Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

52 câu hỏi triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.49 KB, 70 trang )

Nội Dung soạn 52 câu hỏi môn Triết các bạn gửi lên đây !
Câu 4.2 Trình bày khái quát triết học Ấn Độ cổ đại; qua đó, chứng minh rằng nó là sản phẩm tinh thần
của đời sống hiện thực xã hội đó. (STT: 38)
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Triết học Ấn Độ là sự phản ánh xã hội
Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi trọng và đề cao tôn giáo, một xã hội rất mê triết lý với những đặc điểm sau:
Do chịu ảnh hưởng bởi tinhsadsfSA thần Vêđa mà Triết học Ấn độ Cổ Đại không thể phần chia rõ
ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng và phép siêu hình, mà chủ yếu chia
thành hệ thống chính thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn
có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình với
nhau, song xu hướng chung là biến đổi từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị
nguyên. Các trường phái triết học thường kế tục mà không gạt bỏ trường phái triết học trước đó
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn Độ cổ đại thường là một bộ phận
lý luận quan trọng tạo nên nộ dung giáo lý của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng
hướng nội đi sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con
người. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ Trung đại mang nặng tính chất duy tâm chủ quan và thần bí.
Triết học Ấn Độ Cổ Trung Đại đã đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề. Khi bàn đến vấn đề bản thể
luận, các trường phái xoay quanh vấn đề “tính không”, đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái
“không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao. Song, vấn đề quan tâm nhiều nhất lại là vấn đề
thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người) dưới góc
độ tôn giáo với xu hướng “hướng nội” nhằn tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát
chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khắc nghiệt.
Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống nhất ở chỗ dù trực tiếp hay
gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng
đến giải thoát; một số nguyên lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn Độ chia thành
nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy vật, mỗi trường phái là những con đường khác
nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9 trường phái:
• Sáu trường phái “chính thống” là:
+Vedanta: xuất hiện vào thế kỷ II TCN đưa ra các kiến giải siêu hình và duy tâm về nguyên nhân hình
thành thế giới (vũ trụ và vạn vật)
+ Samkhya: xuất hiện vào những năm 350250 TCN. Lý luận cơ bản của phái này là học thuyết duy


vật về bản nguyên của thế giới
+ Yoga: xuất hiện vào thế kỷ thứ II TCN. Tư tưởng triết học cốt lõi của phái này là sự thừa nhận
nguyên lý hợp nhất của vũ trụ nơi mỗi cá thể và thông qua các phương pháp yoga mà mỗi cá thể có thể
tập luyện để khai thác được sức mạnh của vũ trụ tiềm ẩn trong mình để làm chủ mình, tiến tới làm chủ
môi trường, và sau cùng, vươn tới sự giải thoát.


1


+ Mimansa: xuất hiện vào thế kỷ thứ II TCN. Mimansa đưa ra các ý kiến nhằm biện hộ, củng cố và
tuyên truyền cho các nghi thức được đề cập đến trong Vêđa nói chung, trong giáo lý đạo BàlamônHinđu
nói riêng
+ Vaisesika: xuất hiện vào thế kỷ II TCN. Nội dung tư tưởng của phái này và phái Nyaya có nhiều
điểm giống nhau. Tư tưởng chủ đạo của phái này tập trung trong nguyên tử luận, logic học và nhận thức
luận.
+ Nyaya: xuất hiện vào thế kỷ III TCN Lý luận cơ bản của phái này bao gồm 3 bộ phận là nguyên tử
luận, logic học và nhận thức luận
• Ba trường phái “không chính thống” là:
+ Lokayata: trường phái triết học vô thần, duy vật, chủ trương khoái lạc duy nhất ở Ấn Độ
+ Jaina: xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN. Tư tưởng triết học cơ bản của phái này là thuyết về sự
tương đối, cố dung hòa quan niệm về thực thể bất biến với quan niệm vô thường.
+ Buddha (Phật giáo): xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ V TCN. Kinh điển của Phạt giáo chia thành
Tam tạng (Kinh, Luật, Luận). Tam tạng lại được chia làm 2 loại là Đại thừa và Tiểu thừa. Tư tưởng triết
học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật thích ca
triết lý về cái khổ và con đường diệt khổ.
Những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Ấn Độ
cổ đại quy định. Do các điều kiện tự nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn
giáo, tâm linh, nền triết học Ấn Độ đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản chất
rất Ấn Độ, rất phương Đông.Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như các nền triết học khác đều dựa trên

