THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Lời nói đầu
Thị trường chứng khoán có vai trò vô cùng quan trọng đối với kinh tế của một nước. Có thể
kể ra những vai trò chính như:
Thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả hơn đối với cả
người có tiền đầu tư và người vay tiền để đầu tư.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa,
cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước ngoài.
Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm đối với các hoạt động kinh tế, là thước đo hiệu
quả các hoạt động kinh tế. Chỉ số chung của thị trường chứng khoán phản ánh mức
tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái
phiếu từ đó ngân hàng có thể điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn
cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng
tiền.
Tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp vì thị trường chứng khoán tạo điều
kiện cho việc chuyên môn hóa, giúp kết hợp người có vốn nhưng không có năng lực
quản lý với người có năng lực quản lý nhưng không có vốn.
Từ những nội dung trên đây cho thấy thị trường chứng khoán ngày càng phát huy vai trò
trọng yếu trong nền kinh tế, ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Vì vậy, nghiên cứu
về thị trường chứng khoán là việc vô cùng cần thiết. Bài tiểu luận này xin được trình bày lại lịch
sử thị trường chứng khoán Việt Nam. Hy vọng đây sẽ là một tài liệu bổ ích cho mọi người. Bài
gồm 2 phần, phần 1 là hoàn cảnh ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam, phần 2 cũng là phần
chính là “nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam”. Với một lượng lớn thông tin tìm kiếm và
cần cô động, bài tiểu luận chắc chắn sẽ có những sai sót. Mong thầy thông cảm và đóng góp ý
kiến!
Phần 1: Hoàn cảnh ra đời
Ngày 6 tháng 11 năm 1993, thành lập ban nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn
thuộc ngân hàng nhà nước Việt Namư (quyết định số 207/qđ-tccb ngày 6/11/1993 của thống đốc
ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để
thành lập thị trường chứng khoán theo bước đi thích hợp.
Tháng 9 năm 1994, chính phủ thành lập ban soạn thảo pháp lệnh về chứng khoán và thị
trường chứng khoán do thứ trưởng bộ tài chính làm trưởng ban, với các thành viên là phó thống
đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam lê văn châu , thứ trưởng bộ tư pháp.
Ngày 29 tháng 6 năm 1995, thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 361/qđ-ttg thành lập
ban chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán giúp thủ tướng chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều
kiện cần thiết cho việc xây dựng thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Ban chuẩn bị tổ chức thị
trường chứng khoán có nhiệm vụ:
Soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
Soạn thảo nghị định của chính phủ về thành lập Ủy ban chứng khoán nhà nước;
Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, quản lý thị trường, kinh doanh về
chứng khoán;
Hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế trong việc tổ chức thị trường chứng khoán ở Việt
Nam;
Ủy ban chứng khoán nhà nước được thành lập ngày 28 tháng 11 năm 1996 theo nghị định
75/cổ phiếu của chính phủ Việt Nam, ban đầu đây là một Ủy ban thuộc điều hành của chính phủ.
Ngày 11-7-1998 chính phủ đã ký nghị định số 48/cổ phiếu ban hành về chứng khoán và thị
trường chứng khoán chính thức khai sinh cho thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Đồng
thời, chính phủ cũng ký quyết định thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán đặt tại thành phố
Hồ Chí Minh và hà nội.
Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động thực
hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ chỉ có hai doanh
nghiệp niêm yết cổ phiếu (REE và SAM). “ công ty cổ phần điện lạnh và công ty cổ phần cáp và
điện lạnh viễn thông”. Với số vốn 270 tỷ đồng được niêm yết giao dịch.
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác
với trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (vốn là nơi niêm yết và giao dịch
chứng khoán của các công ty lớn), ttgdchứng khoán hà nội sẽ là “sân chơi” cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Phần 2: Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam
Từ ngày khai trương đến cuối tháng 6-2001 là thời kỳ khủng hoảng thiếu, cầu vượt cung
hàng chục lần, giá cổ phiếu tăng liên tục và kịch trần. Thị trường cực nóng. Chỉ số lndex Việt
Nam từ 100 điểm ngày giao dịch đầu tiên, sau 11 tháng lên 571 điểm.
