Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TẠO HỨNG THÚ học văn CHO học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.79 KB, 23 trang )

TẠO HỨNG THÚ HỌC VĂN CHO HỌC SINH
TỪ CÁC TIẾT HỌC TẬP LÀM THƠ

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Văn trong nhà trường
có một vị trí rất quan trọng. Nó tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của con
người, nó bồi đắp cho tâm hồn mỗi người trở nên trong sáng, phong phú và sâu
sắc hơn. M.Goóc- ki nói : “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình,
nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng
hướng tới chân lý”. Văn học "Chắp đôi cánh" để các em đến với mọi thời đại
văn minh, với mọi nền văn hoá, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống,
vào con người, trang bị cho các em vốn sống, hướng các em tới đỉnh cao của
chân, thiện, mỹ. Vì vậy, nhiệm vụ của người giáo viên dạy Văn là phải làm cho
học sinh hiểu được cái hay cái đẹp của Văn học, kích thích sự hứng thú học tập
môn Văn cho học sinh. Không những vậy, người thầy còn phải giúp cho học
sinh biết vận dụng những điều đã học được vào thực tiễn cuộc sống muôn màu
muôn vẻ. Đặc biệt là giúp cho học sinh biết cách bày tỏ tư tưởng, tình cảm của
mình.
Xu hướng dạy học mới là gắn với thực tiễn. Điều này cũng đã được thể
hiện trong chương trình sách giáo khoa hiện hành. Chương trình SGK đã hướng
tới tính chủ động, tích cực của người học. Một cái mới trong chương trình hiện
hành là đã đưa hoạt động tập làm thơ vào chương trình học nhằm bổ trợ cho các
nội dung học tập về thể thơ trong phần văn và tạo ra hình thức học tập mới trong
dạy học ngữ văn. Cụ thể các nội dung được học như sau:

1


TT


1
2
3
4
5
6
7

Tit
104
108
60
69
70
54
87

Lp
6
6
7
8
8
9
9

Bi
Tp lm th 4 ch
Thi lm th 5 ch
Lm th lc bỏt

Lm th 7 ch
Lm th 7 ch
Tp lm th 8 ch
Tp lm th 8 ch

Nh vy, sú tit khụng nhiu, mi lp ch cú 2 tit, nhng cng cú tm
quan trng nht nh trong vic to hng thỳ cho hc sinh hc tp mụn Ng vn.
Mục tiêu của các giờ tập làm thơ là thông qua thực hành,
mà nắm đợc đặc điểm của từng thể thơ, từ đó biết nhận
diện và tìm hiểu thơ trên những đặc điểm đó. Với nội dung
tập làm thơ là phần ch yếu, tuy nhiên không yêu cầu học sinh
phải biết làm thơ, hay nói cách khác sáng tác thơ một cách
thành thạo. Cỏi chớnh l to hng thỳ hc tp cho hc sinh.
Trong quỏ trỡnh dy hc cỏc bi ny, chỳng tụi nhn thy tm quan trng
ca chỳng m rt nhiu ngi b qua. Chớnh vỡ vy m tụi ó chn cm bi ny
lm ti sỏng kin kinh nghim:
To hng thỳ hc Vn cho hc sinh t cỏc tit hc tp lm th
II. NHIM V NGHIấN CU
- Nghiờn cu cỏc bi hc Tp lm th 4 ch, 5 ch, lc bỏt, 7 ch v 8 ch,
sỏch giỏo viờn hng dn dy cỏc tit hc ny t ú nh hng cỏch
dy phự hp..
- D gi ng nghip rỳt ra nhng u im cng nh hn ch v thc
trng dy hc cỏc tit tp lm th.
- nh hng cỏc bc dy cỏc tit Tp lm th phự hp vi i tng hc
sinh.

III. I TNG - PHM VI NGHIấN CU
2



- Đối tượng: Các tiết Tập làm thơ ở các lớp 6,7,8,9.
- Phạm vi: Khảo sát ở các lớp học Trường THCS Nghĩa Đức..
IV. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp trao đổi thực nghiệm
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp thực hành

3


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.1.1. Quan niệm về thơ:
Thơ là gì? Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau
về thơ, nhưng rất hiếm định nghĩa đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của
thể loại này. Quan niệm dưới đây của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học
phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).
I.1.2. Một số thể thơ phổ biến:
a. Thể thơ 4 chữ:
Thể thơ bốn chữ có nguồn gốc Việt Nam, xuất hiện từ xa
xưa và được sử dụng nhiều trong tục ngữ, ca dao và đặc biệt là
vè, do thích hợp với lối kể chuyện (Theo Bùi Văn Nguyên – Hà
Minh Đức, Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1971)
Thơ 4 chữ là bài thơ gồm nhiều câu, mỗi câu có 4 chữ ( tiếng), thường
gieo vần cuối câu thơ ( vần chân), hoặc giữa câu ( vần lưng), và được gieo liền
nhau ( vần liền), hoặc cách nhau một câu ( vần cách), nhịp phổ biến là 2/2. Bài
thơ dài thường chia thành từng khổ thơ, mỗi khổ 4 câu…
Ví dụ:
Cháu đi đường cháu
Chú đi đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà.
( Lượm – Tố Hữu)
4