những cơ sở nhất định, nó là sản phẩm tinh thần của đời sống hiện thực xã hội:
Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường phái và suy cho cùng nó phản ánh
nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tôn giáo là trung tâm điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn
Độ chủ yếu đi theo hướng tuần tự thay đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được đặt ra từ thời
cổ xưa, về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm; sự phát triển đi theo vòng tròn,
tuần hoàn. Điều này do công xã nông thôn biệt lập, khép kín ở Ấn Độ quy định. Khác với triết học Trung
Quốc, tư duy trong triết học Ấn Độ không trọng cái cụ thể, hữu hạn; họ muốn vượt cái này để đi đến cái
tuyệt đối. Sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu hóa ruộng đất là hai đặc điểm
lớn nhất, chi phối và ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt lịch sử của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát
của văn hóa và triết học. Trên cơ sở “phương thức sản xuất châu Á”, xã hội Ấn Độ được kết cấuvới ba
nhóm cơ bản: nhóm (thực chất là quan hệ gia đình, dòng họ), cộng đồng tự trị làng – xã và bang (tiểu
quốc) với chế độ đẳng cấp ngặt nghèo. Xét trong điều kiện tồn tại xã hội như vậy thì triết học của Ấn Độ
gắn chặt với vấn đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố khách quan
Quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ đã đã làm cho kết cấu xã hội giai cấp thêm phức tạp. Theo kinh điển
Bàlamôn và Bộ luật Manu của Ấn Độ, trong xã hội có bốn đặc cấp lớn: Tăng lữ; các đạo sỹ (Brahman); quý
tộc; vương công, tướng sĩ, võ sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường dân (Vaisya); nô lệ


2


và tiện dân (Ksudra). Ngoài ra còn có hạng “cùng đinh” được coi là ngoài lề xã hội (Paria).Sự phân biệt
về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội
nhưng bị kiềm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước tôn giáo.
Điều kiện địa lý của môi trường của Ấn Độ rất đa dạng, phức tạp như núi non hiểm trở, sa mạc khô
cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán liên miên; thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho
dân cư và các bộ tộc ở Ấn Độ bị phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác động, ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống, tâm tư, tình cảm của người dân Ấn Độ; điều đó đã buộc họ phải tìm đến, cầu xin
các lực lượng siêu nhiên, bên ngoài là Thượng đế cứu giúp. Các vấn đề tôn giáo, tâm linh nảy sinh, tồn

tại và phát triển trên mảnh đất hiện thực này.
Triết học Ấn Độ không chỉ nảy sinh từ những cơ sở nêu trên mà còn gắn với các thành tựu của khoa
học, kỹ thuật và văn hóa của Ấn Độ. Các biến động lớn các điều kiện về tự nhiên, về con người, về xã
hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh làm xuất hiện các trường phái trong hai hệ thống
triết học nêu trên.
Câu 23: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép chứng, nhưng
điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát triển thêm” (STT: 14)
Trả lời:
PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên hệ và sự
vận động, phát triển của thế giới vật chất.
* Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay lý luận
mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu
thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó phản ánh.
Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ bản: NL
về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển.
NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong các lĩnh
vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau:
+ Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH ràng
buộc qua lại lẫn nhau.
+ Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có MLH phổ
biến. MLH phổ biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự VĐ và PT của mọi
SV, HT, QT trong thế giới.
NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các lĩnh
vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau:
+ Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.
+ PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất do việc
giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.



3


* Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật, hiện
tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ bản sau:
1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi trường. Kết
quả của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV có một sự biến đổi nhất định, trong đó có một
vài yếu tố biến đổi trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh những yếu tố giống hay
khác nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV. MĐL tồn tại k.quan và phổ biến.
Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy MĐL kia làm điều
kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất nhau tức trong chúng chứa những yếu tố
giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong SV; là các MĐL tác động ngang nhau, tức sự thay đổi
trong MĐL này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL kia, và ngược lại.
Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu tranh với
nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và
mức độ đấu tranh của các MĐL rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đặc biệt của các
MĐL.
Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến và đa
dạng (MT bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT thứ yếu; MT trong
tự nhiên – MT trong xã hội – MT trong tư duy). Sự tác động lên bản thân sự vật là nguồn gốc, động lực
của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối gắn liền
với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay đổi của SV. MTBC
phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các MĐL chuyển từ mức độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự
đấu tranh các MĐL chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng chuyển
hóa của các MĐL. Khi đk k.quan hội đủ, một trong khả năng đó biến thành hiện thực, các MĐL tự thực
hiện quá trình chuyển hóa. MTBC sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành
cái khác. Với hai phương thức chuyển hóa như sau: MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới

và cả hai MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào đó.
Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận động và
phát triển của sự vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh thành (sự xuất hiện của các MĐL)
sanh hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL), rồi giải quyết (sự chuyển hóa của các MĐL).
MTBC được giải quyết, cái cũ mất đi cái mới ra đời với những MTBC mới hay thay đổi vai trò tác động
của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Do đó, VĐ và PT trong thế giới
vật chất là tự bản thân nó.
> Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể, xem xét những
mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất mang tính biện chứng, sự đồng nhất có chứa
đựng các yếu tố khác biệt.


4


> Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin đưa ra
một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi
hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”. Phép biện chứng là sự phát triển của nó, các
mặt đối lập và mâu thuẫn hạt nhân của phép biện chứng.
2 – QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại: Mọi SV
đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất. SV bắt đầu bằng sự thay đổi về lượng một
cách liên tục hay tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá điểm nút thì chất kg thay đổi
căn bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định
sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho chất thay một cách gián đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời.
Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng. Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về
chất gây ra sự thay đổi về lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới.
3 – QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát triển. Phát triển là
một chuỗi các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất
xảy ra bên trong SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa – tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện

PĐ của PĐ, xác lập cái cũ ở một trình độ cao hơn. PĐ của PĐ vạch ra khuynh hướng phát triển xoắn ốc
tiến lên của mọi SV trong thế giới.
* Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các chung, nguyên nhân và
kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các
phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh
các hành vi trong hoạt động của mình.

37. Định nghĩa về giai cấp của Lênin và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa (STT: 16)
C. Mác đã từng xác nhận, tình trạng phân chia xã hội thành các giai cấp không phải do ông phát hiện
mà do nhiều nhà sử học tư sản như Chie, Ghidô, Minhê phát hiện ra. Hai phát minh của C. Mác: Chủ
nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư là cơ sở lý luận khoa học, làm sáng tỏ bản chất
của quan hệ giai cấp.
Năm 1919, trong tác phẩm sáng kiến vĩ đại, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp: “Người ta gọi
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã
hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp
luật quy định và thừa nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội,
và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà


5


họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa giai cấp của V.I. Lênin có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về quan hệ giai cấp:
Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định. Giai cấp không phải là phạm trù xã hội thông thường mà là phạm trù kinh tế xã hội có tính lịch sử.
Giai cấp không phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã
hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản

chất là thể thống nhất của các mặt đối lập. Do đó không thể hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể
nếu không đặt nó trong hệ thống, tức là trong mối quan hệ với giai cấp đối lập với nó. Nói đến giai cấp là
nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế xã hội nhất định.
Trong hệ thống kinh tế xã hội đó, tập đoàn người này là tập đoàn thống trị, tập đoàn người kia là tập
đoàn bị trị. Đó là các giai cấp. Đây là đặc trưng chung nhất.
Các giai cấp có quan hệ khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất.
Đây là sự khác nhau cơ bản nhất và cũng là đặc trưng cơ bản nhất. Giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến,
tư bản là những tập đoàn giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu, do các tập
đoàn này chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội để chi phối lao động của các tập đoàn người khác, không có
tư liệu hoặc có ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất: nô lệ, nông nô, vô sản
buộc phải phụ thuộc vào các tập đoàn thống trị.
Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất.
Tập đoàn người nào (giai cấp) chiếm hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt
động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế.
Các giai cấp khác nhau về phương thức và qui mô thu nhập của cải xã hội.
Giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và lãnh đạo sản xuất, tập đoàn đó có đủ điều kiện để thực
hiện mục đích là chiếm đoạt lao động thặng dư của các giai cấp lao động. Trong xã hội nô lệ, giai cấp nô lệ
phải sống như súc vật. Trong xã hội phong kiến giai cấp nông nô chỉ được hưởng 20% của cải do mình làm
ra 80% phải cống nộp cho địa chủ và nhà nước phong kiến. Trong xã hội tư bản giai cấp công nhân và tầng
lớp trí thức làm thuê nhận được một phần sản phẩm lao động của mình dưới hình thức tiền lương.