Năm 2001: chỉ số vn index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong
vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị,
chỉ số vn index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào
tháng 10/2001. Từ cuối tháng 6-2001 đến đầu tháng 10-2001 giá chứng khoán giảm liên tục. Sau
ba tháng chỉ số lndex Việt Nam tụt xuống gần 200 điểm. Thị trường cực lạnh. Trong 4 tháng này,
trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời nguyền không bao giờ quay lại thì
một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận.
Trên 80% người đầu tư thất bại. Giá chứng khoán bắt đầu giảm từ phiên giao dịch ngày 22-62001, một số nhà đầu tư cho rằng cơ quan quản lý thị trường đang tìm cách kéo giá cổ phiếu
xuống và họ làm một "cuộc marathon" bán chứng khoán.
Năm 2001 2004: thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001.
Trong 5 năm đầu tiên dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của
đông đảo quần chúng và diến biến của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có ảnh
hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của người dân.
Ta có thể nhận định rõ ràng được điều đó thông qua bảng số liệu sau:
Năm
Số công ty niêm
yết
2000
2001
2002
2003
2004
2005
5
5
20
22
26
32
0.28
0.34
0.48
0.39
0.64
1.12
3
8
9
11
13
14
2908
8774
13520
15735
21616
31315
Mức vốn hóa thị
trường cổ phiếu
(%GDP)
Số lượng công ty
chứng khoán
Số tài khoản khác
Năm 2005: thị trường chứng khoán bắt đầu phục hồi.
Ngày 8/3/2005 trung tâm giao dịch chứng khoán hà nội chính thức đi vào hoạt động. Giai
đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng
từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường
chứng khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu
so với GDP của cả nước đạt gần 1%.
Năm 2006 : sự phát triển đột phá của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho
thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động
tại cả 3 “sàn”: sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm giao dịch hà nội và thị trường
OTC
Sự kiện Vinamilk niêm yết vào tháng 2, đánh dấu một bước quan trọng mở đầu giai đoạn
tham gia của các công ty lớn, làm ăn có lãi và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt
Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-Ba-Buê. Và sự
bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
Giới đầu tư nước ngoài đang ngày càng quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Đầu tháng 2, ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới Merrill Lynch đã đánh giá cơ hội đầu tư vào
chứng khoán Việt Nam rất cao; so sánh tốc độ tăng trưởng 33% của VN-Index từ cuối năm 2004
với mức 25% chỉ số châu Á-Thái Bình Dương của Morgan Stanley (Morgan Stanley capital
international Asia - Pacific index). Theo Merril Lynch các nhà đầu tư nên dành 3% danh mục
đầu tư vào châu á cho chứng khoán Việt Nam.
Với đánh giá tích cực này, có thể kỳ vọng một làn sóng đầu tư gián tiếp từ Mỹ và châu Âu
vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm. Hiện nay, ngoài Merrill Lynch vừa ký thỏa
thuận mở tài khoản đầu tư ở một công ty chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh, đại diện của
các quỹ đầu tư tầm cỡ khác như Morgan Stanley, Goldman Sachs, IP Morgan Chase đã nhiều lần
tới Việt Nam để thu thập thông tin và khảo sát thị trường.
Thông điệp của Merrill Lynch được đăng tải rộng rãi trên báo chí trong nước, tạo hiệu ứng
đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước mua các cổ phiếu có chất lượng nhằm đón đầu làn
sóng đầu tư đến từ bên ngoài.
Không thể phủ nhận năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này đã có “màn
trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15
lần trong vòng 1 năm.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài
khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng
một năm, chỉ số vn-index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối
2006.
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt
13,8 tỉ usd (chiếm 22,7% gdp) đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày
càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được
mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của vn-index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với hastc-index là
nỗ lực chạm mốc 260 điểm.
