Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG ĐỐI TÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.2 KB, 7 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong thực tiễn, hoạt động của con người tồn tại trên nhiều lĩnh vực khác
nhau với nhiều mục tiêu khác nhau. Nhằm đạt được những mục tiêu đó, con
người phải nắm bắt được các mối liên hệ phổ biến và phát triển của mọi sự vật,
hiện tượng để tránh mắc phải những sai lầm không đáng có.
Từ góc độ triết học, trong bài thu hoạch này, khi đề cập đến một vấn đề
có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối
tượng, học viên đã phân tích sự vận dụng một trong những bài học phương pháp
luận của chủ nghĩa mác Lênin đó là phép biện chứng duy vật để xác định đối
tượng, đối tác, hợp tác và đấu tranh trong công tác an ninh hiện nay. Nhận thức
rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán trong công tác đấu tranh bảo
vệ ANQG và TTATXH trong bối cảnh quốc tế hiện thời.
NỘI DUNG
Nhận thức về đối tác và đối tượng là vấn đề nhạy cảm và cực kỳ quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự cần thiết phải thống nhất về nhận thức trong vấn đề này luôn là một đòi hỏi
chính đáng và hợp lý, trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Vì thế,
trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh việc cần phải “chú trọng giáo
dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan
điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức
trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh”
1. Tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác
Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu “... trong một số đối tác, có thể có
mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng
đã khẳng định: “... trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta
cần phải đấu tranh”.
1



Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách
quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không
chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng
đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và
tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang
ngày càng gia tăng.
Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do
đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành
đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng
trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn
cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta
phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ
có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời
gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ
hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn
còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối
tượng vĩnh viễn.
2. Vận dụng một trong những bài học phương pháp luận của chủ
nghĩa mác Lênin, cụ thể là phép biện chứng duy vật để xác định đối tượng,
đối tác, hợp tác và đấu tranh trong công tác bảo vệ ANQG và TTATXH
hiện nay
Tình hình thế giới những năm gần đây có nhiều biến đổi sâu sắc, sự phát
triển kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của một quốc gia, dân tộc hay một
khu vực đều đan xen những ảnh hưởng và lợi ích của nhiều quốc gia, dân tộc
khác. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhận thức về quan hệ bạn, thù hay đối tác, đối
tượng trong công tác đấu tranh bảo vệ ANQG và TTATXH là một trong những
yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết cần phải được trang bị một cách có hệ
thống, đồng bộ, triệt để cho mọi cán bộ chiến sỹ Công an nhân dân.

2



Về nhận thức, cần xem xét, làm rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối
tác và đối tượng.
Trước hết, xét trên tầm vĩ mô, tổng thể (của chủ thể), đối tác (và đối
tượng) được xác định là một chủ thể: một con người (ai); hay nhiều người, nhiều
lực lượng (những ai, những thế lực,...). Theo đó, có thể hiểu là một người (cá
nhân), một nhóm người (tổ chức) hay suy rộng ra, một tập đoàn người, một quốc
gia, dân tộc, v.v. đều có thể là đối tác (hay đối tượng) của chúng ta trong sự
nghiệp bảo vệ ANQG và TTATXH. Ở đây, đối tác (hay đối tượng) được xác định
là một chủ thể hoàn chỉnh (một người, một tổ chức).
Thứ hai, ở tầm vi mô, phạm vi hẹp, trong khuôn khổ của mỗi chủ thể,
đối tác và đối tượng không phải là một chủ thể hoàn chỉnh, mà chỉ
là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận của mỗi chủ thể đó. Trong
trường hợp này, đối tượng (hoặc đối tác) chỉ là một, một số, đa số hay hầu hết
các mặt, thuộc tính, bộ phận của một chủ thể trong quan hệ với chúng ta.
Vì thế, bất cứ chủ thể nào cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác,
hay nói chính xác hơn, vừa có mặt đối tác, vừa có mặt đối tượng trong quan hệ
với chúng ta. Ví dụ: Mỹ là đối tượng nguy hiểm nhất cũng là đối tác lớn nhất
cần tranh thủ để hạn chế các hoạt động thù địch, tranh thủ vốn, khoa học công
nghệ và tạo thế cân bằng chiến lược trong quan hệ với Trung Quốc. Trung Quốc
tuy không đe dọa trực tiếp tới chế độ chính tị và nhà nước ta nhưng luôn đe doạn
trực tiếp đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng là đối
tác trah thủ để hạn chế các hoạt động bất ổn ở khu vực biên giới, tránh các nguy
cơ xung đột vũ trang ở biên giới, biển đảo, đan xen lợi ích, cân bằng chiến lược
trong quan hệ với Mỹ…
Diễn đạt theo cách khác, đối tượng và đối tác là hai mặt luôn đan xen và
thống nhất trong mỗi chủ thể. Không có chủ thể nào chỉ là đối tác hoặc ngược
lại, chỉ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Vấn đề là, trong quan hệ với


