiếc sập thờ, mang phong cách nghệ thuật chạm
khắc thời Lê Trung hưng, trên đặt bát hương ban Công đồng.
Hình 7. Toà ông Muống
11
- Tòa Tam bảo: được dựng theo thức tàu đao lá mái, các bộ vì kiểu giá
chiêng chồng rường, kết cấu gỗ, gồm 3 gian, không có tường bao, mái lợp
ngói mũi hài. Đây là khu vực an vị hệ tượng Phật giáo.
Hình 8. Toàn Tam bảo
2.2.4 Đền Thánh và tòa Giá roi
Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3
tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía
trước đền là toà Giá roi (5 gian).
Hình 9. Toàn cảnh tòa Giá roi, đền Thánh và gác chuông
12
2.2.5 Gác chuông
Hình 10. Gác chuông
Được dựng trên nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11m, có 3
tầng mái, kết cầu bằng những con sơn chồng lên nhau. Tầng một treo một
khánh đá dài 1.2m; tầng hai có quả chuông đồng cao 1.3m với đường kính
1m được đúc vào thời Lê Hy Tông 1686; tầng ba và tầng thượng treo chuông
nhỏ cao 0.62m, đường kính 0.69m đúc năm 1796. Đặc biệt, bộ mái gác
chuông có kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong kiến trúc Việt
Nam.
13
Hình 11. Chuông đồng và Khánh đá
Ngoài các kiến trúc chính, chùa Keo còn một số kiến trúc phụ trợ, như Hai
dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh,
phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác
chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Khu Tăng xá, Nhà khách (phía Đông và phía
Tây), hiện đang lưu giữ và 197 di vật, cổ vật gắn với lịch sử hình thành và
phát triển của chùa (từ thế kỷ XVII đến nay), được tạo tác từ nhiều loại chất
liệu (gỗ, đá, đồng), có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.
3. Nghệ thuật điêu khắc
Bộ cánh cửa ở Tam quan nội gồm hai cánh, mỗi cánh cao 2,2m rộng
1,3m khi khép lại tạo thành một bức phù điêu hoàn chỉnh, chạm đề tài
“lưỡng long mẫu tử chầu nguyệt”.Chính giữa hai cánh cửa chạm một mặt
nguyệt lớn, mỗi bên cánh cửa chạm một con rồng mẹ và một con rồng con,
phía góc dưới chạm con nghê con tất cả đều đang hướng về mặt nguyệt.
14
Hai tấm bia ở hai bên tòa tiền đường là hai tấm bia tuyệt đẹp với
chạm khắc lộng lẫy cả bốn diện. Đặc biệt, bia đứng trên những cánh sen xếp
lớp thay vì rùa.
Hình 12. Bộ cánh cửa Tam quan nội
Hình 13. Tấm bia đá ở bên trái tòa ông Hộ
15
Ngoài ra, trong khu đền Thánh, các tảng đá kê chân cột đều chạm
cánh sen. Các đầu củng, chắn phong đều được chạm trổ hết sức công phu.
Trên các chắn phong rồng mẹ dắt díu đàn con vui đùa với thú. Thú cưỡi lưng
rồng, thú túm râu rồng, thú đu trên chum mây lửa.
Hình 14. Con son đỡ đầu dư
Đặc biệt, là tất cả các bẩy, kẻ đều có con sơn chống đỡ hai đầu, 42
con sơn ngoại chạm 42 con rồng với các dáng vẻ khác nhau, chỗ này rồng
cuộn 4 vòng, 5 vòng quanh con sơn, chỗ kia rồng tì ngực vào cột dồn hết sức
dơ đầu đỡ kẻ. 42 con sơn nội nhỏ hơn nhưng chạm trổ công phu hơn, cái thì
chạm rồng bốc lửa đưa đầu đội bẩy, cái lại chạm rồng đang khom lưng uốn
mình cõng đấu hoặc chạm nghê thần cõng kẻ, đội hoành, đạp đấu với đường
chạm nét rất sắc sảo, tinh vi.
4. Lễ hội chùa Keo Thái Bình
Dù cho cha đánh mẹ treo
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm
Hàng năm, Chùa mở hội 2 lần, đó là Hội Xuân vào ngày mồng 4 tết
Nguyên Đán, và Hội Thu (lễ hội chính) từ ngày 10 - 15/9 âm lịch (chính hội
từ 13 - 15/9), gắn liền với sự tích của Không Lộ Thiền Sư. Lễ hội Chùa Keo
Thái Bình diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm với các nghi lễ tôn
giáo, một số tập tục cổ truyền và các hình thức biểu diễn nghệ thuật dân
16
gian, đã phản ánh được lối sống của cư dân ven sông, và mang màu sắc văn
hóa nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ.
Hình 15. Lễ rước kiệu hoàng cung
Với tất cả những nét độc đáo thì Chùa Keo (Thái Bình) đã được nhà
nước công nhận là danh lam thắng cảnh ngay từ năm 1960 và hiện nay đã
được liệt kê vào danh sách các thắng cảnh đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Trải qua gần 400 tồn tại và phát triển, trước những thăng trầm của
lịch sử, những biến cố của thời gian, những bất thường của thời tiết trên
những chất liệu chủ yếu bằng gỗ của ngôi chùa thì rất nhiều các công trình
trong chùa đã bị xuống cấp, đặc biệt gác chuông (công trình nổi bật nhất
trong chùa). Trước tình hình đó đòi hỏi các cơ quan chức năng, chính quyền
và cư dân địa phương phải có các biện pháp để trùng tu, tôn tạo giữ gìn sự
nguyên trạng của ngôi chùa để ngôi chùa mãi là “một kiệt tác kiến của thế
kỷ XVII”.