b. Thể thơ 5 chữ ( ngũ ngôn):
Thơ 5 chữ là bài thơ gồm nhiều câu, mỗi câu 5 chữ, cũng thường chia
thành từng khổ; gieo vần đa dạng, ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2 linh hoạt, phù hợp với
kể, tả.. Ví dụ:
Mặt trời / càng lên tỏ
Bông lúa chín / thêm vàng
Sương treo / đầu ngọn cỏ
Sương lại càng / long lanh
Bay vút / tận trời xanh
Chiền chiện / cao tiếng hót
( Thăm lúa- Trần Hữu Thung)
c. Thể thơ lục bát:
Nói đến thơ Lục Bát là nói đến một sản phẩm văn hoá tinh thần độc đáo
của dân tộc Việt. Hầu hết những người làm thơ đều đã ít nhất một lần làm thơ
Lục Bát. Đã có nhiều tác giả trở thành nổi tiếng với những tác phẩm thơ lục bát
mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều, sau này có Nguyễn

Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Duy, … cũng đã gặt hái được thành công từ
thể thơ Lục Bát.
Thơ Lục Bát là thể văn vần mỗi cặp gồm một câu sáu tiếng và một câu
tám tiếng liên tiếp nhau. Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết
thúc bằng câu tám chữ. Một bài thơ Lục Bát thường không bị giới hạn bởi số
câu, có thể gồm hai câu nhưng cũng có thể kéo dài tới hàng ngàn câu
như Truyện Kiều của Nguyễn Du với 3254 câu thơ lục bát. Thơ Lục Bát ngắt
nhịp đa dạng, linh hoạt: 2/2/2, 3/3, 4/4, 1/5…
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
d. Thể thơ 7 chữ:
5


Thơ 7 chữ có nhiều thể loại nhỏ: Tứ tuyệt cổ thể, đường luật, thất ngôn
bát cú đường luật, thơ 7 chữ tự do ( Thơ mới). Đối với thơ Đường luật chỉ gieo
vần bằng, gieo ở cuối câu và chỉ gieo một vần. Thơ 7 chữ tự do gieo vần đa
dạng. Thơ 7 chữ ngắt nhịp chủ yếu 3/4 hoặc 4/3, 2/2/3, 3/2/2… Ví dụ:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường Bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi nghe tiếng đàn xưa gọi
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn
( Em ơi, Ba Lan – Tố Hữu)
e. Thể thơ 8 chữ:
Mỗi dòng tám chữ, có cách ngắt nhịp rất đa dạng. Bài thơ theo thể tám
chữ có thể gồm nhiều đoạn dài được chia thành các khổ (số câu không hạn
định), có thể chia thành các khổ (thường mỗi khổ bốn dòng). Cách gieo vần
phong phú nhưng phổ biến nhất là vần chân được gieo liên tiếp hoặc gián cách:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn ?
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
( Thế Lữ - Nhớ rừng)
I.1.3. Vần và cách gieo vần
“Vần là sự hoà âm, sự cộng hưởng nhau theo những qui luật ngữ âm nhất
định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những
chức năng nhất định như liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng
nhịp”. [ 3, 16]
6


Dưới góc nhìn của ngữ âm học, chúng ta có thể thấy: Những nguyên âm làm
âm chính trong những âm tiết gieo vần với nhau thường đồng nhất cùng
hàng hoặc cùng độ mở.
Căn cứ vào vị trí cấu âm, độ nâng của mặt lưỡi và độ mở rộng hay hẹp của
miệng, các nguyên âm chia ra:
- Nhóm nguyên âm hàng trước không tròn môi: i, ê, e, iê, ia
- Nhóm nguyên âm hàng sau tròn môi: u, ô, o, uô, ua
- Nhóm nguyên âm hàng sau không tròn môi: ư, ơ, â, a, ă, ươ, ưa
- Nhóm nguyên âm hẹp: i, ư, u, iê, ươ, ưa
- Nhóm nguyên âm hơi hẹp: ê, ơ, â, ô
(Nhóm hẹp và hơi hẹp còn gọi là nhóm nguyên âm tối thường gợi cảm giác

