Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật hợp đồng trong hoạt động thương mại của nước CHDCND lào (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.44 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SOULASIN SINPHAVONG

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trần Thị Bảo Ánh

HÀ NỘI - 2016
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SOULASIN SINPHAVONG

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG
MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số:

60380107

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trần Thị Bảo Ánh

HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
2


MỞ ĐẦU

3

CHƯƠNG 1

8

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

8

1.1. Khái quát về hợp đồng
8
1.1.1. Khái niệm hợp đồng


8

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng

15

1.1.3. Vai trò của hợp đồng trong hoạt động thương mại

17

1.2. Khái quát về pháp luật hợp đồng

19

1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng

19

1.2.2. Nguyên tắc, cấu trúc của pháp luật về hợp đồng

21

1.2.3. Lịch sử phát triển của pháp luật về hợp đồng ở Lào
CHƯƠNG 2

25
30

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

2.1. Giao kết hợp đồng

30
30

2.2. Hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả hợp đồng vô
hiệu

37

2.3. Trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng

39

CHƯƠNG 3

44

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG CỦA NƯỚC CHDCND LÀO

44

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng của nước CHDCND
Lào 44
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tại CHDCND
Lào 53
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải đảm bảo sự đồng bộ, thống
nhất với các văn bản pháp luật áp dụng quan hệ hợp đồng


53

3.2.2. Bổ sung loại hình hợp đồng thành lập hội

55

3


3.2.3. Hoàn thiện các quy định về giao kết hợp đồng

56

3.2. 3. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng vô hiệu

60

KẾT LUẬN

64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

66

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

66

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, hợp đồng đã trở thành một công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của
các chủ thể phát sinh từ các giao lưu dân sự, kinh tế. Nhu cầu của các tổ chức và
cá nhân trong đời sống xã hội vô cùng đa dạng và phong phú. Để đáp ứng nhu
cầu đó, con người phải quan hệ với nhau thông qua các hoạt động mua bán, trao
đổi hàng hóa, vật phẩm. Công việc của các bên được thực hiện thông qua những
cam kết đó là hợp đồng. Như vậy, hợp đồng thể hiện trong hầu hết các quan hệ
mua bán của các bên trong nhiều lĩnh vực như dân sự, kinh tế, nghiên cứu khoa
học... Chính vì vậy, việc áp dụng những giao dịch, cũng như các nhu cầu về vận
dụng pháp luật của nhà nước để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng cũng như giải quyết những tranh
chấp liên quan đến hợp đồng là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường, khi mà các quan hệ dân sự kinh tế càng trở nên phức tạp và trong điều
kiện nước Lào đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) thì yêu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy hợp
đồng là sự thỏa thuận tự nguyện của các bên nhưng để sự tự nguyện đó không
không ảnh hưởng tới lợi ích của người khác và lợi ích của cộng đồng thì cần
thiết có sự điều chỉnh của pháp luật và thực tế hiện nay những quy định về hợp
đồng tại Lào đang bộc lộ những điểm bất cập, những thiếu sót hạn chế. Thực tế
đó đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu làm rõ các quy định liên quan đến hợp
đồng; đánh giá sự tác động của chúng đến thực tiễn ký kết và thực hiện hợp
đồng, phát hiện những quy định bất hợp lý và từ đó đề xuất khắc phục nhằm
nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng, đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế thị trường.

