Mục lục
Lời mở đầu............................................................................................................2
I.
Các điểm tương đồng........................................................................5
1.
Khái niệm án lệ...............................................................................5
2.
Nguyên tắc Stare decisis..........................................................5
II. Các điểm khác biệt.............................................................................6
1.
a.
Lịch sử hình thành án lệ............................................................6
Lịch sử hình thành án lệ ở Anh..................................................6
b. Lịch sử hình thành án lệ ở Mỹ....................................................8
2.
a.
Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ......................................9
Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Anh..............................9
b. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Mỹ..............................10
3.
a.
Nguyên tắc áp dụng...................................................................11
Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Anh: Rules of Stare decisis11
b. Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Mỹ: Rules of precedent.......13
Kết luận...............................................................................................................14
Phụ lục................................................................................................................17
1
Lời mở đầu
Thế giới đang ngày càng hội nhập, xu hướng toàn cầu hóa
diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi việc nắm bắt và hiểu biết về các
hệ thống pháp luật ngày càng cao. Sự hiểu biết về pháp luật,
văn hóa hay cách sống của mối dân tộc khác nhau tạo điều kiện
cho chúng ta trong việc mở rộng giao thương, giao lưu quốc tế.
Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về pháp luật nước mình và đồng thời
nhìn nhận hệ thống pháp luật nước mình dưới 1 quan điểm mới.
Là một trong bốn dòng họ pháp luật - Common law đã thực sự
thể hiện được vị trí của mình khi có đến một phần ba các nước
trên thể giới chịu ảnh hưởng của nó, mà điển hình là hai cường
quốc Anh và Mỹ. Anh và Mỹ là hai quốc gia thuộc dòng họ
Common law nên hệ thống pháp luật của hai nước có những nét
tương đồng nhất định. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng
không có điểm khác biệt, điều này được thể hiện rõ qua cấu
trúc nguồn luật của hai hệ thống pháp luật. Khi tiến hành
nghiên cứu và so sánh nguồn luật của hai quốc gia này, chúng
em tập trung làm rõ và phân tích về án lệ bởi vì án lệ đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Common
law, cũng như trong hệ thống pháp luật của Anh và Mỹ.
Nhìn chung, trong cấu trúc nguồn luật của hai quốc gia
đều gồm án lệ, các văn bản pháp luật và các tác phẩm của các
học gia pháp lý có uy tín. Án lệ là nguồn luật được sử dụng phổ
biến nhất. Án lệ của Anh và Mĩ đều có chung nguyên tắc Stare
decisis, đều được ghi chép, xuất bản để sử dụng. Cả Anh và Mỹ
đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học giả pháp lí
giống như là một nguồn luật. Các tác phẩm này thường được
trích dẫn bởi các luật sư và thẩm phán trong quá trình hành
2
nghề luật. Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ
thống nguồn luật của hai quốc gia.
Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề này:
Khi tiến hành nghiên cứu hê thống nguồn luật tập trung về
phần án lệ của Anh và Mỹ dưới góc độ luật so sánh, nhóm
chúng em đã nhận thấy được sự cần thiết và ứng dụng thực tiễn
của việc nghiên cứu này. Đầu tiên, việc nghiên cứu và so sánh
này có thể cho người đọc những thông tin khái quát nhất về các
nguồn luật trong hệ thông pháp luật Common law, mà cụ thể là
ở Anh và Mỹ. Nhận biết được tầm quan trọng của án lệ đối với
không chỉ hệ thống pháp luật common law, cụ thể ở Anh và Mỹ,
mà án lệ gần như có sự ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống pháp
luật trên toàn thế giới.
Việc áp dụng án lệ ngoài ý nghĩa giải quyết một vụ án cụ
thể còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau
này, do đó, sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống
nhau, giúp tiên lượng được kết quả của các vụ tranh chấp, tiết
kiệm công sức của các Thẩm phán, Người tham gia tố tụng, Cơ
quan tiến hành tố tụng, tạo ra sự công bằng trong xã hội. Án lệ
là khuôn thước mẫu mực để các thẩm phán tuân theo vì được
đúc kết, chọn lọc kỹ và mang tính chuyên nghiệp. Khi ấy thẩm
phán chỉ cần đối chiếu để đưa ra phán quyết, tránh chuyện mỗi
người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu. Từ đó tránh được
chuyện dư luận xã hội cho rằng việc xét xử của tòa án là không
bình đẳng. Đồng thời, áp dụng án lệ còn giúp các đơn vị khi
đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng giao dịch dân sự,
thương mại biết phòng tránh rủi ro...