6


Đó là tiền bán sức lao động. Ngày nay đã có nhà tư bản sở hữu tài sản với giá trị trên 50 tỷ USD, và sẽ
100 tỷ và nhiều trăm tỷ USD... Nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội tư bản tiếp tục gia tăng.
Trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng ngoài hai giai cấp cơ bản đối kháng còn có những giai
cấp, tầng lớp xã hội trung gian.
Trong cơ cấu giai cấp xã hội ở nước ta hiện nay, ngoài các giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí

thức và các tầng lớp nhân dân lao động còn có tầng lớp tư sản; tầng lớp này có điều kiện phát triển trong
nền kinh tế thị trường. Vì kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nhiều
thành phần, tầng lớp tư sản có vai trò tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đương nhiên có mâu thuẫn về lợi ích giữa những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản... Trong
điều kiện của thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay, các loại mâu thuẫn trên được coi là mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Lý luận về giai cấp của chủ nghĩa MácLênin có ý nghĩa quan trọng về phương pháp luận. Sự ra đời của
giai cấp làm cho sự phân hóa giàu – nghèo ngày càng trở nên rõ ràng, các giai cấp nhận thức rõ bản chất
của mình (giai cấp thống trị giai cấp bị trị; quan hệ bóc lột bị bóc lột; 2 giai cấp luôn đối lập nhau về lợi
ích), từ đó mâu thuẫn giai cấp ngày càng lớn, không thể có sự bình đẳng về địa vị và quyền lực cho các
giai cấp. Trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì sự vận động của các mâu thuẫn trong phương
thức sản xuất biểu hiện ra là mâu thuẫn giữa các giai cấp trong đời sống chính trị xã hội. Sự phân biệt
giai cấp là tiền đề cho đấu tranh giai cấp trong xã hội. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp cơ bản quyết
định xu thế, tính chất của sự vận động xã hội.

46. Tại sao trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta tất yếu phải xây dựng nền
tảng tinh thần của xã hội, những nội dung cơ bản của nền tảng tinh thần đó là gì?
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: Vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong
cả cộng đồng, được truyền lại, nối tiếp và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng
định vững chắc trong cấu trúc chính trị xã hội của dân tộc.


7


Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn coi văn hóa là
một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan điểm này được đề cập trong Cương lĩnh,
đường lối, chiến lược của Đảng và đã được Nghị quyết Hội nghị TW 5 Khóa VIII khẳng định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển KTXH


Khái niệm, bản chất của văn hóa :
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho đến nay văn hóa là
một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Song, có thể định nghĩa văn hóa như sau: văn
hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người
để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực : chân, thiện, mỹ nhằm
duy trì sự tồn tài và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động
nhằm tạo ra những giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự
hình thành nhân cách con người.Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng
thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Hoạt động văn hóa là hoạt động sản xuất ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần nhằm giáo
dục con người khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và khả năng sáng tạo ra chân, thiện,
mỹ trong đời sống. Với ý nghĩa đó thì văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù
đó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp, ứng xử xã hội
trong thái độ ứng xử với thiên nhiên.
Văn hóa có 7 thuộc tính : một là văn hóa mang tính lịch sử, hai là văn hóa mang tính truyền thống do
những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang
thế hệ khác, ba là văn hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ ở bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa nói lên đặc
điểm của một dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của 1 dân tộc, bốn là văn hóa mang tính giá
trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần), năm là văn hóa bao giờ mang tính nhân sinh, chỉ có con
người mới sáng tạo văn hóa và hoàn thiện mình thông qua môi trường văn hóa, sáu là văn hóa mang tính
phát sinh và bảy làtrong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển:Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con
người. Trong thời đại ngày nay, việc phát huy tiềm năng sáng tạo của con người có tầm quan trọng đặt biệt,
tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo
lý, lối sống, thị hiếu, trình độ thẫm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng
văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người ngày càng cao thì khả năng phát triển