Tính chung, so với đầu năm, chỉ số vn-index đã có mức tăng trưởng tới 146% và hastcindex tăng tới 170% thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, trung tâm giao dịch chứng khoán tp.hcm đã có sự góp mặt
của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là
trên 72 nghìn tỷ đồng.
Còn tại trung tâm giao dịch chứng khoán hà nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên
đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ
đồng.
Xét riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt Nam
với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương đương với 13,8 tỷ usd.
Năm 2007: giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển
và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của
các tổ chức niêm yết được tăng cường.
• giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007:
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến index của cả 2 sàn giao dịch đều
lập kỷ lục: chỉ số VN-Index đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và HASTC Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị
trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng
giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị trường trong giai
đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn hóa 492.900 tỷ đồng của cả
năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần
gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà
do yếu tố giá cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các cổ phiếu
từ blue – chip, penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng
trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng
trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),… rất nhiều mã cổ phiếu
thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/cổ phiếu), FPT
(665.000 đ/cổ phiếu), DHG (394.000đ/cổ phiếu), REE (285.000đ/cổ phiếu), SSI (255.000đ/cổ
phiếu), SAM (250.000đ/cổ phiếu), KDC (246.000đ/cổ phiếu), VNM (212.000đ/cổ phiếu), ACB
(292.000đ/cổ phiếu)…
• giai đoạn thị trường điều chỉnh từ tháng 4/2007 đến đầu tháng 9/2007:
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước cũng như chính
phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban
hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều
này, thị trường chứng khoán đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị
trường đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả các
yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. Ngày 24/04/2007 VN-Index chỉ trong vòng 1
tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm, giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3,
còn HASTC - Index trở về mốc 321,44 điểm, giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trường đã mất
điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở về gần mức
giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối tháng 5/2007
khi VN-Index quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng do tác động tâm lý quá mạnh
của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như chỉ thị 03, luật thuế thu nhập cá nhân,…, thị
trường nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn
đầu tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VN-Index (6/8/2007) và 247,37 điểm
của HASTC - Index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu tháng 8), sàn hcm có những phiên giao
dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày 30/07/2007 chỉ có 3.296.340cổ phiếu
được giao dịch), sàn Hà Nội cũng chỉ có vẻn vẹn 600.000 cổ phiếu được chuyển nhượng thành
công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100 cổ phiếu).
Giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối
này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối nhà đầu tư
nước ngoài trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu
năm.
• giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm:
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu tháng 9 đến
cuối tháng 10/2007. Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các
mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm
như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ phiếu sông đà: S99, SDA, S91…. Tại HASTC.
Lượng giao dịch bình quân phiên tại HOSE luôn ở trên mức 10 triệu cổ phiếu (phiên giao dịch
kỷ lục đạt 19.047.000 cổ phiếu vào ngày 01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch
bằng 1/2 sàn HOSE với trung bình phiên có 5 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng.
Tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh
thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VN-Index đã có những phiên giao dịch vượt lên trên
ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007), HASTC – Index cũng gần chạm trở lại
ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007). Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh
chóng điều chỉnh giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng
có các đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục hồi này
không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều
này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn. Trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì
nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng
tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch. Vn-Index giảm xuống dưỡi
ngưỡng điểm 1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất
hạn chế.
Năm 2008: thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh.
• giai đoạn 1: từ tháng 1 tới tháng 6 - thị trường giảm mạnh.
Nguyên nhân là do tác động từ tác động của kinh tế vĩ mô, nổi bật là sự gia tăng lạm phát,
chính sách thắt chặt tiền tệ của nhnn, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía
ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là nhóm cổ phiếu tài
chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp bất động sản).
Trong lịch sử hoạt động của thị trường chứng khoán, chưa có năm nào Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng
cộng trong năm 2008, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã có 4 lần thay đổi biên độ dao động giá
trên cả 2 sàn chứng khoán.