5



Xuất phát từ lý do như vậy học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật hợp đồng
trong hoạt động thương mại của nước CHDCND Lào” làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoa học pháp lý Việt Nam và Lào đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập tới các vấn đề khác nhau của hợp đồng như: đề tài luận án tiến sĩ "Chế độ
hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở giai đoạn hiện nay" của tác giả Phạm
Hữu Nghị, Hà Nội, 1996; Đề tài luận án tiến sĩ "Xây dựng và hoàn thiện pháp
luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta" của tác giả Bùi
Ngọc Cường, 2001; Đề tài luận văn thạc sĩ "Hợp đồng kinh doanh vô hiệu và
hậu quả pháp lý của nó" của tác giả Lê Thị Bích Thọ, 2002; Công trình nghiên
cứu khoa học "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự vô hiệu
tại Tòa án nhân dân" của tác giả Nguyễn Văn Luật, 2003; "Hợp đồng kinh
doanh vô hiệu: Lý luận và thực tiễn", Tài liệu Hội thảo về việc xử lý hợp đồng
vô hiệu, Diễn đàn doanh nghiệp và Câu lạc bộ Luật gia Việt - Đức, Hà Nội... và
nhiều công trình của nhiều tác giả khác trong đó có một số công trình nghiên cứu
về vấn đề hợp đồng ở Lào phải kể đến như:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Lào – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sỹ Luật học của Hatsady Phanthakeo, Hà Nội, 2012;
Công trình này đã trình bày được những vấn đề lý luận, vai trò của hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế và sự điều chỉnh của pháp luật đối với loại hợp
đồng này, làm rõ những vấn đề pháp lý trong việc thực thi áp dụng các quy định
đó trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giải
quyết tranh chấp phát sinh có liên quan.
Quyền chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động – Nhìn từ
góc độ so sánh giữa pháp luật CHXHCN Việt Nam và pháp luật CHDCND Lào,
6



luận văn thạc sỹ Luật học của Khambee Vilayxiong, Hà Nội, 2011;
Công trình này đã trình bày và giải quyết được những vấn đề lý luận về
chấm dứt hợp đồng lao động và hậu quả của chấm dứt hợp đồng lao động ở Lào
và Việt Nam. Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về chấm dứt hợp đồng
lao động và hậu quả của nó theo quy định tại Lào…
Những khía cạnh pháp lý của hợp đồng kinh tế trong quan hệ so sánh giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của Vilaxay
Somboun, Hà Nội, 2003…
Công trình này đã trình bày được những vấn đề lý luận, vai trò của hợp
đồng kinh tế và sự điều chỉnh của pháp luật đối với loại hợp đồng này…
Các công trình nghiên cứu trước đây là nguồn tài liệu quan trọng, có giá trị
tham khảo và cung cấp những luận cứ khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cao. Tuy nhiên các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh của hợp đồng chứ chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện về hợp đồng cũng như điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ hợp đồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật đối
với quan hệ hợp đồng, đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng trong giai đoạn
hiện nay ở Lào, đồng thời chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng
pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật hợp đồng
để nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật về hợp đồng trong thực tiễn.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ vai trò của hợp đồng trong hoạt động thương mại;
- Xác định cấu trúc pháp luật về hợp đồng;
- Đánh giá thực trạng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng ở Lào;

7


- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng đáp ứng

yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận chung về pháp
luật đối với hợp đồng, các quy định pháp luật liên quan đến ký kết, thực hiện hợp
đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở thực trạng của pháp luật đối với ký
kết hợp đồng ở Lào hiện nay, hiệu lực của hợp đồng, nghĩa vụ và tài sản của các
bên trong hợp đồng nhằm bảo đảm hợp đồng là một công cụ hiệu quả trong việc
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đôi bên, công cụ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, để
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, luận văn còn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh,
khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, luận văn đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về hợp
đồng để từ đó nêu lên được những thiếu sót và bất cập đối với pháp luật về hợp
đồng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, luận văn đề xuất một số định hướng và giải pháp trong việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

8


Kết quả nghiên cứu tổng hợp lý luận ở chương một, phân tích thực trạng ở
chương hai và những giải pháp của chương ba của luận văn đã góp phần cung

cấp những luận cứ khoa học để thấy rõ vai trò của hợp đồng cũng như pháp luật
về hợp đồng trong đời sống giao lưu kinh tế và đặc biệt là các hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương
mại của nước CHDCND Lào
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại
của nước CHDCND Lào
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng trng
hoạt động thương mại của nước CHDCND Lào