3
Từ đó khi tiến hành so sánh về nguồn án lệ của Anh
và Mỹ, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được ưu, nhược
điểm của từng cách áp dụng án lệ tại các quốc gia này,
từ đó áp dụng vào thực tiễn pháp luật tại Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong bài tiểu luận của nhóm chúng
em là nguồn luật của Anh và Mỹ, trọng tâm là án lệ.
Phương pháp nghiên cứu
1.
Phương pháp phân tích và tổng hơp lí thuyết: Phân tích là
nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích
chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng.
Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được
phân tích tạo ra một hệ thông lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc
về đối tượng.
2.
Phương pháp lịch sử: Là phương pháp nghiên cứu bằng
cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của đối
tượng từ đó rút ra bản chất và quy luật của đối tượng.
3.
Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết: Phân loại
là sắp xếp các tài liệu khoa học theo từng mặt, từng đơn vị,
từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát
triển Hệ thống hóa là sắp xếp tri thức thành một hệ thống trên
cơ sở một mô hình lý thuyết làm sự hiểu biết về đối tượng đầy
đủ hơn.
4
I.
Các điểm tương đồng
Án lệ có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật Anh, Mỹ và là một nguồn không thể thiếu trong hệ thống
pháp luật Anh, Mỹ. Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật của
Anh và Mỹ có thể thấy nguyên tắc áp dụng cơ bản và giải thích
án lệ ở Anh và Mỹ có những điểm tương đồng.
1. Khái niệm án lệ
Án lệ là “vụ án đã được giải quyết tạo cơ sở cho việc xét xử
các vụ án sau này mà có những sự kiện hoặc vấn đề pháp lý
tương tự”. Trong đó, án lệ cũng được áp dụng đối với việc giải
thích luật thành văn, có nghĩa là tòa cấp dưới phải tuân theo
cách giải thích luật của tòa cấp trên. Cần lưu ý rằng, về mặt kỹ
thuật, nói một cách chặt chẽ, khi xét xử, các thẩm phán không
phải tuân theo quyết định (decision) được đưa ra trong vụ án
trước, mà chỉ phải tuân theo quy tắc pháp lý trong phần luận cứ
chính (ratio decidendi) được đưa ra trong bản án trước.
Án lệ về hình thức là những bản án đã trở thành luật, tạo
thành một thứ luật có tên gọi là luật án lệ (case law) hay luật do
thẩm phán làm ra (judge-made law), bên cạnh luật do nghị viện
ban hành (legislation hay statutory law). Tuy nhiên, như
Blackstone lưu ý, luật và ý kiến của thẩm phán thể hiện trong
án lệ không phải lúc nào cũng là một, vì có lúc thẩm phán cũng
nhầm lẫn về luật. Do đó, án lệ không phải là tuyệt đối tuân theo
đối với tòa án và thẩm phán trong các vụ án tương tự sau này,
khi họ cho rằng, án lệ đã không còn phù hợp với bối cảnh mới
hoặc không bảo vệ được công lý.
Về bản chất, án lệ là một nguyên tắc tố tụng, theo đó:
những bản án sắp sửa được tuyên không được trái với những
5
bản án mà tòa cùng cấp hay tòa cấp trên đã tuyên và có hiệu
lực trước đó nếu như tình tiết của các vụ án giống hoặc tương tự
nhau.
2. Nguyên tắc Stare decisis
Nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắc Stare decisis.
Nguyên tắc Stare decisis có thể được tóm tắt một cách đơn giản
như sau: Hai vụ việc với các tình tiết chính tương tự như nhau sẽ
được xét xử như nhau. Ban đầu nguyên tắc này không chính
thức bắt buộc nhưng dần dần vào khoảng giữa thế kỷ 17 đến
thế kỷ 19 nguyên tắc này chính thức bắt buộc áp dụng. Sở dĩ
nguyên tắc này được sử dụng và được coi trọng bởi vì khi các
quy định pháp luật thành văn không tồn tại, nguyên tắc này là
điều kiện tiên quyết đối với bất cứ hệ thống pháp luật nào muốn
duy trì tính có thể dự báo trước ở một mức độ nhất định và sự
tôn trọng các quy định của pháp luật.