3


chúng ta, những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận ấy bộc lộ ra với tư
cách gì, là đối tác hay đối tượng. Và, ngay trong mỗi “mặt”, mỗi “thuộc tính”,
mỗi bộ phận cũng bao hàm các yếu tố đối tác và đối tượng ở trong nó. Như vậy,
đối tác và đối tượng có những cấp độ rất khác nhau; chúng không chỉ là những
thuộc tính đối lập nhau trong mỗi chủ thể, mà còn có ở trong nhau, ngay trong
mỗi thuộc tính của chủ thể.
Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận, sẽ không có đối tác
(hoặc đối tượng) toàn diện, thuần túy. Các đối tác (hay đối tượng) toàn diện,
thuần túy mà ta vẫn được nghe, nói trong cuộc sống thường ngày chỉ là khái
niệm trừu tượng, có ý nghĩa tượng trưng và biểu đạt một sắc thái tình cảm chủ
quan mà thôi. Tuy vậy, cần thấy rằng, vẫn có những đối tác (hay đối tượng)
nhiều mặt trong quan hệ với chúng ta. Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy,
chúng ta đã từng phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ
thù nguy hiểm.
Cũng cần thấy rằng, “đối tác” và “đối tượng” không phải chỉ gồm những
“mặt”, “thuộc tính”, những bộ phận ở trong cùng một chủ thể, đã được bộc lộ ra
trong quan hệ với chúng ta. Bởi lẽ, đối tác hay đối tượng được xác định là những
“mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận nào đấy của một chủ thể trong quan
hệ với chủ thể khác. Ngoài những thuộc tính được biển hiện ra là những đối tác
hay đối tượng trong quan hệ với các chủ thể, thì vẫn còn những thuộc tính khác
đang ẩn giấu vai trò trong quan hệ với các chủ thể. Nghĩa là, trong mối quan hệ
của một chủ thể xác định với chúng ta, không phải ngoài những mặt, những
thuộc tính biểu hiện ra thành mặt đối tác (hay đối tượng) thì các thuộc tính còn
lại đều là những mặt đối tượng (hay đối tác). Kể cả trong trường hợp chủ thể bộc
lộ rất nhiều mặt đối tác và mặt đối tượng thì trong nó, vẫn còn những mặt,
những thuộc tính chưa được biểu hiện ra. Đó có thể là những “đối tác thầm
lặng”, đối tác tiềm năng trong tương lai. Và, đó cũng có thể là những “đối tượng

giấu mặt”, “đối tượng tiềm ẩn”.