u ám, tối tăm, buồn bã…)
- Nhóm nguyên âm rộng: a, ă
- Nhóm nguyên âm hơi rộng: e, o
(Nhóm rộng và hơi rộng còn gọi là nhóm nguyên âm sáng, thường gợi cảm
giác rộng rãi, sáng sủa, vui vẻ…)
Hoặc những phụ âm cuối trong những âm tiết gieo vần với nhau có thể là
cùng nhóm phụ âm tắc (p, t, c, ch) hoặc cùng nhóm phụ âm vang (m, n, ng, nh),
tuy nhiên với điều kiện âm chính của những âm tiết ấy phải cùng nhóm nguyên
âm và cùng nhóm thanh điệu (cùng bằng hoặc cùng trắc), ví dụ: tan có thể vần
với tam, tang, tanh; tắp có thể vần với tắc, tắt; đêm có thể vần với miền, em. [5,
45]
Các kiểu gieo vần:
- Vần chân: gieo ở cuối câu thơ
- Vần lưng: gieo ở giữa câu thơ
- Vần liền: gieo ở hai câu liên tiếp nhau
- Vần cách: gieo cách một hoặc hai câu thơ
- Vần hốn hợp: Kết hợp giữa các cách trên
I.1.4. Nhịp thơ
7


Tính có nhịp điệu, và sự ngắt nhịp liên tục, từ lâu đã trở thành
một yếu tố phân biệt thơ với văn xuôi, bài thơ này khác với bài thơ kia.
Nói cách khác, tính thơ nằm ở tính có nhịp điệu và sự hiệp vần của nó.
Nhịp thơ thay đổi tạo nên cảm giác lời thơ vận động. Nhịp thơ là
nhân tố năng động tạo dựng hệ thống lời thơ ở cả phương diện ngữ
nghĩa và âm thanh, chứ không phải yếu tố tĩnh tại. Nhịp thơ vừa biểu
cảm, thông tin vừa tạo hình.
Nhịp điệu trở thành "ngôn ngữ đặc biệt của thơ", nó biểu hiện
được bao ý tình mà từ ngữ không thể nói hết được.Nhịp điệu- một khi

được cảm xúc hoá, cá tính hoá sẽ mài sắc cảm nhận, cảm giác của
người đọc. Đọc bài thơ giàu tính nhạc, người đọc như được sống trong
cảm giác mới mà trước đó chưa từng biết.
Tùy vào từng thể thơ, cách gieo vần, sự phân bố các thanh bằng trắc trong
câu thơ mà có những cách ngắt nhịp khác nhau. Chẳng hạn thơ 4 chữ thì thường
ngắt nhịp 2/2, thơ 5 chữ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2…
I. 2. Cơ sở thực tiễn:
Trong nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới,
có kiến thức và trình độ văn hoá. Bởi vậy nhà trường có nhiệm vụ to lớn trong
việc trang bị cho học sinh những kiến thức nói chung và vốn từ ngữ văn học nói
riêng.
Chính trong nhà trường là nơi đầu tiên trang bị và bồi dưỡng cho học sinh
phát triển năng lực nhận thức cũng như phát hiện những tài năng của các em
học sinh nhất là năng khiếu về văn học.
Hoạt động ngữ văn là hình thức mới được đưa vào trong chương trình dạy
học từ đầu cấp học THCS, xuất phát từ quan niệm cần đa dạng hoá các hình
thức học tập, tăng cường cho học sinh có điều kiện luyện nói, luyện tập cách
trình bày miệng, đưa học sinh vào các hoạt động tập thể, hoạt động văn hoá, vui
mà bổ ích.
8


Thông qua hoạt động này giúp cho học sinh có điều kiện làm quen và nắm
chắc hơn đặc điểm và nhận diện được các thể thơ.
Đây cũng là hình thức khuyến khích những sáng tạo cá nhân, động viên,
phát hiện những học sinh có năng khiếu thơ văn. Mặc dù mục đích chính của
môn Ngữ văn nhà trường nói chung và những tiết học này nói riêng không phải
hoàn toàn dạy cho học sinh làm thơ, sáng tác thơ. Nhưng thông qua những tiết
học này, đặc biệt là qua các sản phẩm của học sinh để động viên khuyến khích
các em, tạo hứng thú, niềm say mê hơn cho các em đối với môn Văn.

Trên đây là những cơ sở lí luận cũng như thực tiễn giáo viên cần trang bị
để hướng dẫn học sinh học các tiết tập làm thơ có hiệu quả và hứng thú hơn.
I.3. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
I.3.1. Những thuận lợi và khó khăn khi dạy các bài Tập làm thơ
a. Thuận lợi:
- Khi học các bài Tập làm thơ, học sinh đã được tiết xúc với các văn bản thơ, đã
nắm được cơ bản đặc điểm của thể thơ. Cho nên ở tiết học tập làm thơ việc nhận
diện các đặc điểm của thê thơ không có gì cản trở.
- Sách giáo khoa đã thiết kế bài học theo trình tự hợp lí. Sách giáo viên cũng
hướng dẫn tương đối tỉ mỉ các bước thực hiện.
b. Khó khăn:
- Trong các cuộc thi của học sinh và giáo viên (thi khảo sát chất lượng, kiểm
định chất lượng; thi chọn chất lượng mũi nhọn, thi tuyển sinh vào lớp 10..), chưa
bao giờ có phần yêu cầu làm thơ, cho nên học sinh cũng như giáo viên thấy
không quan trọng, vì vậy mà có thái độ coi thường các tiết học làm thơ, không
đầu tư, không hứng thú...
- Học sinh chưa hiểu rõ thế nào là vần, nhịp trong thơ. Cho nên khi thực hành
làm thơ học sinh không gieo được vần, chưa biết ngắt nhịp...
- Giáo viên chưa tạo được hứng thú, niềm say mê cho học sinh.
I.3.2. Thực trạng dạy học Tập làm thơ