Nguyên tắc Stare decisis ngày nay vẫn là nguyên tắc
xương sống của pháp luật Anh, Mỹ được xây dựng dựa trên hoạt
động của các toà án và toà án có thể quyết định sửa đổi nguyên
tắc này.
Điều quan trọng trong nguyên tắc này là việc xác định thế
nào là “tình tiết chính tương tự nhau”. Điều này phụ thuộc khá
nhiều vào việc giải thích án lệ của các thẩm phán. Ví dụ như
trong vụ Donoghue kiện Stevenson, phán quyết của thẩm phán
Lord Atkin đã tạo ra một án lệ, giả sử như sau đó có một người
khác cũng uống một chai bia gừng nhưng trong chai bia đó lại
có một cái đinh thay vì con ốc sên thì liệu có được áp dụng phán
quyết của vụ Donoghue kiện Stevenson hay không. Luật sư của
nhà sản xuất chắc chắn sẽ cố gắng thuyết phục thẩm phán
6
rằng con ốc sên hoàn toàn khác với cái đinh. Trong tình huống
đó sự giải thích của thẩm phán đóng một vai trò rất quan trọng
để giải quyết vụ việc.
II.
Các điểm khác biệt
Tuy nhiên, pháp luật Anh và Mỹ tồn tại một cách độc lập,
mỗi nước đều có chủ quyền riêng và hoàn cảnh kinh tế xã hội
khác nhau làm cho việc áp dụng án lệ giữa hai nước Anh và Mỹ
cũng mang những điểm khác biệt.
1. Lịch sử hình thành án lệ
a. Lịch sử hình thành án lệ ở Anh
Đối với Anh là một đất nước theo hệ thống Common Law
thì án lệ là một nguồn luật yếu và vô cùng quan trọng, được dẫn
chiếu khi xét xử. Án lệ Anh được sử dụng trong hoạt động xét xử
như nguồn luật chủ yếu vì nó gắn liền với sự hình thành và phát
triển của pháp luật và hệ thống tòa án của nước này.
Có thể nói án lệ có nguồn gốc từ nước Anh, án lệ xuất hiện
từ thế kỷ XI (1066) ở Anh sau cuộc chinh phục của người
Norman và là hệ quả của quá trình xây dựng chế độ phong kiến
tập trung của Hoàng gia Anh.
Vào thế kỷ XII nước Anh thành lập hệ thống Tòa án Hoàng
gia, dần dần thay thế các toà truyền thống và nhanh chóng
được các bên ưa chuộng. Thẩm phán Hoàng gia Anh trở thành
thẩm phán “lưu động” đi xét xử khắp đất nước và họ làm quen
với các tập quán khác nhau. Hàng năm các thẩm phán này tập
trung về London để trao đổi kinh nghiệm xét xử thảo luận với
nhau, so sánh điểm mạnh yếu của chúng, từ đó thống nhất
nguyên tắc xét xử. Kết quả là các thẩm phán Hoàng gia ngày
7
càng áp dụng thường xuyên hơn các quy định pháp luật giống
nhau trên khắp đất nước từ đó mà án lệ ra đời.
Trong một thời gian dài Common Law đã giữ vị trí độc tôn
trong hệ thống pháp luật Anh. Tới thế kỷ XVI sự ra đời của Luật
Công Bình (Equity Law) đã dẫn đến Common Law và Luật Công
Bình tồn tại song song với nhau. Cả Common Law và Luật Công
Bình đều tạo ra án lệ.
Vào thế kỷ XVII, trào lưu luật La Mã xâm nhập vào Châu Âu
và dần khẳng định được vị trí của mình thì lúc đó Commom Law
gặp khó khăn. Cuộc đấu tranh giữa hai xu thế đưa đến kết quả
Common Law đã thắng, án lệ tiếp tục được sử dụng trong hoạt
động xét xử.
Năm 1789 cách mạng tư sản Pháp thành công xác lập sự
tối cao của luật thành văn, có ảnh hưởng lớn, được lan rộng ở
các nước châu Âu. Tuy nhiên vào thời điểm đó Anh vẫn là một
đế chế hùng mạnh với hệ thống thuộc địa lớn nhất thế giới,
cùng với sự chặt chẽ, bảo thủ của thẩm phán, Common Law vẫn
tồn tại ở Anh hơn thế nữa nó còn được lan rộng sang các nước
khác, đặc biệt các thuộc địa của Anh như Ấn Độ, Hồng Kông,
Singapore…
Hiện nay ở Anh, án lệ vẫn là nguồn luật chủ yếu tồn tại
bên cạnh luật thành văn và các nguồn luật khác, mặc dù khi có
sự mâu thuẫn giữa án lệ và luật thành văn thì về nguyên tắc
luật thành văn luôn được ưu tiên áp dụng nhưng các thẩm phán
Anh luôn tìm cách hạn chế áp dụng luật thành văn để áp dụng
án lệ vào xét xử.