8


kinh tế xã hội càng lớn. Do vậy, đối với một nền kinh tế, muốn phát triển bền vững thì động lực không
thể thiếu là phát triển văn hóa.
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng
đồng dân tộc Việt Nam vượt qua sóng gió và thác ghềnh để tồn tại và không ngừng phát triển. Vì vậy,
chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn
hóa trở thành nến tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội
+ Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của một
dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời cội nguồn.
Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân
tộc là văn hóa.
+ Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không
chỉ do các nhân tố kinh tế thuần túy tạo ra, mà nó còn do các giá trị văn hóa đang được phát huy.
+ Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự
tăng trưởng kinh tế là trí tuệ. Vì vậy, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít tài
nguyên và lao động mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiếm năng sáng tạo của
nguồn lực con người hay không. Tiềm năm sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa.
+ Trong nề kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để
hướng dẫn và thúc đẩy người lao động. Mặt khác văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,
của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ….
+ Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống chạy theo
ham muốn quá mức của đời sống “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm
môi trường.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển:Văn hóa thể hiện trình dộ phát triển về ý thức, trí
tuệ, năng lực sán tạo của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo
của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực của toàn xã hội.

+ Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.
+ Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia.
Nhất là các nước vốn trước đây là thuộc địa thì việc giải quyết vấn đề này lai có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, trong nhân thức và hành động, mục tiêu kinh tế thường lấn át mục tiêu văn
hóa và được đặt ở vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển.
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng
xã hội mới.


9


Việc phát triển kinh tế xã hội cần đến những nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiện, vốn,… nhưng
các tài nguyên thiên nhiên này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới
là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cãn kiệt. các nguồn lực khác sẽ được
sử dụng có hiệu quả khi nguồn lực co người có chất lượng cao.

Câu 41: PHÂN TÍCH NHỮNG DẤU HIỆU NHẬN BIẾT CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
VỚI TƯ CÁCH LÀ GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN. (STT 54)
I/ Khái niệm nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất
của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
II/ Dấu hiệu nhận biết cơ bản của nhà nước pháp quyền.
1.

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự ngự trị tối cao của pháp

luật.

Với hình thức tổ chức xã hội theo mô hình nhà nước pháp quyền thì pháp luật phải trở thành tiêu
chuẩn và căn cứ căn bản nhất, cao nhất trong mọi hoạt động của bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội
và mỗi công dân.
Đây là dấu hiệu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nước nào đó có phải là nhà
nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào.
Tính pháp quyền của hình thức tổ chức nhà nước pháp quyền phải là cao nhất ngay cả đối với chủ thể
quyền lực mặc dù chủ thể quyền lực đặt ra pháp luật.
2.

Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước thể hiện được

lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân.
Dấu hiệu này cho thấy mỗi cá nhân trong xã hội được tổ chức theo hình thức nhà nước pháp quyền
đều có tư cách công dân và tư cách là cá nhân tự do. Với tư cách công dân, mỗi cá nhân buộc phải có
nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định của luật pháp; với tư cách cá nhân tự do, mỗi cá nhân có quyền làm
bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm những hành vi cá nhân và các tổ chức chính
trị, xã hội nào xâm hại tới lợi ích của các cá nhân và các tổ chức khác cũng như lợi ích của xã hội. Như
vậy, nó mở rộng phạm vi hoạt động tự do sáng tạo của mỗi cá nhân, và mỗi tổ chức trong xã hội.


10


3. Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự đảm bảo thực tế mối quan
hệ hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân.
Quyền của công dân thuộc về trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà nước thuộc về
trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp
luật của mình, làm phương hại đến lợi ích của công dân, của các tổ chức trong xã hội. Ngược lại, công
dân và các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của
mình theo quy định của pháp luật.

44. Phân tích mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, tại sao tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng là hai giai đoạn thấp và cao của ý thức xã hội nhưng tâm lý xã hội lại không trực tiếp sinh
ra hệ tư tưởng? (STT:16)
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của con người, của một
bộ phận xã hội hoặc toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày
của họ và phản ánh đời sống đó.
Tâm lý xã hội có đặc điểm: phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội, nhưng đó là trình độ phản ánh thấp,
phản ánh tự phát tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngoài của xã hội nên nó không
vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người ở
trình độ tâm lý xã hội mang tính chất kinh nghiệm, yếu tố trí tuệ đan xen với yếu tố tình cảm chưa
thể hiện về mặt lý luận. Nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển ý thức xã hội.

