Tải bản đầy đủ (.pptx) (10 trang)

Tìm hiểu về vùng văn hóa Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.82 KB, 10 trang )

Tìm hiểu về vùng văn hóa Nam Bộ

Thành viên nhóm: Phạm Thúy An, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Thị Tuyết, Bùi Quang Vinh, Tô Xuân Tùng


1. Điều kiện tự nhiên và lịch sử hình thành
1.1. Điều kiện tự nhiên
Nam Bộ ngày nay được chia ra làm hai
cụm tỉnh. Cụm tỉnh Đông Nam Bộ và cụm
tỉnh Tây Nam Bộ.
Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh Đồng Nai,
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh .
Tây Nam Bộ bao gồm các tỉnh còn lại, đó
là Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang,
Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Phần đất được coi là Đông Nam Bộ có
diện tích khoảng 26000km2 bao gồm phần
đồi núi thấp và phần thềm phù sa cổ thuộc
lưu vực sông Đồng Nai
Phần Tây Nam Bộ có diện tích khoảng hơn
40000km2 . Chủ yếu là đồng bằng Sông Cửu
Long, cũng có một vài dãy núi thấp ở miền
Tây An Giang, Kiên Giang


1.2.Lịch sử hình thành


2. Đặc điểm xã hội Nam Bộ
Tiến trình lịch sử của Nam Bộ có phần đặc biệt. Nó không liên tục như các


vùng văn hóa khác mà bị đứt gãy. Sau khi nền văn hóa Óc Eo biến mất vào thế
kỉ thứ VI thì nơi đây trở thành một vùng hoang vu, hiểm trở.
Chính vì sự hoang sơ đó mà cọp và sấu xuất hiện nhiều. Sự xuất hiện của
chúng đã trở thành nỗi khiếp sợ của cư dân đồng bằng Nam Bộ thời đấy.
Tại các vùng ven đồng bằng ở khu vực Đông Nam Bộ, phần cuối của dãy
Trường Sơn đổ về phía Nam, những tộc người như Mạ, Xtiêng, Chơro, Mnông
cư trú ở các vùng đồi ở đây là cư dân bản địa.
Vậy qua các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa, Mạ, Xtiêng, Chơro, Mnông
chúng ta có thể thấy một số khía cạnh thông qua diện mạo tộc người ở đây:
+) Các dân tộc Chăm, Hoa, Khơme, Việt đều là dân đi khai đất mới
+) Tuy sống trên cùng một địa bàn cư trú nhưng các dân tộc lại sống với
nhau một cách hòa hợp, thân ái
+) Tộc người chủ thể có vai trò quyết định sự phát triển của vùng đất là
người Việt


Ngoài ra Nam Bộ còn là vùng
đất nằm ở phía cuối của đất
nước, nằm gọn trong khu vực
hạ lưu của hai con sông Đồng
Nai và Cửu Long. Nam Bộ còn
giáp với biển Đông. Tất cả
những điều trên đã giúp Nam
Bộ tạo nên nét văn hóa riêng
Khác với khu vực Bắc Bộ, ở
Nam Bộ chỉ có hai mùa mưa và
mùa khô khác nhau rõ rệt. Mùa
khô có sáu tháng và mùa mưa
cũng có 6 tháng. Điều này khiến
mùa vụ của Nam Bộ có phần

khác biệt với mùa vụ của Bắc Bộ

Nam Bộ vào mùa mưa có lượng mưa rất lớn
hay gây ngập lụt

Mùa khô thì lại rất nóng, những năm gần đây gây
hạn hán nặng


Ngoài ra những cánh đồng rộng tít tắp và những kênh rạch chằng chịt, to
lớn cũng đã góp phần tạo lên một nét riêng cho Nam Bộ ngày nay.

Một nhánh kênh, rạch ở Cần Thơ năm 1961

Cánh đồng lúa vùng Đồng Tháp


Khi xét về mối quan hệ xã hội, chúng ta có thể thấy làng Việt Nam Bộ
có những nét khác biệt khi so sánh với làng Việt Bắc Bộ:
+) Làng Việt Nam Bộ có tuổi đời còn ngắn (400 năm)
+) Làng Việt Bắc Bộ có nguồn gốc từ các công xã nông thôn còn
làng Việt Nam Bộ lại là làng khai phá
+) Làng Việt Nam Bộ không có tính chất kết dính chặt chẽ như
làng Việt Bắc Bộ do dân cư từ nhiều nơi tập
hợp lại
+) Thay vì thành các đơn vị biệt lập được bao quanh bởi lũy tre
thì làng Việt Nam Bộ cư trú theo tuyến, theo kiểu tỏa tia dọc theo kênh
rạch
Có một sự phân cực rất cao trong quan hệ sở hữu ruộng đất. Tỉ lệ
chênh lệch giữa những người trong tay có nhiều ruộng đất với người

