Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

đường lối, tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.24 KB, 25 trang )

Mục lục
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................1
KIẾN THỨC CƠ BẢN...................................................................................................................2
1.KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA-HIỆN ĐẠI HÓA............................................................2
2.DỰA VÀO HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI.................................................2
3.DỰA VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM......................................................................................6
3.1.TÌNH TRẠNG VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1960:............................................................6
3.2.VIỆT NAM THỜI KÌ SAU NĂM 1960.............................................................................9
KIẾN THỨC VẬN DỤNG...........................................................................................................16
1.CƠ HỘI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM.................................................................................17
2.THÁCH THỨC.......................................................................................................................18
KẾT LUẬN...................................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................23


MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay trên thế giới tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh và sôi động,các nước nhanh
chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế phát triển.Muốn vậy các nước
không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa.Do vậy
vấn đề công nghiệp hóa là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi người đều phải
quan tâm đến nó.
Việt Nam xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu,tự cung tự cấp lại do ảnh
hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ác liệt và lâu dài,do đó chúng ta
gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế.Công cuộc đổi mới của nước ta tiến hành
từ nắm 1986 đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,chính
trị,xã hội,tạo ra những tiền đề cơ bản cho công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước.Từ đó đến nay Đảng ta luôn xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của
thời kì quá độ.
Thực tế đã chứng minh rằng phát triển kinh tế là quy luật khách quan của tồn tại và
phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai đoạn nào,ở bất kì đất nước nào,không loại trừ


các nước giàu mạnh về kinh tế,suy đến cùng đều được bắt đầu và quyết định phát triển
kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phương thức sản xuất.Vấn đề khác nhau giữa các nước thì
ở mục tiêu,nội dung và cách thức phát triển,có sự khác nhau về tốc độ,hiệu quả.
Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất tương
ứng.Cơ sở vật chất kĩ thuật nhất định thường được hiểu là toàn bộ của lực lượng sản xuất
cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng.Cơ sở vật chất của một
xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu
sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ.
Hiện nay đất nước ta còn nghèo(thuộc nhóm thứ 3) thì việc công nghiệp hóa-hiện
đại hóa là con đường tất yếu.Từ Đại hội Đảng lần VI của Đảng xác định đây là thời kì
phát triển mới-thời kì “Đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” định hướng
phát triển nhằm mục tiêu “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
1


chất kĩ thuật hiện đại,cơ cấu kinh tế hợp lí,quan hệ sản xuất tiến bộ,phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất,đời sống tinh thần cao,quốc phòng an ninh vững
chắc,dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng văn minh”.
Vấn đề công nghiệp hóa-hiện đại hóa là một vấn đề rất rộng bao hàm nhiều mặt
nội dung.Trong khuôn khổ bài tiểu luận này chúng em xin trình bày vấn đề “Chứng minh
Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là con đường tất yếu đưa nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về quá trình tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta. Tại sao thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa , thực hiện bằng cách nào và
những thành quả đạt được khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu sau này
của Việt Nam khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những nội dung chính: Chứng minh Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là con đường tất yếu
đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại dựa vào học thuyết hình thái kinh tế xã hội và Chứng minh Công nghiệp hóa-hiện
đại hóa là con đường tất yếu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một

nước công nghiệp theo hướng hiện đại dựa vào thực tiễn Việt Nam.
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA-HIỆN ĐẠI HÓA
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghiệp phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học và
công nghiệp, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2.DỰA VÀO HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất cho xã hội trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Theo cách đó, con người có những quan hệ với tự nhiên
2


và quan hệ với nhau trong sản xuất; hay nói cách khác, phương thức sản xuất là sự thống
nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất
tương ứng.Hai mặt này được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật
chất, có sự tác động qua lại lẫn nhau, được C.Mác gọi là “quan hệ song trùng” của bản
thân sự sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản
xuất,. Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, công cụ lao
động đóng vai trò quan trọng nhất và là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công
cụ lao động là “khí quan của bộ óc con người”, “là sức mạnh tri thức đã được vật thể
hóa”, có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người.
Công cụ lao động là cái động nhất, cách mạng nhất của tư liệu lao đông. Chúng là những
vật được con người sử dụng để trực tiếp truyền tác động vào đối tượng lao động, sản xuất
ra của cải vật chất. Chúng luôn được cải tiến, đổi mới, có ý nghĩa quan trọng quyết định
năng suất lao động, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Vì thế,
C.Mác gọi công cụ lao động nhất là các máy móc cơ khí là " hệ thống xương cốt và bắp
thịt của sản xuất"

Nếu không có công cụ lao động sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất, sản xuất sẽ
diễn ra một cách chậm chạp, trì tuệ, hao phí nhiều thời gian và công sức, dẫn đến năng
xuất thấp, hiệu quả kém.
- Công cụ lao động: truyền dẫn lao động, trực tiếp làm tăng khả năng hoạt động của các
khí quan của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất làm cho con người phát
triển về mặt thể chất và trí tuệ, làm cho con người ngày càng phát triển và tiến bộ hơn.
- Công cụ lao động biến đổi nhanh chóng và rõ rệt so với hai bộ phận của tư liệu lao động
là những đồ dùng để chứa đựng, bảo quản đối tượng lao động, sản phẩm của lao động và
hệ thống cá yếu tố vạt chất phục vụ trực hoặc gián tiếp quá trình sản xuất.
- Công cụ lao đông là biểu hiện cụ thể và tập trung nhát của tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
những thành tựu của khoa học - kỹ thuật được thể hiện qua công cụ lao động. Cách mạng
khoa học kỹ thuật đã cãi tiến và thay thế dần các công cụ lao động thô sơ, cũ kỹ, lạc hậu
như: trong nông nghiệp, cái cày, cái cuốc, cái liềm được thay thế bằng máy cày ruộng,
3