4


Như vậy, đối tượng và đối tác, xét về phương thức biểu hiện, có hai
dạng: một đã hiện hữu trong các mối quan hệ thực tế với chúng ta và một đang
tồn tại dưới dạng tiềm năng, tiềm ẩn. Nhận thức đúng và dự báo được những
dạng biểu hiện của hai loại đối tác và đối tượng này luôn là đòi hỏi thiết yếu của
thực tiễn chính trị và khoa học chính trị.
Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết. Song, sự phân định này
cần phải “mềm dẻo” và “uyển chuyển” trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới
giữa đối tác và đối tượng thường rất “mờ nhòe”, tương đối và do vậy, nhận thức
chúng không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và
quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất
quan trọng để xác định đối tác là lợi ích. Lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó)
phải được bảo đảm cho cả hai phía: phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi
bên “cùng có lợi”, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí
“cùng có lợi” đã trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Tiêu chí này bác
bỏ quan điểm “lợi kỷ”, chỉ biết giành lợi ích về phía mình mà thiếu quan tâm
đến lợi ích của phía đối tác. Quan điểm ích kỷ, hẹp hòi này sẽ dẫn tới không tôn
trọng nhau, không bình đẳng, lợi dụng nhau trong quan hệ giữa các đối tác. Từ
“lợi kỷ” sẽ dẫn tới “hại nhân”, sẵn sàng làm tất cả để “lợi mình, hại người”.
Điều này cực kỳ nguy hiểm, vì nó có thể đưa đến sự chuyển hóa đối tác thành
đối tượng. Đây là sản phẩm của lối tư duy thực dụng, thiển cận, không phù hợp
với không gian quan hệ mới giữa các đối tác văn minh, hiện đại. Vì thế, trong
quan hệ giữa các đối tác, ngoài mối quan tâm về lợi ích là chủ chốt nhất, thì vấn
đề chữ “tín” đã và đang cần phải được đặt lên hàng đầu. Cần phải tín nhiệm, tin
tưởng nhau, tôn trọng nhau và chỉ có như vậy, mới trở thành đối tác thực sự của
nhau.

Như vậy, về tính chất, dưới góc độ lợi ích chung, có thể thấy đối tác và
đối tượng mang lại lợi ích đối lập nhau (trái ngược nhau) trong quan hệ với
chúng ta: đối tác mang lại lợi ích cho ta, đối tượng thì ngược lại.

5


Tuy nhiên, lợi hay hại là xét trong những quan hệ xác định, rất cụ thể, ở
những thời điểm cụ thể của những đối tác, đối tượng cụ thể. Từ đó, có thể hiểu
là: sẽ không có đối tác vĩnh viễn và cũng sẽ không có đối tượng bất biến, mãi
mãi không thay đổi. Đối tượng và đối tác có thể thay đổi tính chất, có thể
chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện, không gian và thời gian của những
quan hệ nhất định. Biện chứng của cuộc sống đòi hỏi phải khách quan, toàn diện
trong xem xét, đánh giá đối tác, đối tượng và phải biết phân tích, nắm vững
bước chuyển hoá đó để có đối sách phù hợp. Cần tránh giáo điều, siêu hình, máy
móc hay tuỳ tiện, vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tác và đối tượng. Phải
biết tranh thủ khai thác mặt đối tác, nhưng cũng luôn phải cảnh giác, đấu tranh
với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể. Cần phải lấy lợi ích căn bản
của quốc gia, dân tộc, của chủ nghĩa xã hội làm “cái bất biến” để đối phó với
“cái vạn biến” của đối tác và đối tượng. Thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt
thù”, tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Những vấn đề cần quán triệt
Từ nhưng lý luận trên, việc xác định đối tượng, đối tác trong bảo vệ
ANQG và TTATXH, lực lượng Công an cần phải quán triệt một số vấn đề sau:
+ Quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong
bảo vệ ANQG nhất là quan điểm “thêm bạn, bớt thù, tránh đối đầu nhằm tạo môi
trường hòa bình ổn định để phát triển”.
+ Chỉ xác định đối tượng đấu tranh là cá nhân, tổ chức có âm mưu hoạt
động chống lại sự nghiệp cách mạng của nước ta, không xác định một quốc gia

là đối tượng đấu tranh.
+ Khi xác định đối tượng đấu tranh phải nhận thức rõ mối quan hệ đối
tác vừa đấu tranh vừa hợp tác bảo vệ ANQG và TTATXH

6


KẾT LUẬN
Trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn
khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác
đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực
đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là
hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm
dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại
đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa
bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn;
tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Bên cạnh đó, để góp phần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn
đề đối tượng, đối tác, đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành chức năng cần phải
nghiên cứu, xây dựng nội dung phù hợp, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho từng đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Đối với các cán bộ chủ chốt và các lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc thì cần phải mở chuyên đề riêng, có sự phân tích sâu sắc, toàn diện
hơn để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ, nâng
cao sức cảnh giác, đề phòng, nhận diện được đối tượng, đối tác của ta, tạo nên
sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Mỗi cơ quan, ban,
ngành, tổ chức, doanh nghiệp,... cần phải xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa các
quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng thành các chương trình hành động,
kiểm tra, giám sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, để đóng góp cho
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.


7



×