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. Khái quát về hợp đồng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào
các giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình
tạo ra và nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa
mãn các nhu cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để
thực hiện việc trao đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên,
dựa trên các nguyên tắc tự do, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật
pháp. Hiện tượng đó được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý là “hợp
đồng”.
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con

người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình.
Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ
chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của
hầu hết các quốc gia ngày nay là việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng
thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) được hình thành từ động từ “contranhere”
trong tiếng La tinh có nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện lần đàu tiên ở La Mã
vào khoảng thế kỉ V – IV TCN. Ban đầu người La Mã cũng không có khái niệm
chung “contractus” mà sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ
thể phố biến như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum),
ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn thế kỉ 1 sau công
nguyên, người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus” trong luật
và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời Justinnian.
Sau này pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp
10


lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp đồng” mà trong tiếng
anh được viết là “contract” và trong tiếng Pháp là “contrat”.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao
ước, tờ ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các tài liệu lịch sử còn lại cho đến
ngày nay, thuật ngữ “văn tự” hay “văn khế” hay “mua, bán, cho, cầm” đã được
sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật. Sau này, thuật ngữ “khế ước”
mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi
sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp,
trong Bộ Dân luật Bắc 1931 và trong Bộ Dân luật Trung 1936 – 1939. Thuật ngữ
“khế ước” cũng được sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch kí ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ
“khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam
cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (Điều 653). Ngoài ra trong Bộ Dân luật

Bắc 1931, Bộ Dân luật Trung 1936-1939 và Bộ Dân luật 1972 còn sử dụng thuật
ngữ “hiệp ước” trong đó nhà làm luật xem khế ước là một hiệp ước (Điều 664,
680) hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với “hiệp ước” (Điều 653). [10, tr.9]
Hiện nay, các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử
dụng thuật ngữ “khế ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật
ngữ có tính chức năng, công cụ như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp
đồng thương mại. Trong pháp luật của nhiều nước chỉ sử dụng thuật ngữ hợp
đồng chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại,
hợp đồng lao động… như luật Việt Nam.
Ngoài việc chọn “hợp đồng” làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các
văn bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm đến việc làm rõ nội hàm của khái
niệm “hợp đồng”. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều
11


khó khăn trong việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia
đã nhận xét, “hợp đồng dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận
thức được rất dễ dàng nhưng thật khó khăn để có thể đưa ra được một định
nghĩa về nó.”
Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật
cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp
đồng như một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc
pháp lý cơ bản của Luật tư. Theo Geoffrey Samuel, “khái niệm hợp đồng trong
hệ thống Civil Law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem
là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do
các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của
hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên mà đó còn là
hiệu lực được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên
tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất
của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên được tự do, trong

phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà
họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của người
khác.”[10, tr.10]
Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của
các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên.
Sau này, “các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem
xét hợp đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên”
Có thể nói, thuật ngữ “hợp đồng” là một phạm trù đa nghĩa và có thể được
xem xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt nam thường hiểu khái niệm
“hợp đồng” theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa
12


khách quan, hợp đồng là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự,
bao gồm các quy phạm pháp luật được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình
dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo nghĩa chủ quan,
hợp đồng là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các bên, được
thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở
cùng nhau thực hiện.
Ngoài việc ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật của nhiều
nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhiều học giả đưa ra nhiều định
nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng thường
được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả
người Pháp – Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp
đồng là sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác
để chuyển giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc.”
Định nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các Bộ luật Dân
sự hiện đại ngày nay. Bộ luật Dân sự Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống

gần như hoàn toàn định nghĩa của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về
việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó.”[10, tr.11]
Theo quy định tại Điều 1378 Bộ luật Dân sự 1994 của Bang Québec
(Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể
phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác.” Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của hợp đồng mà
chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp đồng là nhằm tạo ra hiệu lực
ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