máy cắt lúa,....
- Công cụ lao động là một trong những căn cứ quan trọng để phân biệt giữa các thời đại
kinh tế.
* Trình độ phát triển cảu công cụ lao động phản ánh trình độ nền sản xuất xã hội, là cơ
sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Quá trình phát triển của xã hội loài
người gắn liền và hoàn thiện tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động. Từ công cụ
sơ khai của người nguyên thủy đến công cụ sản xuất thủ công trong xã hội nô lệ, phong
kiến lên cơ khí hóa, tự động hóa sản xuất là những nấc thang trên con đường phát triển nề
văn minh nhân loại.
*Trình độ phát triển của công cụ lao động là dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời
đại sản xuất xã hội nhất định, C.Mác đã viết: " Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chõ chúng sản xuất bằng cách nào, với tư liệu
lao động nào"
Thời kì công xã nguyên thủy: Từ những hòn đá tự nhiên, người nguyên thủy chế tạo

thành những công cụ đơn giản, hết sức thô kệch, với những hình thù nhất định như ghè,
đẽo một mặt, một đầu cho sắt, nhọn, có thể cầm tay để chặt, cắt, đập, đâm,... Như rìu,
chùng, lao... Những công cụ thô sơ đầu tiên này được dùng vào rất nhiều việc, kể cả làm
việc và sửa chữa công cụ, tự vệ, chống thú dữ.
Qua một thời gian dài, nhờ sống tập thể, kinh nghiệm sản xuất tăng lên, người nguyên
thủy dần cải tiến và chuyên môn hóa các loại công cụ. Một loạt công cụ mới xã hội thích
ứng với nhu cầu từng công việc nhất định. Có cái dùng để lao, có cái dùng để đập, có cái
dùng để cắt xén, đào, nạo....
Từ thời đồ đá cũ, loài người dần dần bước sang thời đại đồ đá mới, đặc điểm của thời đại
này là công cụ chế tạo có kỹ thuật hơn, tinh vi hơn,... Con người đã áp dụng rộng rãi kỹ
thuật mài nhẵn đá, nhiều loại công cụ mới sắc bén ra đời như việc phát minh ra cung tên,
mũi tên bằng đá nhọn có thể được bắn ra xa và xuyên qua được con vật lớn, cung tên ra
đời thúc đẩy nghề săn bắn phát triển.
Cuối thời nguyên thủy, con người đã biết luyện đồng và đồng thau. Thời đại kim thuộc
bắt đầu tiếp theo con người còn biết luyện cả sắt. Những công cụ được chế tạo bằng
4


những thứ kim loại đó đã tạo ra sự tăng lên vượt bậc của năng suất lao động, kinh tế sản
xuất thay thế săn bắt hái lượm và chieems vị trí chủ đạo. Với chiếc cày bằng sắt do súc
vật kéo, con người có thể trồng trọt bên một quy mô lớn có thể khai hoang, mở rộng diện
tích do đó làm cho tư liệu sinh hoạt không ngừng tăng lên, ở thời kỳ nguyên thủy này
người nguyên thủy đã có bễ thổi lò, cối giã gạo, bàn quay làm đồ gốm.
Thời kì chiếm hữu nô lệ: Công cụ lao động trong thời đại chiếm hữu nô lệ được hoàn
thiện dần, người ta bắt đầu chế tạo và sử dụng những công cụ bằng kim loại, đầu tiên là
công cụ bằng đồng đỏ, đồng thau, rồi đến bằng sắt, ngoài những công cụ thông thường
như cày, liềm, rìu, xèng, cào....
Mặc dù công cụ lao động trên còn thô sơ và nặng nề nhưng đã tạo điều kiện để nâng
cao năng suất lao động hơn so với khi còn sử dụng những công cụ bằng đá trước kia.
Việc phát hiện ra đồng rồi đến sắt và việc chế tạo ra các công cụ lao động bằng đồng và

bằng sắt đã tạo ra một bước ngoặc to lớn trong sản xuất ra của cải vật chất, nó đã góp
phần đưa con người bước một bước tiến dài trong lịch sử từ thời nguyên thủy sang thời kỳ
chiếm hữu nô lệ. Cùng với sự đi chuyển rời từ thời kỳ này sang thời kỳ khác là sự văn
minh của con người ngày càng cao giúp cho xã hội ngày càng phát triển đi lên.
Thời kỳ Phong Kiến: Dưới chế độ phong kiến ngành kinh tế có vai trò quyết định nhất
là nông nghiệp. Trong thời kỳ đầu của chế độ phong kiến công cụ còn rất thô sơ dần dần
về sau mới áp dụng phổ biến các công cụ bằng sắt, do nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm
nông nghiệp thời bấy giờ một số ngành nông nghiệp mới ra đời như trồng nho, rau.Chăn
nuôi ngựa cừu dần đến yêu cầu phải cải tiến công cụ sản xuất nông nghiệp và nó cũng làm
cho một số ngành nghề thủ công phát triển. Trước hết phương pháp nấu gang vad chế biến
sắt được cải tiến một bước quan trọng. Thế kỷ XIV con người đã biết dùng luông xe nước
để thổi bễ rèn, giã quặng, thông gió trong lò, sử dụng cối xay chạy bằng sức gió, sức
nước....
Thời kỳ này với việc cải tiến công cụ lao động đã giúp cho xã hội có những bước tiến
quan trọng trong sản xuất làm nề tảng cho các thời kỳ tiếp theo.
Thời kỳ Chủ Nghĩa Tư Bản: Đăc điểm của thời kỳ này là công cụ lao động vô cùng
phát triển do trong thời kỳ này con người có nhiều thành quả trong phát triển khoa học, kỹ
5


thuật việc chế tạo ra máy móc đã tạo khả năng to lướn cho việc rút ngắn thời gian lao
động và giảm nhẹ việc lao động tăng thêm của cải cho con người sản xuát cho sự thắng
lợi của con người đối với lực lượng tự nhiên.
Nhưng không có vấn đề nào không có mặt trái của nó, khi máy móc nằm trong tay giai
cấp tư sản, máy móc lại được sử dụng làm phương tiện tăng cường bóc lột các giá trị
thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. Biến người sản xuất thành vật phụ thuộc
vào máy móc làm cho người bị các lực lượng tự nhiên lô dịch. Mặc dù vậy cần nhấn
mạnh rằng máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm cho năng suất lao động
tăng vọt, xã hội hóa lao động và sản xuất ngày càng cao dẫn đến mở rộng thị trường, thúc
đẩy sự ra đời của trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn, đồng thời tạo ra những