• giai đoạn 2: tháng 6 tới đầu tháng 9 - phục hồi trong ngắn hạn.
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và đặc biệt là SSI
với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí (tăng
80,33%), nguyên vật liệu và công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu
n ày bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• giai đoạn 3: từ tháng 9 tới tháng 12 - thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác động của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế
giới.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu,
công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này được
nhận định một phần do sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc
tăng khá chóng mặt của các các cổ phiếu này trong giai đoạn trước đó. Một trong những đề tài
nóng hổi và được báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền
mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua
việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các
ngân hàng thương mại.
Năm 2009:
Quý 1 năm 2009: thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường tăng trưởng tệ nhất châu Á
tính từ đầu năm 2009 đến nay. Bất ngờ, sáng (11/3) thị trường chứng khoán tập trung của Việt
Nam trở nên rất sôi động, mở đầu cho một loạt các phiên tăng điểm của thị trường chứng khoán.
Các nhà đầu tư đã chứng kiến một tháng 3 tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11/2008. VNIndex không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh trong hai tuần
cuối tháng, mức tăng kỷ lục trong nửa năm qua. Kết thúc tháng 3, VN-Index đã tăng lên 280,67
điểm, tăng 14%. Chỉ số HASTC tăng 17% lên 98,37.
Ngày 6/5/2009, HOSE đón phiên giao dịch “hàng nghìn tỷ”, nguồn tiền đổ mạnh chưa từng
có.
21 tháng 5 2009: VN-Index vượt mốc 400 điểm sau 7 tháng xa cách, dòng tiền ồ ạt vào sàn
đẩy kết quả chung gần chạm mức 2.000 tỷ đồng.
Ngày 24-6-2009, thị trường UPCOM - sàn giao dịch cổ phiếu của các công ty đại chúng
chưa niêm yết sẽ chính thức đi vào hoạt động.đồng thời đổi tên HASTC-Index thành HNXIndex.
Chính sách thắt chặt tín dụng đã được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009. Những
chính sách này đã khiến dòng tiền cho nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng
gặp hạn chế, do đó khiến VN-Index điều chỉnh giảm rất mạnh vào cuối năm 2009. Những bất ổn
kinh tế từ khu vực châu Âu vẫn đang hiện diện và tác động tiêu cực của nó.
Năm 2010: thị trường chứng khoán ảm đạm.
Điểm đặc trưng trong năm là nhiều ngân hàng nhỏ gặp áp lực tăng vốn.
Từ tháng 1 đến tháng 4, dòng tiền nóng đổ vào nhóm cổ phiếu nhỏ tạo thành bong bóng
chứng khoán. Khủng hoảng nợ châu âu khiến bong bóng vỡ, các cổ phiếu penny-chips rớt giá.
Trong 5 tháng đầu năm, thị trường niêm yết có những biến động khá thất thường nhưng chỉ
số VN-Index hầu như chỉ dao động quanh mức 500 điểm do chính sách điều hành của chính phủ
với mục tiêu hàng đầu là giữ ổn định vĩ mô. Chính sách vĩ mô đã dần được nới lỏng, tạo thông
thoáng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi nỗi lo lạm phát đã dần lắng xuống, VN-Index từ
mức 471 điểm lên mức 550 điểm trong giai đoạn từ cuối tháng 1/2010 tới đầu tháng 5/2010.
Từ tháng 5 đến tháng 11, bùng phát khủng hoảng nợ châu âu, nhà đầu tư chạy theo cổ phiếu
nhỏ khiến công ty phải bán chứng khoán khi thị trg giảm điểm khiến cho thị trg sụt giảm mạnh
hơn (giảm 23,9% trong gần 7 tháng).
Thông tư 13 về tỷ lệ an toàn của nhtm dc ban hành, sức ép thoái vốn từ cổ đông của các quỹ
đầu tư lâu năm và xu hướng đổ vào ttrg vàng khiến dòng tiền thị trường thêm eo hẹp.