13


Định nghĩa “hợp đồng” cũng được quy định tại Điều 1-201 Bộ luật
Thương mại thống nhất Hoa Kì (Uniform Commercial Code of United State of
America, viết tắt là UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát
sinh từ sự thỏa thuận của các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai
(Restatement 2nd ) có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một
tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì buộc phải thực hiện
bằng sự cưỡng chế của pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc
thực hiện những cam kết này là một nghĩa vụ.” Trong bách khoa toàn thư về
Pháp luật của Hoa Kì cũng có sự định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm
một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định” Định nghĩa này
thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội
dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý tại các quốc gia
khác trên thế giới.
Tại Điều 2 Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) quy định: “Hợp đồng theo
quy định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức

khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ…
thích dụng với quy định của các luật khác.” Tương tự, theo quy định tại Khoản 1
Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga (1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay
nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Định
nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung Quốc tương đối dài, vì bao hàm cả
các nguyên tắc khái quát trong việc thực hiện giao kết thực hiện hợp đồng mà
người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên
tham gia hợp đồng. Định nghĩa hợp đồng trong Bộ luật Dân sự của Nga cũng có
nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn.
A.L.Makovsky và S.A.Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp
14


đồng được định nghĩa ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thỏa thuận
của hai hay nhiều người về việc thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa
này. Quan trọng trên hết, cơ sở của những thỏa thuận như thế này không phải là
ý chí của một bên mà là ý chí của nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực
hiện nghĩa vụ…”[10, tr.12]
Điều 385 Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 định nghĩa: “Hợp đồng dân sự
là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự.” Có thể dễ dàng thấy rằng quy định này cũng gần giống như
quy định của Luật Hợp đồng Trung Quốc 1994 và đặc biệt là hoàn toàn giống
với quy định tại Khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự Nga 1994.
Điều 1 Luật Hợp đồng năm 1990 của Lào định nghĩa: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các tổ chức, giữa các tổ chức, cá nhân hoặc giữa các cá nhân
về quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh..”
Như vậy, dù có những khác biệt nhất định trong quan niệm về hợp đồng, dù
là trong pháp luật Lào hay pháp luật của các nước trên thế giới, dù là pháp luật
đương đại hay pháp luật cổ đại thì hợp đồng về bản chất vẫn được hiểu là sự thỏa

thuận thể hiện sự tự do và thống nhất ý chí giữa các bên liên quan nhằm hướng tới
những lợi ích nhất định mà các bên cùng quan tâm, và dù được hình thành trong
lĩnh vực quan hệ xã hội nào thì hợp đồng luôn có những điểm chung là:
- Trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức
là có sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Người ta thường gọi nguyên tắc này là
nguyên tắc hiệp ý. Nguyên tắc hiệp ý là kết quả tất yếu của tự do hợp đồng: khi
giao kết hợp đồng các bên được tự do quy định nội dung hợp đồng, tự do xác
định phạm vi quyền và nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng
không phải là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải
15


tôn trọng đạo đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật
cần thiết, nhân danh tổ chức quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc
ký kết hợp đồng và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng. Tuy nhiên sự
can thiệp này phải là sự can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để
tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền tự do hợp đồng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp
đồng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không
thể suy luận ngược lại: Mọi sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng. Chỉ được
coi là hợp đồng những thỏa thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là
có sự ưng thuận đích thực giữa các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do
vậy sự ưng thuận ở đây phải là sự ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật,
hợp đạo đức. Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng
bức hoặc mua chuộc là không có sự ưng thuận đích thực. Những trường hợp có
sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức thì dù có sự ưng thuận cũng không được coi là hợp
đồng, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng. Như vậy, một sự thỏa thuận không thể
hiện ý chí thực của các bên thì không phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của các bên.
- Ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người giao kết có

đầy đủ năng lực hành vi để xác lập hợp đồng.
- Yếu tố thứ ba không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống
nhất ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải
có đối tượng xác định. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt và
không bị cấm đưa vào các giao dịch dân sự – kinh tế. Chẳng hạn, đối tượng của
hợp đồng mua bán phải là những thứ không bị cấm. Nếu đối tượng của hợp đồng
là bất hợp pháp thì hợp đồng bị coi là vô hiệu.