9


Vì đây là tiết hoạt động ngữ văn nên hầu hết giáo viên không đầu tư, dạy
qua loa cho có, thậm chí có khi còn coi đây là tiết lấp chỗ trống. Trước đây bản
thân tôi cũng vậy. Qua tham khảo một só giáo viên tôi thấy rằng hầu hết dạy
trung thành theo SGK và SGV. Không mấy giáo viên đầu tư cho tiết dạy. Tức là
giáo viên cũng chưa nhận thấy được sự cần thiết của những tiết dạy này. Trong
các tiết dạy, giáo viên chưa làm rõ được cách gieo vần cho nên học sinh cũng

không hiểu, không biết gieo vần khi thực hành làm thơ.
Đối với học sinh, mới đầu, các em rất ngại học tập làm thơ. Hầu hết các
em nghĩ rằng phải là học sinh khá giỏi môn văn thì mới có thể làm đươc thơ.
Chính vì vậy mà các em cũng chỉ học qua loa, không chú ý, không tập trung. Và
nhất là không muốn học vì không có hứng thú.
II. GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
II.1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc đặc điểm thể thơ
Phần này thì đơn giản. Thông thường chúng ta sử dụng ngay các bài thơ,
đoạn thơ đã học trong SGK cho các em tìm hiểu. Tuy nhiên, cũng có thể dùng
các ví dụ khác, hoặc bổ sung thêm cho đỡ đơn điệu. Đối với học sinh, nhân diện
thể thơ chủ yếu là căn cứ vào số chữ trong mỗi dòng thơ. Điều này là tương đối
dễ dàng. Bởi vì trước khi tập làm một thể thơ, thì học sinh đã được tiếp xúc, hiểu
biết cơ bản về thể thơ đó. Chẳng hạn dùng đoạn thơ sau để nhận diện thể thơ 5
chữ:
Mặt trời / càng lên tỏ
Bông lúa chín / thêm vàng
Sương treo / đầu ngọn cỏ
Sương lại càng / long lanh
Bay vút / tận trời xanh
Chiền chiện / cao tiếng hót
( Thăm lúa- Trần Hữu Thung)
II.2. Hướng dẫn học sinh Nắm chắc cách gieo vần, luật gieo vần
II.2.1. Luật gieo vần
+ Vần bằng gieo với vần bằng ( Các vần có các thanh huyền, không dấu):
10


+ Vần trắc gieo với vần trắc ( các vần có các thanh sắc, hỏi, ngã, nặng)
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.
(Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)
+ Các tiếng có vần giống nhau hoặc gần giống nhau thì gieo vần với nhau.
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
( Lượm – Tố Hữu)
Đậy là điều quan trọng nhất mà giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh
nắm chắc ngay từ tiết đầu tiên tập làm thơ ( Tập làm thơ 4 chữ). Nắm chắc
đặc điểm này từ đàu thì học sinh sẽ dễ dàng làm được ở những bài học sau.
Bởi vì nếu không nắm được những điều này thì học sinh rất mơ hồ về vần và
cách gieo vần.
II.2.2. Cách gieo vần
+ Có thể gieo vần ở cuối câu thơ ( vần chân)
Nghé hành nghé hẹ
Nghé chẳng theo mẹ
Thì nghé theo đàn
Nghé chớ đi càn
Kẻ gian nó bắt
(Đồng dao)
+ Có thể gieo vần ở giữa câu thơ ( vần lưng)
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
+ Có thể gieo vần liền nhau ( vần liên), (Ví dụ ở bài Đồng dao trên)
11