Sở dĩ án lệ dược sử dụng lâu dài như vậy trong pháp luật
Anh vì ngay từ khi hình thành đất nước hoàng đế William đã
8
muốn xây dựng Anh Quốc thành một nhà nước phong kiến tập
quyền, tất cả quyền lực tập trung vào tay nhà vua, hơn nữa khi
xâm chiếm vừng đất của người Ănglo – Sacxon nhà vua đã áp
dụng ngay tập quán của họ để dễ bề cai quản đất nước. Sau khi
đã ổn định về chính trị, xã hội và củng cố được đế chế của mình
Anh vẫn là nước không có hiến pháp thành văn, và việc sử dụng
án lệ trong hoạt động xét xử đã góp phần giải quyết vụ việc một
cách nhanh chóng. Anh là một nước có truyền thống “bảo thủ”,
và văn hóa pháp lý của Anh nhìn nhận ở một khía cạnh nào đó
cũng không phải là ngoại lệ. Ngày nay ở Anh về nguyên tắc luật
thành văn luôn được ưu tiên áp dụng nhưng có thể thấy rằng
các thẩm phán Anh vẫn luôn tìm cách để áp dụng án lệ.
b. Lịch sử hình thành án lệ ở Mỹ
Trước đây trong một thời gian dài, Mỹ là một trong những
thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ. Người Anh khi tiến hành mở rộng
thuộc địa đã dùng pháp luật của mình để gây ảnh hưởng tới các
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ở các nước thuộc địa
nên trong thời gian là thuộc địa của Anh, pháp luật Mỹ chịu ảnh
hưởng của pháp luật Anh một cách phù hợp với hoàn cảnh của
nuớc Mỹ thời bấy giờ.
Pháp luật Anh (cả Common Law và Equity Law) được một
số tòa án Mỹ dẫn chiếu để xét xử trong suốt một thời gian dài,
thậm chí một số toà án của Mỹ vẫn viện dẫn án lệ trong pháp
luật Anh có từ thời tiền cách mạng tư sản Mỹ (1776) đế xét xử
và một trong số đó được xem là án lệ bắt buộc.
Mọi việc bắt đầu có sự thay đổi từ cuộc cách mạng tư sản
Mỹ (1776) lật đổ sự thống trị của thực dân Anh giành lại độc lập
dẫn tới sự ra đời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nước Mỹ tách ra
9
khỏi sự ràng buộc khống chế của Anh về tất cả mọi mặt. Pháp
luật Mỹ vẫn tiếp thu truyền thống pháp luật của Anh một cách
có chọn lọc nhưng có thể thấy một cách rõ ràng pháp luật của
Mỹ đã có những cải cách lớn trong công tác lập pháp, hành
pháp, và tư pháp. Năm 1787 quốc hội Mỹ đã phê chuẩn và
thông qua bản Hiến pháp Mỹ đây là một bản hiến pháp thành
văn có giá trị lớn trong lịch sử Mỹ mà trong suốt hơn 200 năm
qua vẫn còn nguyên giá trị. Án lệ trong pháp luật Mỹ mặc dù
còn mang đậm dấu ấn của pháp luật Anh nhưng rõ dàng đã và
đang được áp dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt trong hoạt
động xét xử chứ không cứng nhắc như pháp luật Anh.
2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ
a. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Anh
Ở Anh người ta coi trọng án lệ, vì cho rằng đây là phương
thức đạt được công lý[1].
Pháp luật được đặt ra và áp dụng một cách công bằng,
nhất quán và xác đáng hay thỏa đáng. Khi một nền pháp luật
tạo ra và bảo đảm được ba giá trị đó thì xã hội sẽ có công lý. Khi
xã hội có công lý thì người dân sẽ được an toàn bởi các quan hệ
xã hội sẽ trở nên “có thể tiên liệu” và ổn định. Theo các nhà
nghiên cứu, một vấn đề trung tâm của án lệ là nó tạo ra sự nhất
quán trong khi giải thích luật đối với các vụ án, kèm theo đó là
sự ổn định, tiên liệu của hệ thống pháp luật trải qua thời
gian[2]. Nhờ có tính ổn định, tiên liệu được, các bên trong giao
dịch pháp lý sẽ lên kế hoạch hành động được tốt hơn.