tiền đề vật chất - kỹ thuật và xã hội cho một hình thái xã hội cao hơn
Qua đó nhận thấy được công nghiệp hóa-hiện đại hóa là quá trình tất yếu để phát triển.
Công nghiệp hóa-hiện đại hóa phát triển sẽ dẫn đến sự gia tăng vật chất-kỹ thuật trong sản
xuất,làm năng suất lao động tăng,thị trường mở rộng,đất nước phát triển.
3.DỰA VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM
3.1.TÌNH TRẠNG VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1960:
* Cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu, những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé
và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân.
* Lực lượng sản xuất trong công nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa
đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình
trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển.
Nguyên nhân là do:
+ Nền nông nghiệp lạc hậu: Trong nông nghiệp, thực dân Pháp tiếp tục duy trì kiểu bóc
lột phong kiến bằng tô tức, sưu cao thuế nặng. Người nông dân phải chịu cảnh một cổ hai
tròng là thực dân và phong kiến. Phần lớn ruộng đất tập trung vào tay bọn địa chủ và chủ
đồn điền người Pháp.Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nền nông nghiệp nước ta hết
sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật và hoàn toàn dựa vào lao động thủ
công và phụ thuộc vào thiên nhiên. Năng suất các loại cây trồng đều rất thấp. Năng suất
6


lúa bình quân 1 ha thời kỳ 1930-1944 là 12 tạ, trong khi đó Thái Lan là 18 tạ và Nhật Bản
là 34 tạ.Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến và thực dân
Pháp. Nhân dân lao động chiếm 97% số hộ nhưng chỉ sử dụng 36% ruộng đất. Trong
nông thôn có tới 59,2% số hộ không có ruộng đất phải sống bằng cày thuê, cấy rẽ. Nghịch
cảnh sâu sắc diễn ra dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng: Hàng năm Việt Nam xuất khẩu
trên 1 triệu tấn gạo trắng, nhưng nông dân Việt Nam, người làm ra lúa gạo, lại luôn luôn
phải chịu cảnh đói nghèo. Năm 1945 có trên 2 triệu người chết đói. Cơ sở vật chất kỹ
thuật nghèo nàn: cả nước chỉ có 12 công trình thuỷ nông nhỏ, đảm bảo tưới cho 15% diện
tích canh tác, không có công trình tiêu úng nên lũ lụt thường xuyên xảy ra, bình quân 2

năm 1 lần vỡ đê. Nông nghiệp chủ yếu là quảng canh, năng suất cây trồng, vật nuôi rất
thấp. Năm 1939 được coi là năm được mùa nhất trước cách mạng nhưng năng suất lúa
bình quân cả nước cũng chỉ đạt hơn 10 tạ/ha.
+ Bị chiến tranh tàn phá nặng nề: tàn phá nặng nề cơ sở vật chất, các công trình cầu
đường bị phá hủy, nhiều làng xóm bị đốt trụi, nhiều diện tích đất bị ô nhiễm...
+ Chưa có nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật: công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về
lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực
thực hiện công nghiệp hóa là Nhà Nước và các doanh nghiệp nhà nước, việc phân bố
nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường Sản xuất công nghiệp rất
nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và một số cơ sở công nghiệp nhẹ
nhằm bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt và vơ vét tài nguyên khoáng sản. Từ năm 1930 đến
năm 1945, thực dân Pháp đã khai thác: 2,76 triệu tấn than, 217.300 tấn kẽm, chì; 598.000
tấn sắt, măng gan, 1.384 kg vàng, 315.500 tấn phốt pho.Trong hơn 10 năm, từ năm 1930
đến năm 1943, cả nước chỉ có khoảng 200 xí nghiệp công nghiệp và 90.000 công nhân,
trong đó 60% là công nhân khai thác mỏ. Cả nước không có một cơ sở công nghiệp luyện
kim, công nghiệp chế tạo thiết bị và hoá chất nào. Công nghiệp hàng tiêu dùng cũng chỉ
có một số nhà máy đường, rượu, xay xát lương thực, dệt may, giấy với máy móc thiết bị
cũ. Vào những năm 1938-1939, tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng giá trị sản
lượng công nông nghiệp cả nước. Khu vực tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền
7


thống bị kìm hãm và mai một. So với tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp toàn Đông
Dương thời kỳ 1913-1939, vốn đầu tư cho ngành mỏ chiếm 40%, riêng thời kỳ 1924-1930
là 52%.
Miền BẮC : Trước 1960, cụ thể : Giai đoạn (1955-1957)
Công nghiệp miền Bắc sau ngày hoà bình lập lại có mấy đặc điểm đáng lưu ý:
- Trong vùng tự do cũ, hầu hết các nhà máy lớn và quan trọng như Xe lửa Trường Thi,
Diêm Bến Thuỷ, Điện Thanh Hoá, Phosphate Hàm Rồng... đều đã bị phá huỷ hoàn toàn