Hệ tư tưởng là trình độ cao của ý thức xã hội, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về
những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật,
vào các mối quan hệ xã hội.
Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm tư tưởng (chính
trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo) là kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm
xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác, nghĩa là nó được hình thành tự giác bởi
các nhà khoa học và được truyền bá trong xã hội.


11


Khi nghiên cứu về hệ tư tưởng cần có sự phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không
khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã
hội. Còn hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất xã hội nhưng
dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc khách quan.
Là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của khoa học.
Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác động rất quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là vai

trò của tư tưởng triết học trong quá trình khái quát tài liệu.
Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội.
Hệ tư tưởng và tâm lý xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức
xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cả hai đều có nguồn gốc tự tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong đó, tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây
trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất
định (tâm lý, tình cảm giai cấp là điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư
tưởng của giai cấp). Mối liên hệ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với tâm
lý xã hội, với sự sinh động phong phú của đời sống thực tiễn sẽ giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng,
giảm sai lầm.
Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng
khoa học sẽ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng đúng đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng phản
khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã
hội.
Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng thừa kế các học
thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó. Thí dụ, tư tưởng tôn giáo ở thời
kỳ phong kiến thể hiện lợi ích của giai cấp phong kiến nhưng lại được bắt nguồn trực tiếp từ
những tư tưởng duy tâm thời cổ đại và những tư tưởng đạo Cơ đốc thời kỳ đầu công nguyên. Sự
ra đời phát triển của tư tưởng triết học Mác, cũng không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai
cấp công nhân lúc đó, mà là sự khái quát lý luận từ kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp


12


công nhân, phản ánh điều kiện kinh tế xã hội lúc đó, khái quát các tri thức của nhân loại, kế thừa
trực tiếp từ các học thuyết triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học ở thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX…
Rõ ràng, hệ tư tưởng xã hội liên kết hữu cơ với tâm lý xã hội, nhưng nó không đơn giản là sự “cô

đặc” tâm lý xã hội.
CÂU 48: Định nghĩa vể bản chất con người của C.Mác dùng để chỉ bản chất riêng từng cá nhân
con người hay dùng để chỉ chung bản chất của cả giống loài người, tại sao?
Định nghĩa vể bản chất con người của C.Mác dùng để dùng để chỉ chung bản chất của cả giống loài
người.
Quan điểm của Mác Lênin về bản chất con người:con người là một thực thể thống nhất giữa hai mặt
sinh vật và xã hội. Theo quan điểm duy vật, lịch sử tồn tại và phát triển của con người luôn chịu sự chi
phối tác động bởi 3 loại qui luật sau: quy luật sinh học, quy luật tâm lý ý thức, quy luật xã hội.
Trong “ Luận cương về Phơbách”, Mác đã khẳng định về bản chất con người: “Bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt , trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Với định nghĩa này, Mác đã đưa ra phạm trù “con người thực
tiễn” không phải là cái nhìn trừu tượng mà là cụ thể cảm tính, được đặt vào trong hoạt động sản xuất
thực tiễn, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với tự nhiên, xã hội. Con người là một sinh vật,
cũng có nghĩa con người là một bộ phận của tự nhiên, gắn bó với quá trình hình thành và phát triển của
tự nhiên. Song đó là một thực thể tự nhiên luôn hoạt động và chứa đựng trong mình những khả năng to
lớn về sự phát triển . Bản chất con người không phải là cái bất biến mà nó luôn được phát triển theo sự
tiến bộ của lịch sử. Vì vậy, mỗi thời đại khác nhau sẽ có những mẫu người khác nhau.
Theo Mác thì con người là kết quả của lịch sử phát triển vật chất – giới tự nhiên. Trong “Bản thảo
kinh tế triết học” – 19844 C.Mác viết: “Con người là một sinh vật có “tính loài” giới tự nhiên là thân thể
vô cơ của con người… Vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”. Con người muốn phát triển và
tham gia vào các hoạt động xã hội, trước hết phải tồn tại, phải được thỏa mãn các tiền đề về tự nhiên như
một cá thể sinh vật – xã hội.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×