Từ nhận thức ấy, có một nguyên tắc mà đến nay đã trở
thành tiêu chí ở Anh quốc: trong cùng một quốc gia, không thể
xử những vụ án giống nhau bằng những bản án khác nhau.
10
Nguyên tắc này là nền tảng cho “sự thống trị của luật” (rule of
law), là bức tường thành chống đỡ sự xét xử tùy tiện hoặc độc
đoán của cá nhân, chống lại “sự thống trị của cá nhân”[3].
Án lệ tạo nên hiệu suất trong hoạt động của tòa án khi
tránh cho tòa không phải mất công sức quá nhiều vào việc
nghiên cứu, xem xét lại những vấn đề cũ, cũng như tiết kiệm
công sức cho các bên có tranh chấp trên phương diện này.
Cần lưu ý rằng giá trị của án lệ nằm ở phần tinh túy nhất
của nó: Phần luận cứ. Giá trị của một án lệ chính là trí tuệ, kinh
nghiệm, tâm huyết của các thẩm phán trong việc vận dụng
pháp luật, đúc kết lên thành những luận cứ có sức thuyết phục
cao, làm nền tảng cho phán quyết của mình.
Ở Anh quốc, án lệ được phổ biến công khai, ai cũng có thể
đọc và tìm hiểu vì sao các thẩm phán lại phán quyết như vậy.
Tại Anh các án lệ bắt buộc thường được ghi chép trong Law
Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports. Các sinh
viên luật khi học là học những tinh hoa được chưng cất từ thực
tiễn ấy chứ không chỉ học lý thuyết suông. Một bản án được xét
xử nghiêm túc, đúng đắn chứa đựng tinh hoa của trí tuệ và
lương tâm của thẩm phán. Những giá trị ấy phải được kế thừa
và lan truyền, được tôn trọng, bổ sung và hoàn thiện.
Tầm quan trọng của án lệ là khi áp dụng án lệ, thực tiễn
toà án ở Anh còn tạo ra quy phạm pháp luật[4]. Những quy tắc
trong các quyết định toà án cần được áp dụng trong tương lai,
nếu khác đi sự ổn định của thông luật sẽ bị phá vỡ và sự tồn tại
của nó sẽ bị đe doạ. Các luật gia Anh xem xét luật pháp nước
mình chủ yếu như luật pháp của toà án.
b. Ý nghĩa, tầm quan trọng của án lệ ở Mỹ
11
Ở Mỹ, án lệ đóng vai trò là nguồn luật cơ bản, quan trọng.
Tuy nhiên, án lệ ở Mỹ dường như không mang tính chất tuyệt
đối mà có tính tương đối, có phần nới lỏng. Tại Mỹ tập hợp các
án lệ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp luật
(Restatement of the Law) của một hiệp hội tư nhân có tên là
Viện luật Hoa Kỳ (American Law Institute). Các án lệ ở Mỹ cũng
được thường xuyên áp dụng vào trong thực tiễn xét xử nhưng
các thẩm phán chú trọng hơn tới sự phù hợp của án lệ với thực
tiễn. Ngày nay, Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo, vì
vậy những phán quyết của tòa án trong những án lệ dường như
không còn phù hợp với những sự thay đổi nhanh chóng về mọi
mặt ở nước Mỹ.
3. Nguyên tắc áp dụng
Án lệ ở Anh và Mỹ tuy đều áp dụng nguyên tắc là Stare
decisis nhưng lại sử dụng nguyên tắc đó ở hai dạng thức khác
nhau.
a. Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Anh: Rules of Stare decisis
Án lệ vận hành dựa trên hệ thống thứ bậc của tòa án Anh
quốc. Về tổng thể, quy tắc án lệ ở Anh gồm các nội dung sau:
1) Những án lệ do Tòa án tối cao Liên hiệp Anh (trước đây là
Viện Nguyên lão) đưa ra có tính chất bắt buộc đối với mọi toà án
cấp thấp hơn;
2) Những án lệ do Toà phúc thẩm đưa ra có tính chất bắt
buộc đối với mọi toà cấp dưới và (ngoài luật hình sự) đối với
chính toà đó;
3) Những án lệ do Toà tối thượng đưa ra có tính chất bắt
buộc đối với mọi toà cấp dưới và có ý nghĩa quan trọng, thường
12
được sử dụng để hướng dẫn cho các bộ phận của Toà tối thượng
và Toà Vương miện.