hoặc tê liệt hoạt động.
- Trong vùng mới tiếp quản, nhiều nhà máy, hầm mỏ, một số nhà máy bị đình đốn hoặc
sản xuất cầm chừng do không có phụ tùng thay thế hoặc thiếu nguyên liệu. Tư bản ngoại
kiều và phần lớn các nhà tư sản dân tộc đều đã đi Nam. Nhìn chung, cơ sở công nghiệp
Pháp để lại hầu như không có gì. Cả miền Bắc lúc này chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh Trung Ương và cũng chừng ấy cơ sở công nghiệp quốc doanh địa
phương. Đội ngũ công nhân viên chức có khoảng hơn một vạn người, trong đó 2/3 là
công chức, chỉ có 23 kĩ sư công nghiệp.
Người lao động thất nghiệp tràn lan, riêng vùng đô thị ước chừng có 10 vạn người. Sản
lượng công nghiệp giảm sút nghiêm trọng. Đặc biệt, tỷ trọng công nghiệp hiện đại giảm
từ 10% năm 1939 xuống còn 1,5% trong tổng sản lượng công - nông nghiệp .
Miền NAM : Trước 1960, cụ thể: Giai đoạn 1954 – 1956
Công nghiệp còn khá nghèo nàn, gồm một số nhà máy của tư bản Pháp, xây dựng từ
thời thuộc địa, được duy trì một cách cầm chừng trong thời kỳ kháng chiến: các nhà máy
thuốc lá Mic, Mitax, Basto, một số xí nghiệp đồ uống của hãng BGI, hãng rượu Bình Tây,
hai nhà máy đường Hiệp Hoà và Khánh Hội, mấy nhà máy cơ khí, trong đó đáng kể là
nhà máy Caric, ngoài ra có một số nhà máy chế biến cao su thiên nhiên của hãng
Michelin.

8


Đứng thứ 2 sau người Pháp là một số cơ sở của người Hoa, mà phần lớn chỉ là tiểu
công nghiệp: Các nhà máy xay, một số nhà máy dệt, một số lò thuỷ tinh, một số xưởng
thực phẩm... Người Việt Nam lúc đó cũng có một số xưởng sản xuất ở quy mô tiểu công
nghiệp (gốm, sứ, nước chấm, bánh kẹo...). Công nghiệp thời kỳ này ở tình trạng “những
ngành hàng không bị hàng nhập khẩu cạnh tranh thì phát triển tương đối khá, những mặt
hàng dựa vào nhập khẩu để tiêu dùng thì không những không phát triển, mà còn suy thoái
nghiêm trọng. Giá trị sản xuất công nghiệp trong ngành kỹ nghệ chế biến bình quân đầu
người năm 1953 và 1960 là 11 USD, giảm còn 9 USD năm 1968” .

Tóm lại: Hình thức canh các còn thô sơ, chưa có quy mô, bị trì trệ, công cụ còn lạc hậu,
phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên, chiến tranh tàn phá, việc trao đổi, giao lưu với
nước ngoài bị hạn chế... Dẫn đến nền kinh tế nước ta lạc hậu, trì trệ, kém phát triển, năng
suất lao động thấp
3.2.VIỆT NAM THỜI KÌ SAU NĂM 1960.
Tình hình nền kinh tế nước ta còn trong tình trạng trì trệ, công cụ còn thô sơ, phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố tự nhiên, chiến tranh tàn phá, việc trao đổi, gio lưu với các nước
ngoài còn bị hạn chế dẫn đến nề kinh tế nước ta bị lạc hậu, trì trệ, kém phát triển, năng
suất lao động thấp. Trước tình hình đó, muốn thay đổi nền kinh tế nước ta, từ một nước có
nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, muốn cải
tiến có hiệu quả công cụ lao động phải ứng dụng khoa học kỹ thuật - cộng nghiệp hiện
đại, chúng ta cần phải tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Tháng 9/1960, Đại Hội III của đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc
hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa. Tức là khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.
Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các đại hội của đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng(tháng 12-1986) với tinh thần “nhìn
9


thẳng vào sư thật,đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai
lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kì 1960-1985, mà trực tiếp là
mười năm, từ 1975 đến 1985. Đó là:
-

Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ


sở vật chất- kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, v.v.. Do tư tưởng chỉ đạo
chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới
cơ chế quản lí kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ
xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp
với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lí, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những
công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ 5, như: vẫn chưa
thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phuc vụ kịp thời
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung
chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên của thời kì quá độ là thực hiện cho bằng được 3 Chương trình mục tiêu: lương
thực- thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII (1-1994), đã có bước đột phá mới trong nhận
thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội
cao”.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) nhìn lại đất nước sau mười năm đổi mới đã có nhận định
quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng
10


đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn
thành cho phép nước ta chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.
Đại hội nêu ra sáu quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại
của thập kỉ 90, thế kỉ XX. Các quan điểm và định hướng này đến nay về cơ bản vẫn đúng
và có giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Đại hội IX (4-2001) và Đại hội X (4-2006) của Đảng, bổ sung và nhấn mạnh một số điểm
mới về còn đường công nghiệp hóa rút ngắn ở nước ta.
Bước vào thời kì đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và
quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới, chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới.
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỉ XVII, XVIII, các nước tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó
công nghiệp hóa đã được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay, Đại hội X của Đảng nhận định: “Khoa
học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn”. Kinh tế tri thức có vai
trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên
cạnh đó, xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội
cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến
hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển
kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức
đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển tuần tự kinh
tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức.Đó là lợi thế của
các nước đi sau,không phải là nóng vội,duy ý chí.Vì vậy ,Đại hội X của Đảng đã chỉ
rõ:đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
11



Kinh tế tri thức là gì?Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định
nghĩa:Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra,phổ cập và sử dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,tạo ra của cải,nâng cao chất lượng
cuộc sống.Trong nền kinh tế tri thức,những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát
triển là những ngành dựa nhiều vào tri thức,dựa vào các thành tựu mới của khoa học,công
nghệ.Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông
tin,công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp,công
nghiệp,dịch vụ được ứng dụng khoa học,công nghệ cao.
Hai là,công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hóa ở thời kì trước đổi mới,được tiến hành trong nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung,lực lượng làm công nghiệp hóa chỉ có Nhà nước,theo kế hoạch của
Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh,Thời kì đổi mới,công nghiệp hóa,hiện đại hóa
được tiến hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,nhiều thành
phần.Do đó công nghiệp hóa,hiện đại hóa không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự
nghiệp của toàn dân,của mọi thành phần kinh tế,trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo.Ở
thời kì trước đổi mới,phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện
bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước,còn ở thời kì đổi mới được thực hiện
chủ yếu bằng cơ chế thị trường.Công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế,mà còn sử
dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất
nước.Bởi vì khi đầu tư vào lĩnh vực nào,ở đâu,quy mô thế nào,công nghệ gì đều đòi hỏi
phải tính toán,cân nhắc kĩ càng,hạn chế đầu tư tràn lan,sai mục đích,kém hiệu quả và lãng
phí,thất thoát.
Công nghiệp hóa,hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế,tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.Hội nhập
kinh tế quốc tế,mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài,thu hút công nghệ hiện đại,học hỏi kinh nghiệm quản lí tiên tiến của thế giới…sớm
đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai
12



thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế,có sức cạnh
tranh cao.Nói cách khác,đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa,hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn,hiệu
quả hơn.
Ba là,lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa,yếu tố con
người được coi là yếu tố cơ bản.Để tăng cường kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là:vốn;khoa
học và công nghệ;con người;cơ cấu kinh tế;thể chế chính trị và quản lý nhà nước,trong đó
con người là yếu tố quyết định.Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của
công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục và đào
tạo.
Công nghiệp hóa,hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân,của mọi thành phần kinh
tế,trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ,khoa học quản lý cũng như đội ngũ
công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng.Nguồn nhân lực cho công nghiệp
hóa,hiện đại hóa đòi hỏi phài đủ số lượng,cân đối về cơ cấu và trình độ,có khả năng nắm
bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng
sáng tạo công nghệ mới
Bốn là,khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa,hiện
đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động,giảm chi
phí sản xuất,nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta
tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển,và tiềm lực khoa học,công
nghệ còn ở trình độ thấp.Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yếu tố tất yếu và bức xúc
.Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ,mua sáng chế kết hợp với phát triển công
nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ,nhất là công nghệ
thông tin,công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Năm là,phát triển nhanh,hiệu quả và bền vững,tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
13


hiện tiến bộ và công bằng xã hội;bảo vệ môi trường tự nhiên,bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh.Để thực hiện mục tiêu đó,trước hết
kinh tế phải phát triển nhanh,hiệu quả và bền vững.Chỉ như vậy mới có khả năng xóa
đói,giảm nghèo,nâng cao đời sống vật chất,tinh thần của nhân dân,phát triển văn hóa,giáo
dục,y tế,rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng…Mục tiêu đó thể hiện sự phát
triển vì con người,mọi con người đều được hưởng thành quả của phát triển.
Sự phát triển nhanh,hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ môi
trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học.Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học
là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người.Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo
tồn đa dạng sinh học,chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung
của sự phát triển bền vững.
Sau hơn 30 năm đổi mới,đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn,có ý
nghĩa lịch sử,trong đó có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
Một là,cơ sở vật chất-kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể,khả năng độc lập tự
chủ của nền kinh tế được nâng cao.Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu,cơ
sở vật chất yếu kém đi lên,đến nay cả nước đã có khoảng 300 khu công nghiệp,khu chế
xuất tập trung,nhiều khu hoạt động có hiệu quả;tỷ lệ ngành công nghiệp chế tác,cơ khí
chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản
xuất như luyện kim,cơ khí,vật liệu xây dung,hóa chất cơ bản,khai thác và hóa dầu đã và
đang có những bước phát triển mạnh mẽ.Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh
được trên thị trường trong và ngoài nước.Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh,bình quân
thời kỳ 2001-2005 đạt 16,7%/năm, giai đoạn 2000-2009, tốc độ tăng trưởng ngành đạt
9,6%/năm và giai đoạn 2010-2013 đạt 4,6%/năm.năng lực xây dựng tăng nhanh và có
bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại.Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng
được xây dựng:sân bay,cảng biển,đường bộ,cầu ,nhà máy điện,bưu chính -viễn thông…

theo hướng hiện đại.
Hai là,cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa đã đạt được
những kết quả nhất định:tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng,tỷ trọng nông, lâm nghiệp
14


và thủy sản giảm(Trong đó, tỷ trọng nông, lâm, thủy sản giảm liên tục từ 46,3% năm 1988
xuống còn 24,5% năm 2000 và giảm xuống còn 19,0% năm 2010; 18,4% năm 2014; còn
tỷ trọng công nghiệp, xây dựng tăng từ 23,96% năm 1998 lên 36,7% năm 2000 và lên
38,2% năm 2010; 38,3% năm 2014; tỷ trọng dịch vụ tăng từ 29,74% năm 1988 lên 38,8%
năm 2000 và 42,8% năm 2010; 43,3% năm 2014.).Trong từng ngành kinh tế đều có sự
chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất,cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ,hiệu
quả,gắn với sản xuất,với thị trường. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2014 năng
suất lao động của toàn nền kinh tế ước đạt 74,3 triệu đồng, trong đó khu vực Nông, Lâm
nghiệp và Thủy sản đạt 29 triệu đồng, khu vực Công nghiệp và Xây dựng đạt 133 triệu
đồng và khu vực Dịch vụ đạt trên 100 triệu đồng. Nhìn chung, từ 2005 đến nay năng suất
lao động của các ngành đều cải thiện, với tỷ lệ tăng bình quân khoảng 3,5% một năm.
Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản tăng đều với tốc độ khoảng gần 3%/ năm; Khu
vực Dịch vụ cũng có sự gia tăng năng suất một cách ổn định với mức tăng bình quân 2 –
3 % một năm. Khu vực Công nghiệp và Xây dựng sau tăng năng suất lao động đột biến
vào năm 2007 đã bị suy giảm mạnh trong giai đoạn 2008 – 2010. Từ 2011 đến nay, năng
suất lao động của khu vực này đã có sự phục hồi đáng kể.
Tổng sản lượng thủy sản đã lần lượt vượt qua ngưỡng 1 triệu tấn vào năm 1990, đứng vào
hàng ngũ những nước có sản lượng khai thác hải sản trên 1 triệu tấn kể từ năm 1997, đạt 2
triệu tấn vào năm 2000, 3 triệu tấn vào năm 2004 và qua mốc 4 triệu tấn vào năm 2007,
sản lượng thủy sản năm 2010 ước đạt 5.157,6 ngàn tấn Theo Tổng cục Thủy sản, tổng sản
lượng thủy sản năm 2012 ước đạt 5,8 triệu tấn Sản lượng thuỷ sản năm 2014 ước đạt
6332,5 nghìn tấn.Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, sản lượng thuỷ sản năm 2015 ước
tính đạt 6,549.7 ngàn tấn..Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 30,084 tỷ USD năm 2000,
69,420 tỷ USD năm 2005, 143,399 tỷ USD năm 2008, 157,075 tỷ USD năm 2010,