17
PHẦN KẾT LUẬN
Chùa Keo là một trong những ngôi chùa được xây dựng sớm nhất ở
Việt Nam, được xây vào thời nhà Lý – giai đoạn Phật giáo Việt Nam phát
triển cực thịnh, trở thành Quốc giáo của nước Đại Việt xưa. Chùa do Khổng
Lô Thiền sư xây dựng vào năm 1061 tại làng Keo với tên gọi là Nghiêm
Quang tự và sau đổi là Thần Quang tự, thì đến năm 1611, trận lụt do nước
sông Hồng tràn vào làng Keo, do đó dân làng Keo chuyển đến hai nơi sinh
sống và xây dựng lại chùa Keo ở hai nơi ( chùa Keo Trên và chùa Keo
Dươi). Và ngôi chùa mà tôi đang tìm hiểu và nghiên cứu ở đây là chùa Keo
Trên, tức là chùa Keo Thái Bình.
Chùa Keo Thái Bình được xây lại vời thời kì nhà Hậu Lê ( thế kỉ 17)
qua nhiều lần trùng tu, nhưng đến nay chùa vẫn giữ khá nguyên vẹn những
nét đẹp trong kiến trúc nhà Lê. Chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo
Nam Định là một trong số ít ngôi chùa tại Việt Nam vừa thờ Phật vừa thờ
Thánh. Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc “ nội công ngoại quốc” gồm
nhiều hạng mục công trình độc đáo như tòa ông Hộ, tòa Thiên hương, tòa
ông Muống, tòa Phục quốc… và trong đó tiêu biểu nhất là gác chuông - đây
được coi là công trình kiến trúc độc đáo nhất, trở thành điểm nhấn cho ngôi
chùa. Từ trên cao nhìn xuống, gác chuông chùa Keo trông giống như mái
nhà Rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Cấu trúc các tầng nhẹ nhàng,
khỏe đẹp.
Điều để chùa Keo Thái Bình trở nên đặc biệt hơn là tại ngôi chùa còn
lưu giữ nhiều đồ vật quý giá về niên đại cũng như những giá trị nghệ thuật
qua các công trình kiến trúc mà ngôi chùa nắm giữ. Trong đó, phải kể đến bộ
cánh cửa Tam quan nội được chạm trổ tinh xảo với đề tài “lưỡng long mẫu
tử chầu nguyệt”, chính giữa hai cánh cửa chạm một mặt nguyệt lớn, mỗi bên
cánh cửa chạm một con rồng mẹ và một con rồng con, phía góc dưới chạm
con nghê con tất cả đều đang hướng về mặt nguyệt và hiện nay, được nhà
nước công nhận là Bảo vật Quốc gia và cho lưu giữ tại Bảo tàng Mĩ thuật
Việt Nam, ngoài ra chùa còn lưu giữ được những bảng hoành phi câu đối mà
các vị vua bang tặng cho chùa. Hằng năm, chùa Keo Thái Bình mở hội hai
lần vào mùa xuân và mùa thu, thu hút đông đảo người dân tham gia, đặc biệt
là vùng đồng bằng Bắc Bộ để nghi nhớ công lao của Thiền sư Dương Khổng
Lộ và những người có công xây dựng chùa, với ý nghĩa cầu cho quốc thái
dân an, mùa vụ bội thu, nhân dân được ấm no hạnh phúc.
Chùa Keo Thái Bình là ngôi chùa cổ, đã tồn tại hơn 400 năm và trãi
qua bao thăng trầm của lịch sử. Hiện nay, chùa Keo Thái Bình là một trong
những ngôi chùa thuộc loại lớn của miên Bắc Việt Nam, và qua quá trình tìm
18
hiểu, nghiên cứu này tôi thấy được những giá trị văn hóa còn tiềm ẩn mà
ngôi chùa còn ẩn chứa bên trong, những công trình kiến trúc từ bàn tay, trí
óc người xưa tạo nên mà ngay nay chúng ta vẫn chưa khám phá hết.
Điều cuối cùng, là qua học phần “ Di sản kiến trúc và Mĩ thuật Việt
Nam” cùng với việc tìm hiểu và nghiên cứu về Chùa Keo Thái Bình để viết
“ Bài tiểu luân: Nét đẹp trong kiến trúc chùa Keo Thái Bình” này, tôi tự hào
mình là người Việt Nam – đất nước có bề dày lịch sử hơn 4000 năm. Và tôi
cũng như những người dân Việt Nam khác, luôn mong muốn những cơ quan
nhà nước, những người chuyên trách về lĩnh vực văn hóa cần ra sức hơn nữa
trong việc bảo tồn và khôi phục những giá trị văn hóa tốt đẹp đang bị mai
mọt, biến dạng. Từ đó, vận động, tuyên truyền hơn nữa để mọi người dân
Viêt Nam chung tay gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa mà ông cha
đã để lại.
19
Tài liệu tham khảo
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Chùa Keo Thái Bình,
www.wikipedia.org
2. Đạt Thức, Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Keo (huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình), Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản
văn hóa, www.dsvh.gov.vn
3. Lan Anh, Keo Thái Bình – ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất
miền Bắc, 15/04/2017, www.vovworld.vn
4. Chùa Keo Thái Bình , www.vamvo.com
20