Hình thức của những quyết định toà án Anh
- Tiền lệ bắt buộc
- Tiền lệ tham khảo
Ranh giới cơ bản khi giải thích án lệ của Anh là sự khác
nhau giữa Ratio decidendi và Obiter dicta. Ratio decidendi và
Obiter dicta là hai bộ phận trong phần lập luận của một bản
án của toà án. Chỉ có những bản án được coi là có tính bắt
buộc mới tạo thành án lệ và có giá trị pháp lý. Trong một bản
án thì chỉ có phần lập luận mới được coi là án lệ, còn phần
phán quyết không được coi là án lệ vì chỉ liên quan đến từng
trường hợp cụ thể. Các bên tham gia phiên toà có thể viện
dẫn rất nhiều án lệ. Trong vụ Donoghue kiện Stevenson có 32
án lệ đã được viện dẫn trong phán quyết.
Ratio decidendi là lý do để quyết định, đây là nội dung bắt
buộc trong quá trình suy luận dẫn tới quyết định của toà án.
Lý do để quyết định của các toà án cấp trên là bắt buộc đối
với các toà án cấp dưới trên cơ sở học thuyết tiền lệ của luật
án lệ. Ratio decidendi có tính chất bắt buộc vì nó là quy định
pháp luật mà toà án dựa vào đó để đưa ra phán quyết cho vụ
việc nghĩa là quy định pháp luật cần thiết cho việc đưa ra
quyết định.
Obiter dicta là lời nhận xét bình luận của thẩm phán không
có giá trị bắt buộc. Obiter dicta chỉ là tuyên cáo không chi
phối đối với quyết định và vì thế không có tính bắt buộc đối
với các vụ việc trong tương lai. Nguyên nhân khiến Obiter
dicta không có tính bắt buộc trước hết là vì nó được đưa ra
13
mà không có sự kiểm nghiệm và xem xét hậu quả thực tế từ
phía thẩm phán.
Tuy nhiên Ratio decidendi của phán quyết được đưa ra
không phải có giá trị một cách vĩnh cửu. Một số quyết định
trước đây một thời được coi là những án lệ quan trọng nhưng
khi mà vị thẩm phán chỉ ra sự khác biệt giữa án lệ đó với vụ
việc ông ta xem xét, thậm chí chỉ bằng một chi tiết khác biệt
cũng làm cho án lệ đó mất giá trị mà không cần có một toà
án nào tuyên bố rõ ràng. Đây là một biểu hiện của nguyên
tắc “Toà án không áp dụng án lệ chỉ trong trường hợp chỉ ra
được sự khác biệt cơ bản giữa án lệ và vụ án đang xét xử”.
Hoặc một số bản án chứa đựng những vấn đề đã quá lạc hậu
chẳng hạn như những quan điểm về trọng nam khinh nữ sẽ bị
huỷ bỏ tư cách án lệ.
Ngoài nguyên tắc Stare decisis là nguyên tắc cơ bản và
quan trọng nhất trong việc áp dụng án lệ ở Anh, ở Anh còn có
một vài nguyên tắc khác như:
– Từ năm 1966, Uỷ ban phúc thẩm thượng nghị viện (Viện
nguyên lão, Thượng nghị viện, House of Lords) có quyền
không tuân theo các phán quyết trước đây của mình nhưng
bản án của họ khi đã là án lệ thì có giá trị bắt buộc với mọi
toà án.
– Toà phúc thẩm Anh: Có hai toà chuyên trách, toà phúc thẩm
dân sự không chấp nhận việc xem xét lại những phán quyết
trước đây để ra những phán quyết mới phủ nhận án lệ, toà
phúc thẩm hình sự sẵn sàng không chấp nhận những phán
quyết trước đây nếu thấy rằng những phán quyết đó đã giải
thích sai hoặc áp dụng không đúng luật pháp
14
– Toà án tối cao Anh: Thẩm phán Toà án tối cao Anh không
chịu ràng buộc bởi những phán quyết trước đây của mình,
nhưng trên thực tế họ thường tuân thủ phán quyết trong quá
khứ của chính mình.