+ Có thể gieo vần cách nhau một hặc 2 câu ( vần cách)
Cháu đi đường cháu
Chú đi đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà.
( Lượm - Tố Hữu)
+ Có thể kết hợp các cách trên ( vần hốn hợp)
Mây lưng chừng hàng
Về ngang lưng núi
Ngàn cây nghiêm trang
Mơ màng theo bụi.
II.3. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách ngắt nhịp
Phần này cũng đơn giản vì học sinh dã được tìm hiểu khi học các văn bản
thuộc các thể thơ cụ thể.
Thơ 4 chữ thường ngắt nhịp 2/2. Thơ 5 chữ thì ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2 rất
linh hoạt. Thơ Lục bát nhịp phổ biến là 2/2/2, 3/3... thay đổi rất linh hoạt uyển
chuyển. Thơ 7 chữ thì nhịp phổ biến là 3/4 hoặc 4/3, ... Thơ 8 chữ có cách ngắt
nhịp đa dạng, linh hoạt: 3/3/2, 3/2/3, 2/3/3... Ví dụ:
Nào đâu/ những đêm vàng /bên bờ suối
Ta say mồi /đứng uống /ánh trăng tan?
Đâu những ngày/ mưa chuyển/ bốn phương ngàn ?
Ta lặng ngắm/ giang sơn ta/ đổi mới?
II.4. Hướng dẫn luyện tập, thực hành
Khi thực hiện bước này cần chia nhóm học sinh để thi đua giữa các nhóm
gây hứng thú cho giờ học. Hoặc thi đua giữa các cá nhân với nhau. Các bài tập
thực hiện từ dễ đến khó. Một số dạng bài tập như: điền từ, câu thích hợp vào
chỗ sai, chỗ còn thiếu trong câu thơ, đoạn thơ; tự sáng tác một bài, một đoạn
thơ.
II.4.1. Điền từ, điền câu
Đây là bài tập giúp học sinh củng cố nhận diện thể thơ, cách gieo vần.,

ngắt nhịp. Chẳng hạn bài tập 4 ở bài Tập làm thơ 4 chữ ( Lớp 6):
12


Đọan thơ sau đây trích trong bài Chị em của Lưu Trọng Lư, một bạn chép
sai hai chữ có vần, em hãy chỉ ra hai từ đó và thay thế vào bằng hai chữ sông,
cạnh sao cho phù hợp:
Em bước vào đây
Gió hôm nay lạnh
Chị đót than lên
Để em ngồi sưởi
Nay chị lấy chồng
Ở mãi Giang Đông
dưới làn mây trắng
cách mấy con đò
Ở bài tập này học sinh chỉ ra được chữ chép sai là sưởi và đò, và thay chữ
cạnh vào chữ sưởi, chữ sông vào chữ đò.
Hoặc bài tập 1b ở bài Tập làm thơ 7 chữ ( lớp 8): Bài thơ sau của Đoàn
Văn Cừ đã bị chép sai. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho
đúng:
Trong túp lều tranh cánh liếp che
Ngọn đèn mờ, toả ánh xanh xanh
Tiếng chày nhịp một trong đêm vắng
Như bước thời gian đếm quãng khuya
Học sinh chỉ ra được:
- Chép câu thứ 2 sai nhịp và sai vần:
+ Sai nhịp: sau từ “mờ” có dấu phẩy phải ngắt thành nhịp 3/4 không đúng với
nhịp thơ 7 chữ 4/3 của toàn bài thơ. Sửa lại bằng cách bỏ dấu phẩy để câu thơ
trở lại nhịp 4/3.
- Sai vần: câu trên vần e (che), câu dưới lại vần anh (xanh) không vần với nhau

-Sửa lại là “lè”.
Hoặc bài tập 2b ở bài Tập làm thơ 7 chữ ( Lớp 8): Làm tiếp bài thơ dang
dở dưới đây cho trọn vẹn theo ý mình:
Vui sao ngày đã chuyển sang hè
Phượng đỏ sân trường rộn tiếng ve
……..
……..
Học sinh có thể viết tiếp 2 câu:
13


Phấp phới trong lòng bao tiếng gọi,
Thoảng hương lúa chín gió đồng quê.
Hoặc có thể là:
Cảnh ấy lòng ai không phấn chấn
Mơ về cõi mộng thủa xa quê.
II.4.2. Tự sáng tác một đoạn thơ, bài thơ.
Đây là bài tập đòi hỏi cao hơn ở học sinh. Để tránh hô hào, nhàm chán,
giáo viên gợi ý đề tài, chủ đề cụ thể, gần gũi với học sinh, gây xúc động, để lại
ấn tượng sâu đậm với học sinh. Có thể lấy ngay hoàn cảnh cụ thể của học sinh,
gợi ý các em về hoàn cảnh của mình. Với những gợi ý cụ thể như vậy, học sinh
rất hào hứng và đã làm được những câu văn vần rất xúc động. Chẳng hạn, với
gợi ý như trên, khi làm thơ 4 chữ, có em đã viết:
Cha mẹ đi Nga
Em ở với bà
Ngày thì em quên
Đêm về em nhớ
Nhớ cha nhớ mẹ
Không biết khi nào
Lại về với em.