16


1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng
Trên cơ sở bản chất và khái niệm về hợp đồng đã nêu, có thể thấy hợp
đồng có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng
Theo pháp luật Lào, chủ thể giao kết hợp đồng gồm cá nhân và tổ chức.
Cá nhân được coi là có đủ năng lực giao kết hợp đồng khi có đủ năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được thực hiện mọi
giao dịch trên cơ sở quy định của pháp luật và phải tự chịu trách nhiệm về hành
vi của mình. Các công ty được thành lập hợp pháp được coi là đương nhiên có
đầy đủ năng lực pháp luật để thực hiện mọi hoạt động kinh doanh, mọi hành vi
pháp lý và tham gia mọi giao dịch hợp đồng theo quy định tại Điều lệ của công
ty. Có thể tóm gọn lại là Chủ thể hợp đồng là cá nhân, tập thể, hoặc pháp nhân
mà theo luật dân sự được pháp luật quy định có năng lực pháp luật. Riêng chủ
thể của hợp đồng thương mại thì thêm một điều kiện là ít nhất một trong các bên
giao kết phải là thương nhân (có mục đích lợi nhuận).
Như vậy, chủ thể giao kết hợp đồng chính là chủ thể của hợp đồng
hoặc người đại diện của họ.
Phạm vi chủ thể của hợp đồng rất rộng lớn. Tùy từng lĩnh vực và ngành
nghề khác nhau mà pháp luật giới hạn phạm vi chủ thể cho phù hợp để nhằm bảo

đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng.
Với các hợp đồng dân sự thông thường, chủ thể là các cá nhân, pháp nhân,
hay các tổ chức khác. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ thể của hợp
đồng kinh doanh được quy định rất cụ thể đó thường là thương nhân đáp ứng
những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
Tựa chung lại, chủ thể của hợp đồng bao gồm cá nhân có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự, các tổ chức, doanh nghiệp, và các pháp nhân
17


khác… được pháp luật thừa nhận có tư cách pháp lý độc lập với nhau, hoàn toàn
bình đẳng với nhau khi tham gia quan hệ hợp đồng. Tuỳ từng loại hợp đồng mà
pháp luật có thể quy định những điều kiện ràng buộc cho các chủ thể hợp đồng
phải dáp ứng, ví dụ: cá nhân phải đủ độ tuổi, doanh nghiệp phải có ngành nghề
kinh doanh phù hợp.
Thứ hai, hợp đồng phải được giao kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận ý
chí của các chủ thể
Cơ sở hình thành hợp đồng là sự tự nguyện từ tự do ý chí của các bên. Các
điều kiện của hợp đồng được giải thích trong các điều kiện tự do ý chí, xem xét
về vấn đề tự do ý chí ta thấy: Một mặt, tự do ý chí được xuất phát từ nền tảng là
tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một
công việc gì đó ngoài ý muốn của họ, Mặt khác, tự do ý chí có nghĩa là không ai
có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà xuất phát từ lợi ích của
họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được hình thành từ lợi ích
của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong điều kiện đa dạng và
phức tạp của các mối quan hệ ngày nay khi mà con người sống trong sự phụ
thuộc lẫn nhau, khi mà lợi ích kinh tế của mọi người là không bằng nhau thì
chính ích lợi của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng vẫn bị giới hạn và bắt
buộc những lợi ích đó phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội.
Tính độc lập và sự phụ thuộc của hai nhóm lợi ích đó (lợi ích của các bên

tham gia hợp đồng và lợi ích của xã hội) đã làm nảy sinh nghĩa vụ trong hợp
đồng. Như vậy, tự do ý chí, tự do thoả thuận và tự do giao kết hợp đồng cũng bị
giới hạn phần nào, sự giới hạn đó chính là sự can thiệp của pháp luật thông qua
việc nhà nước ban hành những điều bắt buộc cho các bên tham gia quan hệ hợp
đồng (ví dụ: điều kiện chủ thể,…).