– Bản án do một thẩm phán duy nhất của Toà án tối cao
tuyên sau khi xét xử mang tính bắt buộc với toà án cấp dưới,
đồng thời có giá trị tham khảo đối với các toà án khác.
b. Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Mỹ: Rules of precedent
Nguyên tắc Stare decisis cũng là nguyên tắc cơ bản trong
việc áp dụng án lệ ở Mỹ. Tuy nhiên có thể thấy rõ rằng việc
áp dụng án lệ ở Mỹ linh hoạt và mềm dẻo hơn ở Anh, chính
điều đó đã làm cho pháp luật Mỹ tuy chịu ảnh hưởng bởi
pháp luật Anh nhưng luôn chứng tỏ được sự độc lập và đặc
trưng của mình và các thẩm phán Mỹ cũng được đánh giá là
năng động và ít bảo thủ hơn so với các thẩm phán Anh.
Nguyên tắc áp dụng án lệ ở Mỹ còn được gọi là Rule of
precedent, theo đó một toà án Mỹ không bị ràng buộc bởi
chính các án lệ của mình.
Toà án tối cao liên bang không có nghĩa vụ phải tuân thủ
một cách cứng nhắc các phán quyết trước đây của mình, bởi
lẽ đó là cơ quan tối cao có trách nhiệm đối với chính sách
pháp lý tổng thể của đất nước, cho nên toà án tối cao cần
phải linh hoạt trong xét xử.
Toà án cấp dưới của liên bang và toà án bang có nghĩa vụ
tuân thủ các bản án là án lệ của Toà án tối cao liên bang. Đối
với các phán quyết của toà án cấp dưới của liên bang về
những vấn đề mang tính liên bang thì toà án các bang không
bắt buộc phải tuân theo, tuy nhiên chúng thường được
15
nghiên cứu cẩn thận. Tương tự, các phán quyết của toà án
bang về những vấn đề mang tính liên bang cũng không ràng
buộc các toà án liên bang. Đối với các phán quyết của toà án
phúc thẩm khu vực của liên bang thì các phán quyết này chỉ
mang tính bắt buộc tuân theo đối với các toà án cấp dưới
nằm trong lãnh thổ khu vực đó chứ không ràng buộc các toà
án khu vực khác. Tương tự, các phán quyết của toà án cấp
trên của bang là án lệ chỉ có giá trị ràng buộc đối với các toà
án cấp dưới của bang đó. Tuy nhiên thực tế cho thấy các
phán quyết của toà án cấp trên vẫn được toà án cấp dưới áp
dụng.
Ở Mỹ luật thành văn có giá trị cao nhất, trong luật thành
văn thì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị cao nhất của
pháp luật Mỹ. Mặc dù án lệ là loại nguồn phổ biến và quan
trọng nhưng luật thành văn vẫn được ưu tiên áp dụng. Các án
lệ trong pháp luật Mỹ được hình thành từ các phán quyết của
các thẩm phán toà án Mỹ, toàn án Liên bang và toà án các
bang. Ở Mỹ về nguyên tắc toà cấp dưới tuân thủ toà án cấp
trên, nhưng các toà án cùng cấp không phải tuân thủ án lệ
của nhau, toà án bang này không có nhiệm vụ tuân thủ án lệ
của bang khác.
Án lệ trong hệ thống pháp luật Mỹ được sử dụng một cách
mềm dẻo và linh hoạt hơn trong hệ thống pháp luật Anh vì
thẩm phán ở Mỹ rất linh hoạt trong xét xử và họ có thực
quyền trong tay cao hơn so với thẩm phán ở Anh mặc dù
pháp luật Mỹ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi pháp luật Anh, vì vậy
mà thẩm phán và luật sư ở Mỹ được đào tạo rất bài bản, phải
đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe vì thế nghề luật ở Mỹ rất
phát triển. Mỹ là quốc gia được hợp bởi 50 bang, mỗi bang lại
16
có pháp luật riêng của mình trong đó bang này không bị ràng
buộc bởi pháp luật của bang kia nên việc sử dụng án lệ trong
hoạt động xét xử là rất quan trọng, giúp cho các thẩm phán
giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng hơn.