( Bài của em Đặng Thị Phương Huyền)
Bố mẹ đi Đài
Khi em còn nhỏ
Ở với ông bà
Khổ ơi là khổ
( Bài của em Lê Trần Chinh)
Đọc những câu đó, giáo viên cũng phải giật mình, rơi nước mắt. Điều
đáng nói hơn, đó lại là những bài viết của những học sinh học yếu chứ không
phải là khá, giỏi.
Thể thơ 5 chữ cũng có một số bài đáng khen:
Ôi Trường Sa, Hoàng Sa
Là máu thịt của ta
Lũ diều hâu đáng ghét
14


Dám xâm phạm sơn hà
Những chiến sĩ Gạc Ma
Đã hi sinh giữ biển
Thân nằm dưới nước sâu
Còn vang lời quyết chiến
Mai này em khôn lớn
Xin làm lính Trướng Sa
Tiếp theo bước ông cha
Giữ yên biển quê nhà
( Bài của em Nguyễn Thị Xuân Tình)
Em thích nhất cô Anh
Tính cô thật hiền lành
Bàn tay cô mềm mại
Giọng cô sao êm ái

Cô dạy dỗ chúng em
Thật ân cần tỉ mỉ
Bày cho em từng tí
Từ cách đứng thế ngồi
Ôi sao yêu cô thế
Người mẹ hiền của em.
( Bài của em Đinh Thị Chi)
Em thích nhất bạn Chi
Tình tình bạn nhu mì
Lại siêng năng chăm chỉ
Mọi người đều yêu quý
( Bài của em Trương Thị Lê)
Hay như thơ Lục bát cũng vậy:
Bỗng dưng nhớ bạn ngáy xưa
Thả trâu bắt bướm cặp kề sớm hôm
Nhớ sao những buổi nồm nam
15


Cùng nhau ùa xuống sông đằm thỏa thê
Bây giờ cách biệt sơn khê
Nhìn sông nhớ bạn đi về năm xưa
( Bài của em Lục Thị Doanh)
Và thơ 7 chữ:
Nhà em ở mãi tận trong Nung
Nghe đến ai ai cũng ngại ngùng
Vì phận đói nghèo nên gắng học
Mai này thoát khỏi chốn mông lung
( Bài của em Trương Thị Quyên)
Còn đây là thơ 8 chữ:

Mai chia tay rồi, ôi hàng phượng vĩ
Nước mắt lặng thần trong khóe mắt ai
Chân ngập ngừng muốn nói điều chi nữa
Bỗng thẹn thùng... Hoa phượng rót trên vai.
( Bài của em Nguyễn Đức Nam)
Như vậy, với những gợi ý cụ thể, sát với học sinh, thì các em đã thực sự
biết nói lên, giãi bày nỗi lòng của chỉnh bản thân mình. Qua đó, các em tự tin,
hứng thú hơn với môn Văn - môn đã giúp cho các em bảy tỏ nỗi lòng.
Trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh nhận định: "Từ bao giờ
đến bây giờ, từ Hômero đến Kinh thi đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là
một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui
buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận
thế".
Những bài thơ ( văn vần) trên của các em chính là một minh chứng vậy!
III. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Để thực hiện sáng kiến có hiệu quả , theo tôi người thực hiên phương án
cần chú ý một số lưu ý trong quá trình thực hiện như sau:
16


- Giáo viên nên thiết kế bài giảng PPT để chiếu các ví dụ, các bài làm của
học sinh lên máy chiếu cho dễ qua sát.
- Giáo viên phải nắm chắc luật gieo vần, phải có sự chuẩn bị kĩ càng như
tìm hiểu đối tượng học sinh, gợi ý các đề tài, chủ đề cụ thể, hay phải làm được
một bài văn vần để cùng thi đua với học sinh...
- Học sinh phải chuẩn bị đầy đủ bài học theo yêu cầu của SGK.
IV. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRIỂN KHAI CỦA ĐỀ TÀI
IV.1. Phạm vi và đối tượng ứng dụng của đề tài
Đối tượng ứng dụng:
- Đối tượng: Các tiết Tập làm thơ trong chương trình Ngữ văn 9 THCS.

- Học sinh các khối lớp trường THCS Nghĩa Đức, các trường THCS
trong huyện Nghĩa Đàn.
- Giáo viên dạy học môn Ngữ văn trong các nhà trường cấp THCS trên
huyện Nghĩa Đàn.
IV.2. Hiệu quả của đề tài
a. Đối với học sinh:
- Học sinh đã có sự hào hứng với tiết tập làm thơ. Bài viết của các em tuy
chưa phải là những tác phẩm văn chương nhưng cũng đã có nhiều bài làm đúng
thể loại, biết bộc lộ tình cảm, xúc cảm của mình một cách tế nhị. Nhưng điều
quan trọng là học sinh có được tâm thế học thơ nói riêng và Ngữ văn nói chung
một cách thoải mái, cởi mở hơn sau những hoạt động này. Các em được trả về
với cuộc sống với đúng nghĩa của nó.
b. Đối với giáo viên:
- Dạy học các tiết Tập làm thơ có hiệu quả hơn, gây được hứng thú cho
học sinh.
c. Đối với công tác kiểm tra đánh giá:
- Học sinh nắm chắc hơn kiến thức về các thể thơ đã học. Khi kiểm tra
đánh giá sẽ đạt kết quả cao hơn, chắc chắn hơn.