228,310 tỷ USD năm 2012, 264,066 tỷ USD năm 2013, 294,24 tỷ USD năm 2014. Năm
2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 327,76 tỷ USD .
Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng.Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh,đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
15


Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.Từ năm 2000 đến năm 2005,tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng
từ 12,1% lên 17,9%;dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%;nông lâm nghiệp và thủy sản giảm
từ 68,2% xuống còn 56,8%;lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25%.Tỉ lệ của nông
nghiệp trong tổng lao động giảm từ 75% năm 1985 xuống còn khoảng 50% năm 2010.
Ba là,những thành tựu của công nghiệp hóa,hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao,bình quân từ năm 2000 đến năm 2005 đạt
trên 7,51%/năm,các năm 2006-2007 đạt 8%/năm.Điều đó đã góp phần quan trọng vào
công tác xóa đói,giảm nghèo.Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng lên đáng
kể.Năm 2005,đạt 640 USD/người,năm 2007 đạt trên 800 USD/người.Đời sống vật
chất,tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện
Việt Nam đã đạt được thành công về tốc độ tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng (tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 7,2% bình quân giai đoạn 1990-2013), gia nhập hàng ngũ các quốc gia có
thu nhập trung bình vào năm 2010 (thu nhập bình quân đầu người tăng từ khoảng 100 đô
la Mỹ năm 1990 lên 1.960 đô la Mỹ năm 2013) và đóng góp làm giảm nghèo nhanh
chóng (tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 6% năm 2014). Tốc độ phát triển
kinh tế (GDP) giai đoạn 2011-2015 chỉ 5,91%/năm
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi
trường chính trị ổn định,phải có các nguồn lực cần thiết như:nguồn lực con người,vốn ,tài

nguyên thiên nhiên,cơ sở vật chất kĩ thuật,vị trí địa lý,nguồn lực nước ngoài.Các nguồn
lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau,cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa,hiện
đại hóa nhưng mức độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công
nghiệp hóa,hiện đại hóa không giống nhau,trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết
định.
Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong
16


lịch sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản,Mỹ,… nhiều nhà kinh
doanh nước ngoài khi đến tham quan Nhật Bản thường chú ý đến kỹ thuật,máy móc và
coi đó là nguyên nhân tạo nên “kỳ tích Nhật Bản”.Nhưng họ đã nhầm,chính người Nhật
Bản cũng không quan niệm như vậy.Người Nhật cho rằng kỹ thuật và công nghệ có vai
trò rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất.Yếu tố quyết định nhất dẫn đến
thành công của họ là con người.Cho nên họ đã tập trung cao độ và có những chính sách
độc đáo phát triển yếu tố con người.
Ngày nay đối với những nước lạc hậu đi sau,không thể phát triển nhanh chóng nếu
không tiếp thu những tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nước phát
triển.Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà không cần tính đến
yếu tố con người.Cần nhớ rằng,công nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ
phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí,thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào yếu
tố con người khi sử dụng chúng.Nhiều công ty chỉ chú ý đổi mới kỹ thuật và công nghệ
nhưng vì không chú ý đến yếu tố con người nên đều thất bại.Ông Victor S.L.Tan,giám đốc
của Ohostate University đã viết:”Điều mỉa mai lớn nhất còn là ở chỗ,trong có nhiều công
ty đã cố thực hiện đổi mới,nhưng lại có ít công ty thực hiện đủ mức để đạt tới thành
công.Nhiều công cuộc đổi mới đã tiến hành nhưng thất bại vì các công ty đó đã không
đưa vào cấu tạo của kế hoạch đổi mới hoặc chương trình đổi mới của họ một nhân tố khó
nhất để thành công-con người.”
Như mọi quốc gia khác trên thế giới,sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa ở Việt
Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định.Trong

nguồn lực con người thì học sinh,sinh viên là nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến tương lai
đất nước trong thời gian gần nhất, quyết định sự phát triển của đất nước.Vậy học sinh,
sinh viên Việt Nam có những cơ hội và thách thức như thế nào khi đất nước tiến hành
công nghiệp hóa?
1.CƠ HỘI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM
Làn sóng đầu tư vào Việt Nam là rất lớn đem lại nhiều cơ hội việc làm,đặc biệt là
việc làm theo hướng công nghiệp với hàm lượng vốn,tri thức cao,cơ hội học hỏi kinh
17