Nhà đầu tư nước ngoài gia tăng mua BHV, VIC, MSN nhưng các cổ phiếu còn lại đều giảm
nên VN-Index chỉ dao động quanh 440-470, còn HNX-Index giảm xuống mức thấp nhất trong
năm tại 96,77 điểm.
Tuy nhiên, cuối năm 2010, thị trường cho thấy sự hồi phục mạnh.
Nhìn chung, xu hướng thị trường thế giới tuy phức tạp nhưng đa số đều tăng điểm khiến thị
trường Việt Nam rẻ tương đối so với thế giới.
Phần lớn cổ phiếu lui về mức giá hấp dẫn cho môi trường đầu tư trung, dài hạn cùng với sự
trở lại của dòng tiền đầu cơ ngắn hạn và hiện tượng mua lại của những người bán khống giúp thị
trường bứt phá mạnh mẽ.
Đóng cửa phiên giao dịch ngày 31/12/2010, chỉ số VN-Index của sàn thành phố Hồ Chí
Minh chốt ở mức 484.66 điểm, giảm 10.14 điểm, tương đương giảm 2%, hnx-index chốt ở mức
114.24 điểm, giảm 53.93 điểm, tương đương mức giảm 32% so với thời điểm đầu năm 2010.
Năm 2011:
Nhận định: chỉ số p/e khá thấp do thị trường suy yếu trong năm 2010 nên chứng khoán Việt
Nam đã khá rẻ và hấp dẫn. Nhìn chung, thị trường chứng khoán Việt Nam có diễn biến xấu nhất
so với các thị trường khác trong khu vực. Trong suốt năm 2010, nhà đầu tư luôn lưỡng lự giữa
hai trạng thái lạc quan về định hướng chính sách của chính phủ và quan ngại về nền kinh tế nói
chung, thị trường chứng khoán nói riêng.
Thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 ở tình trạng khó khăn nhất trong vòng
5 năm trở lại đây, kéo theo đó là sự xuất hiện nhiều hành vi vi phạm với diễn biến phức tạp. Uỷ
ban Chứng khoán đã ban hành 86 quyết định xử phạt đối với trường hợp vi phạm về chế độ báo
cáo và công bố thông tin. Tổng số tiền nộp phạt vào ngân sách nhà nước là 4,7 tỷ đồng. Trong
năm 2011, Uỷ ban Chứng khoán cũng đã quyết định xử phạt nặng đối với hành vi thao túng giá
cổ phiếu AAA của công ty cổ phần nhựa và môi trường xanh an phát với mức phạt cho 4 cá nhân
vi phạm với số tiền lên đến 1,2 tỷ đồng.
Thị trường đi xuống dẫn đến hệ quả là thanh khoản sụt giảm, thị giá nhiều cổ phiếu xuống
rất thấp. Không ít cổ phiếu đã mất 80-90% giá trị so với đầu năm. Cá biệt cổ phiếu VKP của
nhựa tân hóa có lúc đã xuống còn 600 đồng/cổ phiếu. Việc các cổ phiếu trên có mức giá quá
“bèo” như vậy là điều hoàn toàn có thể hiểu khi khá nhiều cổ phiếu đã rơi vào tình trạng cảnh
báo, thậm chí bị ngừng giao dịch do làm ăn thua lỗ. Điều này làm xuất hiện trào lưu hủy niêm
yết như công ty cổ phần xây dựng công nghiệp – Descon ( DCC) bị sở giao dịch thành phố Hồ
Chí Minh buộc hủy niêm yết do vi phạm công bố thông tin. Nhiều cổ phiếu khác cũng đã hoặc
đang có động thái hủy niêm yết như MKP, IFS, SGT, SQC, V11, S27, tri và mới nhất là ORS…
DVD đã chia tay sàn chứng khoán vào ngày 1/9 tại mức giá 3.500 đồng, chỉ bằng một phần lẻ so
với thời kỳ đỉnh cao. Ngân hàng ANZ đã yêu cầu mở thủ tục phá sản với doanh nghiệp này và
đến cuối tháng 9 thì DVD đã chấm dứt hoạt động.