17


PHẦN III. KÉT LUẬN
I. TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI, KHẲNG ĐỊNH
TÍNH MỚI
- Phân tích vai trò của việc gây hứng thú học văn cho học sinh thông qua
các tiết Tập làm thơ trong chương trình Ngữ văn THCS.
- Khảo sát thực tế dạy học các tiết Tập làm thơ ở trường THCS. Từ đó,
định hướng và đề xuất phương án dạy học có hiệu quả.
- Tính mới của đề tài: Thể hiện ở việc cung cấp kiến thức về luật gieo

vàn trong thơ, hướng dẫn học sinh luyện tập làm thơ bằng những gợi ý về chủ
đề, đề tài gần gũi với học sinh.
II. HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG MỞ RỘNG CỦA ĐỀ TÀI
Tôi đã được thực hiện đề tài này ở các khối lớp trường THCS Nghĩa Đức
trong 5 năm học 2010 – 2011; 2011 – 2012; 2012 – 2013; 2013 – 2014; 2014 –
2015.
Kết quả học tập, hứng thú của học sinh ( qua điều tra khảo sát):
Trước khi dạy thể nghiệm kết quả như sau:

Khối lớp

Học sinh

6

Thích học Văn

Làm được thơ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

55

15


27%

2

4%

7

60

10

17%

3

5%

8

68

14

21%

2

3%


9

72

17

24%

4

6%

Sau bài dạy tôi tiến hành khảo sát, với kết quả thu được:
Khối lớp

Học sinh

6

Thích học

Làm được thơ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng


Tỉ lệ

55

45

82%

17

31%

7

60

50

83%

21

30%

8

68

60


88%

22

32%

9

72

65

90%

27

37,5%

18


III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT
Từ việc dạy học các tiết Tập làm thơ, tôi xin có những đề xuất sau:
III.1. Đối với giáo viên và học sinh:
Làm thơ là hoạt động ngữ văn nhằm giúp học sinh thoải mái, hứng thú
trong việc bộc lộ cảm xúc cá nhân, thông qua đó mà hứng thú hơn với môn Ngữ
văn. Để dạy học các tiết Tập làm thơ có hiệu quả, tôi xin đề nghị một số điều
như sau::
- Giáo viên phải nghiêm túc, đầu tư cho bài dạy.
- Học sinh phải chuẩn bị bài nghiêm túc dưới sự hướng dẫn của giáo viên

và có tinh thần xây dựng bài tốt, đồng thời phải có ý thực rèn luyện vận dụng
trong cuộc sống hằng ngày.
III.2. Đối với Ban giám hiệu các nhà trường:
- Tăng cường kiểm tra, chỉ đạo dạy học của giáo viên.. Tránh tình trạng
giáo viên chủ quan, coi nhẹ và thậm chí không dạy những tiết này.
- Bố trí máy chiếu trong các phòng học hoặc có phòng chức năng (chuyên
dạy các tiết sử dụng máy chiếu), tạo điều kiện cho giáo viên được thể nghiệm
các phương án dạy học của mình.
III.3. Đối với những người sử dụng đề tài:
- Thực hiện đúng và sáng tạo những đề xuất trên đây. Có thông tin phản
hồi góp ý xây dựng để tác giả hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm này.
Đề tài này mới chỉ là ý kiến, kinh nghiệm dạy học của bản thân tôi. Tuy
rất tâm huyết nhưng chắc chắn không thể không có những thiếu sót. Nhưng khi
dạy và nhất là khi học sinh làm được vài câu văn vần giãi bày nỗi lòng của mình
tôi cảm thấy tự tin và hạnh phúc. Tôi rất mong nhận sự ủng hộ cũng như được ý
kiến phản hồi, góp ý với tinh thần xây dựng của các đồng nghiệp để giúp tôi
hoàn thiện đề tài, đóng góp một chút công sức vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn.
Nghĩa Đàn, ngày 20 tháng 3 năm 2015
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Xuân Đồng

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên, Ngữ văn 6,7,8,9 Tập I,II – NXB Giáo dục
2. Tài liệu CKTKN TậpI,II – NXB Giáo dục

3. Mai Ngọc Chừ, Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb. Văn
hoá thông tin, H., 2005.
4. Nguyễn Thiện Giáp, Giáo trình Ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc gia,
H., 2008.
5. Hoàng Kim Ngọc, Quy luật phân bố âm chính, âm cuối, thanh điệu trong
những vần thơ Việt Nam, (in trong Giáo trình Tiếng Việt thực hành, Văn
hoá Thông tin, H., 2009, tr. 44, 45, 48, 50).
6. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia, H.,
2003.