nghiệm ở các tập đoàn lớn,chuyên nghiệp cũng tăng.Các rào cản pháp lý về di chuyển
pháp nhân,thể nhân được nới lỏng,các quan hệ kinh tế ,đối ngoại,lao động… được thiết
lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.Nhận thức của sinh
viên sẽ sâu sắc hơn,bởi họ là chủ nhân của thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đạị hóa,thời kỳ
hội nhập,thời kỳ hậu WTO.
Các công ty nước ngoài với số lượng ngày càng tăng mở ra một cánh cửa tiềm
năng cho sinh viên Việt Nam.Hằng năm,các doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp tìm ứng
viên thông qua các chương trình như Ngày hội việc làm quốc tế.Lương,thưởng,đãi ngộ
cho vị trí này do vậy cũng thấp hơn.Song điều kiện tuyển dụng khá khắt khe,đòi hỏi
người lao động phải giỏi:ngoại ngữ,chuyên môn ,kinh nghiệm…
Việt Nam đã gia nhập WTO,tạo cơ hội cho sinh viên gặp gỡ giao lưu với các doanh
nhân giúp họ kịp thời nắm bắt nhu cầu của nhà tuyển dụng,đồng thời khơi dậy khát vọng
làm giàu chính đáng cho bản thân và đất nước trong mỗi sinh viên thời kỳ hội nhập.
Sinh viên Việt Nam có cơ hội làm việc cho các tổ chức,dự án quốc tế,trong môi
trường năng động,chuyên nghiệp.Thực tập ở nước ngoài là một trong những trải nghiệm
quan trọng nhất và đáng nhớ của giáo dục đại học.Đó là một cách tuyệt vời để làm nổi bật
sơ yếu lý lịch và giúp sinh viên có cơ hội phát triển mạng lưới mối giao tiếp vô giá có thể
chuyển thành cơ hội có việc làm khi tốt nghiệp.Sau các chương trình trao đổi học sinh với
các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Mỹ,Nhật,Hàn Quốc,Đài Loan,Singapore…sinh
viên Việt Nam có được những trải nghiệm thực tế để phát triển kỹ năng sống cho bản

thân,thêm tự tin và khả năng tự lập.
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin,sinh viên ngày nay có thể
tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tri thức khổng lồ của nhân loại.Học hỏi nhanh và nắm bắt
thông tin phong phú và biến đổi của thời đại.Nhìn vào thế hệ trẻ 8x,9x ngày nay,chúng ta
không thể không thán phục vì một số người rất thành công trên con đường học tập và sự
nghiệp.Theo báo Tuổi Trẻ”Con số người trẻ Việt Nam thành công trong lĩnh vực giáo
dục,y tế,khoa học,doanh nghiệp… ngày càng cao”
Sự hợp tác mở rộng trên lĩnh vực giáo dục thể hiện ở số lượng ngày càng tăng các
trường đại học nước ngoài liên kết đào tạo với các trường đại học Việt Nam với các
18


chuyên ngành đa dạng và sinh viên Việt Nam hoàn toàn có thể được hưởng nền giáo dục
đẳng cấp quốc tế,nhận bằng cấp của các trường đại học quốc tế ngay tại Việt Nma với chi
phí thấp hơn nhiều lần du học nước ngoài.Phương tiện,điều kiện vật chất cho việc học
cũng nâng cao hơn.
2.THÁCH THỨC
Có một nghịch lý là học sinh phổ thông phải rất vất vả mới có thể chen chân vào
giảng đường đại học với tỷ lệ chọi rất cao,kèm theo đó là vô số thứ tốn kém và hệ lụy
khác.Thế nhưng khi tốt nghiệp ra trường,một bộ phận không nhỏ lại gặp rất nhiều khó
khan trong tìm kiếm việc làm.Một số nghiên cứu sơ bộ cho thấy,trong vòng 3 năm kể từ
khi tốt nghiệp ra trường,trên 20% cử nhân vẫn thất nghiệp hoặc chưa có việc làm ổn định.
Con số này tuy có chiều hướng giảm nhưng không ổn định và vẫn ở mức cao, gấp đôi tỷ
lệ thất nghiệp chung của cả nước. Nó phản ánh khá rõ những khó khăn trong tìm kiếm
việc làm của giới trẻ”.
Theo các nhà xã hội học, tình trạng thất nghiệp còn được nhìn nhận dưới nhiều góc
độ như: công việc không đúng với chuyên môn, một lúc làm nhiều việc nhưng không chịu
trách nhiệm cụ thể, làm việc đúng chuyên môn nhưng không được bàn giao công việc cụ
thể, đảm nhận những công việc không đúng với chuyên môn và khả năng đào tạo… Như
theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ có việc làm đúng chuyên ngành của sinh

viên khối tự nhiên là khoảng 60%, còn các trường thuộc khối xã hội thấp hơn nhiều. Một
nghiên cứu gần đây cho thấy cứ 100 sinh viên khối xã hội mới tốt nghiệp ra trường chỉ có
khoảng 10 người tìm được công việc đúng chuyên môn. Số còn lại làm những công việc
khác để lo cho cuộc sống và chờ cơ hội. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị
trường lao động quốc tế thừa nhận.
Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng, thiếu kiến thức, không đáp ứng được nhu cầu
của nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp mong muốn tuyển chọn những sinh viên có ngoại
ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết về môi
trường văn hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Về mặt này, ngay cả
những sinh viên tốt nghiệp với tấm bằng laoị ưu cũng chưa đáp ứng được. Một phần nữa
19


là trình độ ngoại ngữ của hầu hết sinh viên Việt Nam còn chưa tốt hoặc nói đúng ra là rất
kém.
Sinh viên Việt Nam gặp khó khăn với tư duy trừu tượng dù sinh viên Việt Nam
luôn tự hào là nước có nhiều người tư duy rất tốt về toán. Một bằng chứng tiêu biểu cho
khả năng của người Việt Nam trong lĩnh vực này là sự kiên giáo sư Ngô Bảo Châu là một
trong 2 người châu Á đầu tiên nhận giải thưởng FIELS – được coi như giải thưởng Nobel
cho toán học. Lý do là các bạn không được tiếp cận với các vấn đề khác nhau và còn tự
giam mình trong chuyên môn và dể dàng bằng lòng với việc tiếp Thu những kỹ năng cụ
thể mà không tự trang bị kiến thức.
Tại hội thảo khoa học “Định hướng nghề nghiệp việc làm cho sinh viên" ngày 2312-2009 các nhà khoa học đưa ra con số 60% sinh viên sau khi ra trường phải đào tạo lại
tại các nơi tuyển dụng từ sáu tháng tới một năm. Các nội dung đào tạo lại không chỉ là
chuyên môn nghiệp vụ mà cả thái độ làm việc, đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật lao động cho
đến các kỹ năng cơ bản trong việc ứng phó và giải quyết các vấn đề thực tiễn của lao
động sản xuất kinh doanh.
Tình trạng này dẫn đến sự giảm sức hấp dẫn của các công ty, tổ chức nước ngoài
trong việc tuyển dụng lao động Việt Nam do chi phí để tuyển được nhân viên cao hơn ở
các quốc gia trong khu vực như Indonesia, Malaysia…