trong tay ít ruộng đất khá là lớn


3. Đặc trưng về văn hóa nổi bật
3.1. Đặc trưng thứ nhất:
Nói đến văn hóa Nam Bộ là nói đến văn hóa của những tộc người sống ở nơi đây. Trừ dân tộc
sống ở ven đồng bằng miền Đông, các cư dân còn lại không phải là cư dân bản địa tại Nam Bộ. Vì
vậy văn hóa của họ là văn hóa của vùng đất mới. Vậy nên văn hóa ở đây vừa có nét giống vừa có
nét khác so với văn hóa của vùng đất cũ
3.2. Đặc điểm thứ hai:
Quá trình giao lưu văn hóa diễn ra tốc độ mau lẹ. Trong khoảng thời gian 300 năm, một khoảng
thời gian rất ngắn nhưng Nam Bộ đã khẳng định được những đặc trưng của vùng đất mình. Để có
thể xảy ra sự tiếp biến mau lẹ này là nhờ những nhân tố tạo ra và quá trình tiếp biến văn hóa
3.3. Đặc điểm thứ ba:
Nam Bộ còn là một vùng đất mà nhiều tín ngưỡng, tôn giáo đan xen cùng tồn tại. Ngoài một số
các tôn giáo du nhập thì đây còn là quê hương của những tôn giáo như Cao đài, Hòa hảo,… Bản
thân tôn giáo cũng khá đa dạng như Phật giáo nhưng lại được chia thành Phật giáo Tiểu thừa và
Phật giáo Đại thừa.
Tuy các tôn giáo có nguồn cội là từ đồng bằng Bắc Bộ nhưng do điều kiện tự nhiên lịch sử của
vùng đất mới đã khiến chúng có những nét riêng biệt
Còn một điều đáng lưu ý đó là sự ra đời của các phong trào tôn giáo cứu thế gắn liền với phong
trào nổi dậy của người dân trong vùng chống phong kiến và đế quốc. Điều này nói lên khát vọng
của nhân dân muốn chống lại sự áp bức bóc lột. Chính điều này tạo nên đặc điểm thứ ba của
vùng văn hóa Nam Bộ


3.4. Đặc điểm thứ tư:
Cách ứng xử đối với thiên nhiên của con người Nam Bộ khác hoàn toàn với vùng Bắc Bộ. Dù có
rất nhiều kênh đào, có hai con sông lớn nhưng họ không hề xây bất kì một đoạn đê nào. Họ sống
chung với lũ, xây nhà bè nổi trên sông. Dựa vào sức của thủy chiều, hệ thống thủy lợi của Nam Bộ

đưa nước ngọt từ sông lớn vào sông nhỏ rồi lại vào kênh rạch và lên mương, lên vườn. Điều này
chứng tỏ cách ứng xử hoàn toàn trái ngược nhau giữa hai miền Bắc và Nam.
3.5. Đặc điểm thứ năm:
Cơ cấu thức ăn ở đây chú trọng chủ yếu về thủy sản, khác với Bắc Bộ là Cơm-Rau-Cá . Lượng thủy
sản ở đây đạt tới sự sung túc, phong phú hơn nhiều so với các vùng miền khác. Chính vì vậy đạm
thủy sản được sử dụng và chú trọng nhiều hơn. Việc sử dụng thủy sản làm thức ăn được người Nam
Bộ dùng nhiều hơn người miền Bắc.
Ngoài ra thiên hướng trong cơ cấu bữa ăn của người Việt đó là giải nhiệt. Chính vì thế quả dừa
đóng một vị trí quan trọng trong đời sống của họ. Các món ăn và các sản phẩm về dừa rất được ưa
chuộng. Chính vì để giải nhiệt lên người Nam Bộ uống trà chỉ để giải khát chứ không phải để thưởng
thức trà
3.6. Đặc điểm thứ sáu:
Dòng văn hóa bác học là dòng văn hóa không thể không nhắc đến ở nơi đây, đặc biệt là của người
Việt ở nơi đây. Đội ngũ trí thức Nho học đã xuất hiện ở Nam Bộ. Một số văn đàn, thi xã được lập ra.
Nửa sau thế kỉ XIX, các tác phẩm của những tác giả Nam Bộ đã góp phần kháng chiến chống thực
dân Pháp. Sau khi chiếm được Nam Kì, thực dân Pháp đã bãi bỏ Nho học. Sự xuât hiện của chữ Quốc
ngữ đã thay thế chữ Nôm, trở thành công cụ chuyền tải văn hóa ở Nam Bộ. Việc dùng chữ Quốc ngữ
để viết báo cũng góp phần đẩy nhanh sự phát triển của chữ Quốc ngữ.


Cảm ơn thầy cô và các bạn đã
lắng nghe.



×