20


PHỤ LỤC
TẬP LÀM THƠ BỐN CHỮ
A– MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
- Hiểu được đặc điểm thơ bốn chữ.
- Nhận diện được thể thơ này khi học và đọc thơ ca.
B – TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KỸ NĂNG
1. Kiến thức
- Một số đặc điểm của thể thơ bốn chữ.
- Các kiểu vần được sử dụng trong thơ nói chung và thơ bốn chữ nói
riêng.
2. Kỹ năng:
- Nhận diện được thể thơ bốn chữ khi đọc và học thơ ca.
- Xác định được cách gieo vần trong bài thơ thuộc thể thơ bốn chữ.
- Vận dụng những kiến thức về thể thơ bốn chữ vào việc tập làm thơ bốn
chữ.
C. Chuẩn bị
- GV: Bài soạn, tư liệu

+ Mục tiêu: học sinh nhận diện được thể thơ 4 chữ, làm được bài thơ 4
chữ theo chủ đề
+ Phương pháp: thuyết trình, đọc diễn cảm, đọc bình
+ Kỹ thuật: động não
D- CÁC BƯỚC LÊN LỚP
1. Ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra: sự chuẩn bị của hs
3. Bài mới
Hoạt động của thầy và trò
Hđ1: Gv hướng dẫn cho hs tìm hiểu thơ bốn
chữ
+ Mục tiêu: học sinh nhận diện được thể thơ
4 chữ
+ Phương pháp: thuyết trình, vấn đáp
+ Kỹ thuật: động não
+ Thời gian 15 phút
- Gv gọi hs đọc đoạn thơ trong sgk và bài thơ
Lượm của Tố Hữu.
? Em có nhận xét gì về đoạn thơ và bài thơ
đó?

Ghi bảng
I/ Đặc điểm của thơ bốn chữ
- Số chữ: Bốn chữ/ câu
- Khổ: Thường chia thành khổ
hoặc không
- Số câu: Không hạn chế
- Vần: Vần lưng, vần chân, vần
cách, vần liền hoặc vần hỗn
hợp.

- Ngắt nhịp: 2/2

Giáo viên giảng giải thêm về các thuật ngữ:
21


vần, gieo vần, vần lưng, vần chân, vần liền, vần
cách trong thơ.
Lưu ý HS: thơ bốn chữ thường có nhiều
dòng, ngắt nhịp 2/2 rất thích hợp với lối kể và
tả sự vật, sự việc. Đặc biệt là với những vật,
việc có tình tiết nhanh, gấp.
7. Em có nhận xét gì về thanh điệu ở các
tiếng gieo vần với nhau ở đoạn thơ?

Cháu đi đường cháu
Chú đi đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà

Giáo viên nhấn mạnh thêm: Các tiếng
gieo vần với nhau phài cùng thanh bằng ( dấu - Các tiếng gieo vần với nhau
huyền, không dấu), hoặc trắc ( dấu sắc, nặng, cùng thanh bằng, hoặc trắc
hỏi, ngã)
- Nhận xét các tiếng gieo vần với nhau trong
Chú bé loắt choắt
đoạn thơ:
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Giáo viên lưu ý: Các tiếng có vần giống
nhau hoặc gần giống nhau thì gieo vần với - Các tiếng có vần giống nhau
hoặc gần giống nhau thì gieo
nhau
vần với nhau
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 2
(SGK)

Bài tập 2:( SGK)
- Vần lưng: lưng – chừng;
hàng – ngang.
- Vần chân: hàng – trang;
núi – bụi.

- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 3
(SGK)

Bài tập 3:( SGK)
- Vần liền: đoạn 2: hẹ - mẹ
- Vần cách: đoạn 1: đàn - càn
Bài tập 4:( SGK/)
- Thay: sưởi = cạnh.
Đò = sông.

- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập 4
(SGK)

Hđ3: Thi làm thơ bốn chữ
+ Mục tiêu: học sinh làm được bài thơ 4
chữ theo chủ đề

+ Phương pháp: thuyết trình, đọc diễn cảm

II/ Tập làm thơ bốn chữ
1. Học sinh làm thơ theo chủ
đề tự chọn đã chuẩn bị ở nhà.
2. Đọc và bình thơ
22


+ Kỹ thuật: động não
+ Thời gian: 25 phút
-Cả lớp nhận xét những điểm được và chưa
được, cá nhân sửa chữa bài làm của mình.
* GV: đánh giá, nhận xét  nhấn mạnh về
đặc điểm thể thơ.
Lưu ý: Gợi ý học sinh chọn những chủ đề
gần gũi với bản thân, những việc để lại ấn
tượng sâu đậm cho bản thân mình, gây cho
mình nhiều cảm xúc… thì học sinh sẽ dễ làm
và hứng thú hơn.
4/ Củng cố: Giáo viên khái quát nội dung bài học
5/ Dặn dò: Học sinh hoàn chỉnh bài thơ 4 chữ đã làm, học bài và chuẩn bị bài
Cô Tô

23



×