Sinh viên thiếu tự tin, kém năng động trong tìm kiếm cơ hội, thụ động trong việc
thực hành, tiếp xúc thực tế; định hướng nghề nghiệp còn thiếu và yếu. Họ chưa chủ động
trong việc tìm kiếm thông tin. Hầu hết, nguồn tài liệu chính mà sinh viên Việt Nam tiếp
cận chính là giáo trình, là bài giảng của thầy giáo, những bài nghiên cứu, sách chuyên
ngành trên thư viện mà bỏ qua những luồng thông tin khác cũng rất quan trọng như báo
chí, internet,…
Sinh viên, nhất là sinh viên năm thứ nhất, thứ hai thường gặp khó khăn, lúng túng
trong việc cân đối giữa việc học với những hoạt động khác; thường bỏ phí rất nhiều thời
gian vào những việc mà không đem lại mấy hiệu quả. Họ chưa định hướng rèn luyện thực
sự cho bản thân. Nói như GS. Nguyễn Lân Dũng, sinh viên phải xác định học cho mình
chứ không phải cho người khác, cho thầy giáo.
20


KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất
cả các quốc gia trên thế giới. Đó là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi tới mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” công nghiệp hóa, hiện
đại hóa không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách
mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học và
con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động
lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung tâm
của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá
trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân
lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành
động lực thật sự của sự phát triển.
Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và đặc biệt
đang nổi lên ở khu vực Đông Á. Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời
kì công nghiệp hóa, hiện hóa và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường

hợp đầu tư phát triển đủ mạnh nguồn nhân lực. Sự đầu tư ấy được biểu hiện cả ba mặt:
chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu
quả nhất là đầu tư cho giáo dục. Khi nghiên cứu quan hệ giữa GDP và các yếu tố của
nguồn nhân lực, người ta thấy sự phát triển của nguồn nhân lực càng sớm thì tốc độ tăng
trưởng kinh tế càng cao. Thực tế đã chứng minh, do phát triển nguồn nhân lực mà Hàn
Quốc đã mau chóng trở thành nước công nghiệp, có sự hội nhập thần kì ở khu vực Đông
Á và trở thành một điểm sáng bên cạnh Nhật Bản siêu cường.
Đồng thời, xuất phát từ tư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự
nghiệp giải phóng của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta
hiện nay chính là một cuộc cách mạng-cách mạng con người. Trong “Tư bản”, C.Mác đã
khẳng định: “để sản xuất ra những con người toàn diện” cần phải có một nền kinh tế phát
triển, một nền văn hóa mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên
21


tiến. Và ông coi tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội đó “không phải chỉ là một phương
pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phương pháp duy nhất để sản
xuất ra những con người phát triển toàn diện” những chủ nhân thực sự của một xã hội vì
con người. Như vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới trở thành sự nghiệp cách mạng
của quần chúng.
Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kì phát triển
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng
thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện,
con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn,
phức tạp nhưng tất yếu này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Võ Mai – Tình hình xây dựng và phát triển các KCN, KKT 7 tháng đầu năm 2015- KHU
22


CÔNG

NGHIỆP

VIỆT

NAM

link: />393/Default.aspx- 09/05/2016
Tổng cục hải quan- Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng
12 và năm 2015-HẢI QUAN VIỆT NAMLink: />ID=914&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20k
%E1%BB%B3&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch, -ngày 09/05/2016
Tổng cục hải quan- Số liệu Thống kê trị giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam giai đoạn 1996-2013-HẢI QUAN VIỆT NAMLink: />ID=376&Category=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20chuy%C3%AAn
%20%C4%91%E1%BB%81&Group=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th
%E1%BB%91ng%20k%C3%AA -ngày 09/05/2016
Nguyễn Tấn Quang Vinh –Tạo đà cho bước nhảy vọt-Báo Cáo Ngành Xây DựngLink: />pdf - ngày 09/05/2016
Tác giả tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
theo hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam-CỔNG GIAO TIẾP ĐIỆN TỬ HÀ NỘI
Link: />p_p_id=VsubjectView_WAR_Vsubjectportlet_INSTANCE_1TyasZEx52tW&p_p_lifecyc
le=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column1&p_p_col_count=1&_
VsubjectView_WAR_Vsubjectportlet_INSTANCE_1TyasZEx52tW_jspPage=%2Fhtml
%2Fportlet%2FsubjectView
%2Fdetail.jsp&_VsubjectView_WAR_Vsubjectportlet_INSTANCE_1TyasZEx52tW_sub
Id=11901 , ngày 09/05/2016


23


Hoàng

Phương-Sản

lượng

thuỷ

sản

2015

tăng

3.4%-VIETSTOCK

link: , ngày
09/05/2016
Khánh Nhi- Sản lượng thủy sản năm 2014 vượt ngưỡng 6 triệu tấn-CAFEFLink: - ngày 09/05/2016
Tổng hợp từ Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội
Đảng lần thứ X; Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại
hội Đảng lần thứ XI; TTX VN và các nguồn khác- Một vài nét về kinh tế-xã hội Việt
Nam-CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

VIỆT


NAM

link: />TinTongHop/kinhtexahoi , ngày 09/05/2016
KINH TẾ VIỆT NAM-WIKIPEDIA
Link: ngày
11/4/2016
Th.s Nguyễn Huyền Lê, CN Phạm Huy Tú và nhóm nghiên cứu- Năng suất lao động Việt
Nam – Hướng tới cộng đồng kinh tế Asean-BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ
HỘI VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
Link: ngày 11/4/2016
Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam-từ trang 118 đến trang
441-Nhà xuất bản chính trị quốc gia-Hà Nội-2010

24


×