Nhìn chung, cả hai sàn đều giao dịch ở mức điểm gần như thấp nhất trong lịch sử nếu tính
theo thị giá/giá trị sổ sách (price-to-book), có tới gần 80% số cổ phiếu giao dịch dưới mức giá trị
sổ sách.
Ngày 24/2, tại hà nội, Ủy ban chứng khoán nhà nước tổ chức hội nghị triển khai nhiệm vụ
phát triển thị trường chứng khoán năm 2011, đưa ra kế hoạch sẽ tập trung triển khai từng bước
công tác tái cấu trúc thị trường chứng khoán thông qua việc hoàn thiện hệ thống ở cả thị trường
niêm yết, thị trường chưa niêm yết, thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt, bắt đầu cho việc
tái cấu trúc thị trường chứng khoán. Ngày 1/4, thông tư 226 về việc giám sát an toàn tài chính
cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đã được bộ tài chính ban hành và bắt đầu có hiệu
lực. Theo đó, những trường hợp không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính (tính theo tỷ lệ vốn khả
dụng) sẽ bị cơ quan quản lý đưa vào tình trạng kiểm soát hoặc kiểm soát đặc biệt. Ngày 1/6,
thông tư 74 được ban hành, cho phép giao dịch kỹ quỹ, nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản, giao
dịch cổ phiếu trong cùng phiên. Ngày 1/12, bộ tài chính ban hành quyết định số 2904 phê duyệt
phương án thí điểm hoán đổi trái phiếu chính phủ.
Mặc dù thị trường không thuận lợi nhưng một loạt tổng công ty nhà nước đã thực hiện đấu
giá cổ phần lần đầu ra công chúng như tổng công ty thép (Vnsteel), tổng công cty xăng dầu
(Petrolimex), tổng công ty miền trung (Cosevco) và 2 ngân hàng BIDV và MHB.
Những ngày cuối cùng của năm 2011, thị trường chứng khoán chứng kiến mức đáy sâu nhất
trong lịch sử của HNX-Index tại mức 56 điểm (27/12) và giảm 50% so với mức đỉnh trong năm
và VN-Index cũng chính thức ghi nhận mức đáy 347 điểm (27/12) và giảm 34% so với mức đỉnh
trong năm.
Kết thúc phiên giao dịch khép lại năm 2011, thị trường bất ngờ khởi sắc với việc VN-Index
tăng 1,04 điểm (+0,30%), đóng cửa tại mốc 351 điểm. Chỉ số HNX-Index tăng mạnh 1,13 điểm,
(+1,96%) chốt tại mốc 58,74 điểm. VN-Index khép lại năm 2011 ở mốc 351,55 điểm, giảm
27,46%, HNX-Index đóng cửa ở mốc 58,74 điểm, giảm 48,6%, xuống mức thấp nhất trong lịch
sử.
Tuy nhiên, theo số liệu mà Bloomberg đưa ra, chứng khoán ở Việt Nam đang vào hàng rẻ
nhất trong số các thị trường sơ khai nằm trong xếp hạng. P/e của Việt Nam tính đế ngày
31/12/2011 là 7,19 lần, chỉ cao hơn mức 6,72 lần của romania và 4,21 lần của croatia trong số 15
nước thuộc xếp hạng. vì vậy, có thể hy vọng sang năm mới thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ
thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài và phục hồi.
Đầu năm 2012:
Một trong những điều được quan tâm nhiều nhất trong năm 2012 là việc tái cấu trúc thị
trường chứng khoán. Trên cơ sở thông tư 226/2010/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2010 của bộ
tài chính, phân nhóm các công ty chứng khoán theo mức độ rủi ro giảm dần dựa trên 2 chỉ tiêu
sau: vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động)
và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Cụ thể:
-
Nhóm 1-nhóm bình thường: nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn
khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% vốn điều lệ.