17
Kết luận
Mặc dù hệ thống pháp luật Anh và Mỹ có sự phát triển
tương tự nhau, đặc biệt trong một thời gian pháp luật Mỹ chịu
ảnh hưởng, tiếp thu pháp luật Anh. Nhưng cần khẳng định rằng
pháp luật Anh và Mỹ tồn tại một cách độc lập vì mỗi nước đều
có chủ quyền riêng của mình và hoàn cảnh kinh tế xã hội khác
nhau làm cho án lệ Mỹ có những nét đặc thù cơ bản so với án lệ
ở Anh. Trong khi ở Mỹ Hiến pháp là bộ luật thành văn có giá trị
cao nhất, án lệ nếu trái với hiến pháp sẽ bị tuyên bố là vi hiến
và không có giá trị thì ở Anh, luật thành văn có giá trị cao hơn
án lệ nhưng Thẩm phán luôn cố gắng áp dụng án lệ và hạn chế
áp dụng luật thành văn. Ở Mỹ, án lệ được các thẩm phán áp
dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo hơn, không cứng nhắc như
Anh. Nguyên nhân chủ yếu là do yếu tố lịch sử, lãnh thổ, hình
thức chính thể, chế độ chính trị và điều kiện kinh tế xã hội.
Trong khi Anh là một đế chế hùng mạnh, có bề dày lịch sử và là
một quốc gia đơn nhất,một đất nước có hình thức chính thể là
quân chủ nghị viện, có tiềm lực mạnh về kinh tế. So với Anh,Mỹ
là một quốc gia mới giành độc lập, đã từng là thuộc địa của Anh
nhiều năm, là một quốc gia liên bang với hình thức chính thể là
nước cộng hòa tổng thống gồm hai bang là Dân chủ và Cộng
hòa thay nhau cầm quyền, mỗi bang đều có pháp luật riêng và
hiện tại đang đứng đầu thế giới về nền kinh tế. Những nguyên
nhân trên đã dẫn đến hệ quả pháp lý cách giải quyết vấn đề
của người Mỹ rất khác so với người Anh.
Có thể thấy, không chỉ các dòng họ pháp luật có những
điểm khác nhau mà giữa các hệ thống pháp luật trong cùng một
dòng họ cũng có nhiều điểm khác biệt. Mỗi quốc gia đều có độc
lập và có những điểm riêng biệt trong quá trình hình thành,
18
trong kinh tế và văn hóa xã hội, vì vậy điều trên là không thể
tránh khỏi.
Sau khi tìm hiểu về án lệ của Anh và Mỹ, chúng em nhận
thấy án lệ là một nguồn luật thực tế và linh hoạt, gần gũi với
thực tiễn đời sống. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều cuộc thảo
luận về việc sử dụng án lệ. Vậy nhưng, chưa có quyết định
chính thức về việc đưa án lệ trở thành một nguồn luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, án lệ vẫn được sử dụng
như một loại nguồn không chính thức trong quá trình xét xử
thông qua những báo cáo hướng dẫn công tác xét xử của ngành
toà án.
Nghiên cứu những báo cáo xét xử hàng năm của toà án
nhân dân tối cao đã cho thấy những dấu hiệu của việc hình
thành án lệ. Mặc dù những báo cáo này vẫn chưa đủ để cấu
thành một hệ thống án lệ hoàn chỉnh nhưng đây cũng là dấu
hệu tích cực cho thấy án lệ được sử dụng trong công tác xét xử.
Một sự cố gắng của ngành toà án trong việc bước đầu hình
thành án lệ ở Việt Nam.
Bài tiểu luận của chúng em về nguồn luật hệ thống pháp
luật Anh và Mỹ tập trung chủ yếu vào án lệ dưới góc độ so sánh
còn nhiều thiếu sót, chúng em mong nhận được sự góp ý để bài
tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
19
Phụ lục
Chú thích
[1]Stefanie
Lindquist
&
Frank
Cross,
Empirically
Testing
Dworkin’s Chain Novel Theory: Studying the Path of Precedent.
[2] Stefanie Lindquist & Frank Cross, tlđd.
[3] Earl Maltz, The Nature of Precedents, 66 N.C.L.Rev. 367,
1988, p.371.
[4] David R., tlđd.
Tài liệu tham khảo
20
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Michael Bogdan, Luật so sánh (bản tiếng Việt), Nxb. Kluwer,
Norsredts Juridik, Tano, 2002.
3. Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại,
Rene David, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
4. Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Michel Fromont,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
5. />6. vnclp.gov.vn/ct/cms/Lists/ThongTinThamKhao/
21
22