18


Tóm lại, trên cơ sở tự do ý chí của các bên khi thỏa thuận và ký kết hợp
đồng, sự can thiệp của pháp luật về vấn đề hợp đồng sẽ bảo đảm cho các quan hệ
hợp đồng được phát triển ổn định và đúng định hướng đã dự định.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng có thể được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì hợp đồng được ký kết dưới nhiều
hình thức khác nhau như: văn bản, lời nói hay các hành vi cụ thể; trong một số
trường hợp khác pháp luật quy định hợp đồng phải ký dưới một hình thức nhất
định (như hợp đồng phải ký bằng văn bản có công chứng, chứng thực hợp lệ) thì
phải tuân thủ hình thức đó. Văn bản là hình thức có thể thể hiện một cách hữu
hình nội dung của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận với nhau. Đó có thể là bản
hợp đồng với đầy đủ chữ ký của các bên hoặc công văn, tài liệu giao dịch chứa
đựng những nội dung chủ yếu của hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận được với
nhau.
1.1.3. Vai trò của hợp đồng trong hoạt động thương mại
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng cũng như các hình thức khác nhau của
hợp đồng đã được pháp luật ghi nhận và đã có ý nghĩa đối với đời sống xã hội.
Do đó hợp đồng có một số vai trò nhất định như sau:
Một là: Hợp đồng là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực hiện kế hoạch
của các bên. Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng
kế hoạch cụ thể và chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng

không có phương hướng và để bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo đảm
thì một trong những cơ sở quan trọng bắt nguồn của vấn đề chính là hợp đồng.
Hợp đồng là một phương tiện để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các bên ký
kết. Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, cơ sở để cho sự
phân minh cũng như khẳng định tính đúng sai không thể có nội dung nào khác
19


quan trọng hơn đó chính là hợp đồng. Bên cạnh những nội dung chính của hợp
đồng như: tên của hợp đồng, tên chủ thể, tên mặt hàng, phương thức thanh toán...
nhưng trong đó có nhiều hợp đồng quy định rất cụ thể tiến độ thực hiện các nội
dung được thoả thuận trong hợp đồng (ví dụ như các hợp đồng liên quan đến xây
dựng công trình, các loại hợp đồng BOT, BT,…) và như vậy nội dung hợp đồng
sẽ trở thành tiêu chí để kiểm tra việc thực hiện các thoả thuận của các bên. Hay
nói cách khác, hợp đồng được xem như công cụ để các bên kiểm tra việc thực
hiện kế hoạch.
Hai là: Hợp đồng làm cho lợi ích của các bên ký kết phù hợp với lợi ích
chung của nền kinh tế quốc dân. Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được
các bên tự thoả thuận nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật và
việc các nhà xây dựng pháp luật trong quá trình soạn thảo để ban hành đã phải
tính toán các lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
Ba là: Hợp đồng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế
quản lý mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là sự điều tíêt của nền kinh tế được đặt dưới điều
tiết của nhà nước và sự tự điều tiết của các quy luật thị trường. Nhà nước chỉ
tập trung quản lý ở tầm vĩ mô, còn quá trình tổ chức và quản lý sẽ thuộc về các
doanh nghiệp. Đối với các giao lưu dân sự thông thường, Nhà nước luôn đề cao
quyền tự do của cá nhân, chính vì vậy việc quản lý của nhà nước cũng như việc
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ yếu được đánh giá qua sự thoả
thuận của các bên. Nếu như trước đây, Nhà nước luôn là trung tâm quản lý trực

tiếp đối với doanh nghiệp thì nay sự quản lý đó lại để cho các doanh nghiệp tự
quản lý và nhà nước chỉ tập trung quản lý theo phương pháp mới như quản lý
về thuế, quản lý tỷ giá hối đoái, quản lý về chính sách thương mại, và quản lý
xã hội bằng pháp luật. Như vậy, một trong những nội dung quan trọng để nhà
nước quản lý và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức đó là
20