-
Nhóm 2-nhóm kiểm soát: nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn
khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% vốn
điều lệ.
-
Nhóm 3-nhóm kiểm soát đặc biệt: nhóm này bao gồm các công ty chứng khoán có tỷ
lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% vốn điều lệ.
Điều được quan tâm thứ 2 trong những tháng đầu năm 2012 là việc ban hành chỉ số VN-30
với mục đích khắc phục những hạn chế của chỉ số VN-Index hiện tại, tăng khả năng dịch vụ và
cung cấp thông tin thị trường của HOSE, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường, tạo nên sự
đồng bộ với các thông lệ quốc tế, đồng thời nâng HOSE lên ngang tầm với các sở giao dịch
chứng khoáng trong khu vực và trên thế giới và tạo tiêu chuẩn cho các quỹ đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam. Tiêu chuẩn sàng lọc để chọn cổ phiếu đưa vào rổ VN-30 là giá trị vốn
hóa, free-loat trên 5% và thanh khoản. Sau quá trình sàng lọc trên, top 40 cổ phiếu có giá trị giao
dịch cao nhất theo thứ tự xếp hạng từ trên xuống sẽ được chọn, gồm top 30 cổ phiếu sẽ được đưa
vào danh mục chính thức của rổ chỉ số và 10 cổ phiếu tiếp theo sẽ được đưa vào danh mục cổ
phiếu dự phòng, được sử dụng trong trường hợp có một hay nhiều cấu phần bị loại bỏ khỏi rổ chỉ
số vào giữa kỳ xem xét.
Đơn vị: ngàn VNĐ
10 cổ phiếu dự
phòng VN-30
30 cổ phiếu chính thức thuộc VN-30
Cổ phiếu
VIC
MSN
VNM
BVH
FPT
PNJ
PVD
KDC
DPM
VCB
Gía đóng
cửa 30-1
108
106
85
52,5
50
38,8
36,5
29,5
27,3
24,2
Cổ phiếu
CTG
SJS
HVG
CII
HAG
KDH
STB
GMD
HPG
SSI
Gía đóng
cửa 30-1
23,7
23,7
23,3
22,5
20,7
19,4
18,5
18,3
16,8
15
Cổ phiếu
EIB
QCG
REE
SBT
DIG
IJC
VSH
OGC
PVF
ITA
Gía đóng
cửa 30-1
14,5
13,3
12,8
12,3
11,6
8,6
8,2
7,8
7,6
7
Cổ phiếu
VCF
DHG
DPR
PDR
HCM
BCI
NTL
KBC
PPC
PVT
Gía đóng
cửa 30-1
97
59,5
51,5
16,5
15,3
14,5
12,9
12,1
7,4
3,5
Những ngày đầu năm 2012, các mã bluechip liên tục bị bán tháo, khiến chỉ số VN-Index sau
một thời gian giao dịch lình xình đã chuyển sang trạng thái suy giảm mạnh. Tuy nhiên, thị
trường được sự hỗ trợ rất lớn từ lực mua mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài, tập trung vào các
mã bluechips trong rổ tính VN-30. Nhìn chung, tâm lý nhà đầu tư được cải thiện nhiều do chỉ số
cổ phiếu tháng 2 tăng thấp hơn mong đợi và khả năng giảm lãi suất trong thời gian tới (chính
thức giảm lãi suất từ ngày 13-3). Vì vậy, đầu năm 2012, thị trường chứng khoán xét tổng quan đã
phục hồi mạnh.
Kết luận
Thị trường chứng khoán Việt Nam, hơn 10 năm hoạt động, đã trải qua nhiều “thăng trầm”.
Vì còn non trẻ nên tính chuyên nghiệp của thị trường chứng khoán Việt Nam chưa cao và tâm lý
của nhà đầu tư còn có xu hướng “theo đám đông”. Hy vọng rằng, với sự cải cách từ phía những
người điều hành, sự phát triển của các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ phát
huy hết vai trò của một thị trường chứng khoán và đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế nước
ta.