hợp đồng. Bên cạnh nhà nước sử dụng hợp đồng như một công cụ quản lý mới
thì chính các tổ chức với tổ chức, tổ chức với cá nhân thành viên có liên quan,
cá nhân với cá nhân, hợp đồng cũng là cơ sở tạo sự ràng buộc lẫn nhau và trở
thành công cụ quản lý hiệu quả.
1.2. Khái quát về pháp luật hợp đồng
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng
Từ khái niệm về hợp đồng, các đặc điểm của hợp đồng cũng như vai trò
của hợp đồng đã trình bày ở trên cho ta thấy các quan hệ về hợp đồng tồn tại
trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực dân sự, lao
động, tín dụng và khoa học công nghệ. Điều này cho thấy quan hệ hợp đồng có
phạm vi rất rộng. Quan hệ hợp đồng có thể chỉ là các quan hệ rất đơn giản như
việc mua bán hàng hoá đơn giản của đời sống dân sự hàng ngày (trong những
trường hợp này, các hợp đồng thường chỉ là hợp đồng bằng lời nói) tới các hợp
đồng có nội dung rất phức tạp bao gồm nhiều chủ thể tham gia, nội dung lớn
với nhiều bộ phận khác nhau đẻ thực hiện các nội dung công việc đã thoả thuận
trong hợp đồng (trong trường hợp này, các hợp đồng thường là hợp đồng
thương mại, hợp đồng xây dựng BTO, BOT, BT, hay các hợp đồng mua bán
hàng hoá xuất nhập khẩu). Để bảo đảm các quan hệ hợp được phát triển đúng
mục đích và yêu cầu của nhà nước cũng như quan hệ hợp đồng được ký kết và
thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện của các bên, bảo đảm lợi ích
cũng như nghĩa vụ cho các bên tham gia ký kết thì quan hệ hợp đồng cần thiết
phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Do tính chất đa dạng của hợp đồng là tồn

tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội chính dẫn tới các quy
định pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng
tồn tại trong nhiều ngành luật khác nhau, trong nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau. Bộ luật Dân sự là văn bản pháp luật chứa đựng nhiều quy định
21


nhất về hợp đồng, đây cũng là văn bản quy định luật chung về hợp đồng. Bên
cạnh Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Bộ luật Lao động…cũng quy định về
vấn đề hợp đồng và chúng được áp dụng cho các hợp đồng chuyên ngành.
Đối với các quan hệ hợp đồng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau
và thể hiện ở nhiều dạng quan hệ khác nhau (quan hệ dân sự, quan hệ thương
mại…) dẫn tới pháp luật về hợp đồng cũng rất đa dạng và tồn tại trong nhiều
văn bản pháp luật khác nhau (Bộ luật Dân sự, luật Thương mại, Luật bảo hiểm,
luật Điện lực…). Từ những nội dung đã phân tích như trên, ta có bước đầu hình
dung pháp luật về hợp đồng là hệ thống các quy định do Nhà nước ban hành để
điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng. Ở Lào, do chưa có Bộ luật Dân sự nên nhà
nước Lào đã ban hành văn bản pháp luật quy định riêng biệt về hợp đồng. Đó là
Luật Hợp đồng năm 1990. Tuy nhiên ngoài các quy định chung về hợp đồng
trong Luật Hợp đồng có thể tìm thấy những quy định về từng hợp đồng cụ thể
trong các văn bản khác nhau. Các hợp đồng trong những lĩnh vực khác nhau sẽ
do pháp luật chung về hợp đồng kết hợp với pháp luật chuyên ngành điều
chỉnh. Chẳng hạn, hợp đồng thương mại sẽ do Luật Hợp đồng và Luật Thương
mại điều chỉnh; hợp đồng lao động sẽ do Bộ luật Lao động điều chỉnh... Khi nói
tới pháp luật về hợp đồng, nhiều người có quan điểm rằng phải tách riêng từng
loại hợp đồng riêng biệt. Chẳng hạn, hợp đồng dân sự sẽ có những nội dung và
đặc điểm khác với hợp đồng trong kinh doanh, hợp đồng thương mại khác với
hợp đồng lao động…
Tuy nhiên, để cho hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể được thực hiện
có hiệu quả và bảo đảm được sự quản lý của nhà nước thì nhà nước ban hành

nhiều quy phạm pháp luật để áp dụng trong việc cụ thể hóa các vấn đề của hợp
đồng. Như vậy, pháp luật về hợp đồng bao gồm một hệ thống các văn bản pháp luật
khác nhau, trong mỗi văn bản pháp luật đó sẽ bao gồm nhiều điều luật quy định cụ
thể hóa các nội dung của hợp đồng, định hình các quy tắc xử sự của các bên tham
22


gia quan hệ hợp đồng. Từ đó ta có thể đưa ra khái niệm pháp luật về hợp đồng
như sau: Pháp luật về hợp đồng là một hệ thống các quy tắc xử sự, do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ
quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hợp đồng.
1.2.2. Nguyên tắc, cấu trúc của pháp luật về hợp đồng
1.2.2.1. Các nguyên tắc của pháp luật về hợp đồng
Một là, tôn trọng quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên
Các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do cam kết, thỏa thuận
phù hợp với pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ.
Khi cam kết, thỏa thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng
bất cứ thủ đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thỏa thuận trái với ý chí của
người đó. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể coi
là vô hiệu.
Khi tiến hành thỏa thuận các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ
một lí do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng
về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết hợp
đồng. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:
(i) Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ hợp đồng không phụ
thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác;
(ii) Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải
thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;
(iii) Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực

hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền.

23


Trong quan hệ hợp đồng các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận. Ngoài ra, đòi hỏi các bên phải
tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong
quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nếu một bên cho
rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ.
Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
hợp đồng
Trách nhiệm trong hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lí nhưng trước
tiên là trách nhiệm của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người có nghĩa
vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó
phát sinh từ các căn cứ hợp pháp. Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm
và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại (nếu có).
Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng nhất
của công dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi trong các
quyền dân sự của các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi chủ thể có
nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu, quyền tài sản của các chủ thể khác. Khi có
hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác, ngoài việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế (hình sự, hành chính…) cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp dân sự với mục đích khôi phục lại tình trạng tài sản của người bị xâm
phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các chủ thể được thực hiện bình đẳng.
Ba là, bảo vệ trật tự công và lợi ích của người thứ ba ngoài quan hệ
hợp đồng
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến

lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền lợi ích hợp pháp của người khác.
Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
24


chất và tinh thần của các bên tham gia vào quan hệ đó. Tuy nhiên, khi thực hiện
các hành vi không được phép thực hiện tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn
khổ, giới hạn của hợp đồng. Quyền của một chủ thể được giới hạn bởi quyền của
các chủ thể khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, nhằm bảo đảm việc
các chủ thể gây thiệt hại cho các chủ thể còn lại thì phải bồi thường các thiệt hại
như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Bốn là, tôn trọng và tuân thủ pháp luật, đạo đức và truyền thống tốt đẹp
Quan hệ hợp đồng luôn luôn đề cao tính tự nguyện và sự tự do ý chí của
các bên trong việc thoả thuận ký kết hợp đồng, Nội dung này của hợp đồng luôn
được pháp luật ghi nhận và bảo đảm. Tuy nhiên, việc phát huy quyền tự do hợp
đồng của các bên luôn phải được đặt trong mối quan hệ với lợi ích của người
khác và những giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì vậy, quyền tự do hợp đồng
luôn phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước, nghĩa là các bên
được quyền phát huy tối đa quyền tự do hợp đồng nhưng việc phát huy đó phải
đặt trong sự kiểm soát của pháp luật (trong khuôn khổ pháp luật). Bên cạnh việc
tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật các bên tham gia hợp đồng
cần phải tôn trọng những giá trị đạo đức và những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tình đoàn kết tương thân tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì
mỗi người và vì truyền thống tốt đẹp của các dân tộc anh em trên đất nước Lào.
1.2.2.2. Cấu trúc của pháp luật hợp đồng
Xét về cấu trúc hình thức thì pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng rất đa
dạng, tồn tại trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ngoài những
quy định trực tiếp về hợp đồng trong Luật Hợp đồng, còn có thể tìm thấy nhiều
quy định có liên quan đến hợp đồng trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
thuộc các lĩnh vực kinh tế như: kinh doanh điện lực, thương mại, tín dụng, ngân

hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận chuyển, đầu tư, chuyển giao công nghệ, đất đai...
25


×