Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.89 KB, 15 trang )

PHÒNG GD & ĐT KÔNGCHRO
TRƯỜNG TH-THCS LÊ QUÝ ĐÔN

@&?

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
RÈN KỸ NĂNG ĐỌC ĐÚNG
CHO HỌC SINH LỚP 1

Người thực hiện : Trịnh Thị Hương
Chức vụ : Giáo viên
Năm thực hiện : 2016 – 2017

@&?
-1-


A. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Hầu hết giáo viên dạy lớp một ở vùng khó khăn đều rất trăn trở về chất
lượng học tập của học sinh. Vì hiện nay vẫn còn một số trẻ em không vào
mẫu giáo, phụ huynh thì bận rộn với công việc làm ăn nên việc nhắc nhở các
em học ở nhà rất hạn chế, thậm chí có phụ huynh còn khoán trắng cho nhà
trường. Điều này chứng tỏ sự thiếu quan tâm của cha mẹ, về nhà các em
không được nhắc nhở thường xuyên, cho nên việc rèn kỹ năng đọc ở nhà
không có, vì đặc điểm của trẻ “mau nhớ, chóng quên”. Do đó chất lượng của
học sinh không đạt yêu cầu như giáo viên mong muốn.
Việc rèn đọc cho học sinh vẫn có ý nghĩa rèn luyện về ngôn ngữ vừa có
ý nghĩa bồi dưỡng về văn học. Nó không chỉ có tác dụng trước mắt mà còn
có tác dụng lâu dài. Đọc đúng học sinh sẽ có cơ sở hiểu đúng, viết đúng. Đọc
đúng còn giúp cho người khác hiểu bài các em đọc. Đọc đúng còn giúp các


em trong học tập môn khác, hiện nay cũng như trong sinh hoạt và công tác
sau này khi các em lớn lên. Vì vậy mà kỹ năng đọc được xem là một tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng học tập của học sinh Tiểu học nói chung và học
sinh lớp một nói riêng.
Nhưng trước hết là vấn đề kỹ năng, không phải cứ biết chữ là học sinh
nào cũng có thể đọc đúng. Muốn đọc đúng thì các em phải luyện đọc theo
đúng quy tắc hướng dẫn. Đó là vấn đề luôn luôn đặt ra cho người giáo viên.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết .
Kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành
tốt ở các em sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển
tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của
tiếng, từ mình vừa đọc, hiểu được các lệnh, các yêu cầu trong các môn học
khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc
trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn.
Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “ Một số giải pháp rèn kỹ năng

-2-


đọc đúng cho học sinh lớp Một ” để nghiên cứu, tìm tòi nhằm góp một phần
nào cho việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp một .

-3-


B. NỘI DUNG:
1. Thực trạng của vấn đề :
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản
hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện
kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau

thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau
cùng là đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn .
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ,
đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu
các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi,
và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu mà các em viết.
2. Tình hình học sinh qua khảo sát đầu năm :
- Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học
sinh không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân,
lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo…
- Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và
kết quả điều tra đầu năm của hai năm học 2014-2015 và năm học 2015–
2016 thu được như sau:
Sĩ số
Năm học
2014-2015
2015-2016

Chưa

học sinh

Biết

Đọc

20
23

đọc

0
0

chậm
4
6

biết
Tỉ lệ
20%
26%

đọc
16
17

Ghi
Tỉ lệ
80%
74%

chú

Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng
chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lý
do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học
tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối
tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho

-4-



học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi
và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh
tôi đã có những biện pháp cụ thể sau .
3. Các biện pháp tổ chức và thực hiện :
* Với yêu cầu rèn đọc của học sinh tiểu học mà chương trình đã quy định
mức độ cho từng khối lớp. Để đạt được chất lượng và kỹ năng đọc ở lớp 1
tôi tập trung việc rèn luyện kỹ năng mỗi học sinh như thế nào để đạt được
yêu cầu của học sinh lớp 1.
- Đọc đúng và rõ ràng
- Có ý thức phát âm.
- Đọc to đọc thầm.
* Muốn rèn luyện kỹ năng cho học sinh được tốt trước hết phải chú ý đến
việc đọc mẫu của giáo viên. Qua việc đọc mẫu của giáo viên các em có thể
bắt chước đọc đúng và từ phát âm đến giọng đọc. Đồng thời người giáo viên
phải biết kết hợp nhiều biện pháp và sử dụng hợp lý các phương pháp mới có
chất lượng cao.
Việc luyện đọc cho học sinh ở nhiều cách mà trước hết là rèn cho học
sinh phát âm đúng: Một từ, một cụm từ, cách ngắt nghỉ hơi, luyện đọc một
câu văn. Luyện đọc một câu, một bài văn.
a) Việc đầu tiên mà tôi thực hiện là rèn cho học sinh đọc đúng . Việc
đọc đúng tôi tiến hành từng bước để chỉnh sửa, uốn nắn.
- Bước 1: Rèn cho học sinh phát âm đúng ( Đúng phụ âm đầu, đúng vần,
đúng phụ âm cuối, đúng dấu thanh)
- Bước 2: Luyện cho học sinh đọc đúng một số từ khó. Bước này tôi
dựa vào trình độ của lớp tôi, tôi đã chọn một số từ ngữ cần luyện đọc hoặc
cho các em tự phát hiện từ ngữ khó.
- Bước 3: Luyện cho học sinh đọc đúng cụm từ khó


-5-


Luyện cho học sinh đọc đúng một số cụm từ khó để tiến hành tốt khâu
này. GV phải phát âm đọc mẫu chuẩn xác với với cường độ cho học sinh
nghe rõ ràng, tốc độ vừa đủ cho học sinh nghe kịp và hiểu được
b) Luyện cho học sinh đọc bằng mắt:
- Việc này tôi hướng dẫn học sinh không đánh vần từng chữ, cũng không
phải đọc thầm trong miệng mà có thể nhìn bằng mắt lướt qua các tiếng từ
đó đọc trọn được một câu.
- Thực hiện điều này tôi hướng dẫn học sinh dùng que tính chỉ lướt theo
các chữ đang đọc và đồng thời cô cũng đọc thầm theo để phát hiện học sinh
không đọc cũng giơ tay.
c) Luyện cho học sinh đọc diễn cảm.
- Trong khi hướng dẫn học sinh luyện đọc tôi kết hợp hướng dẫn các em
biết sắc thái tình cảm khác nhau của một bài văn khi phân vai, mỗi nhân vật
sắm vai phải thể hiện được giọng đọc của từng vai theo nội dung bài để đọc
to giọng hay đọc nhẹ nhàng vừa phải, đọc chậm theo đúng nhịp điệu thích
hợp, tạo được âm hưởng của đoạn văn, bài thơ, bài văn.....
-Ví dụ: Khi dạy bài" Mưu chú Sẻ " tôi hướng dẫn học sinh thể hiện
cách phân vai như sau:
Giọng người dẫn chuyện: Giọng kể hồi hộp, căng thẳng.
Buổi sớm, một con Mèo chộp được một chú Sẻ. Sẻ hoảng lắm nhưng
nó nén sợ, lễ phép nói:
Vai Sẻ: Nhẹ nhàng, lễ độ
Thưa anh, tại sao một người sạch sẽ như anh trước khi ăn sáng lại
không rửa mặt ?
Người dẫn chuyện: Thoải mái.
Nghe vậy, Mèo bèn đặt Sẻ xuống, đưa hai chân lên vuốt râu, xoa mép.
Thế là Sẻ vụt bay đi. Mèo rất tức giận nhưng đã muộn mất rồi.

d) Luyện cho học sinh có ý thức về ngữ điệu khi đọc.

-6-


- Sau này tôi hướng dẫn học sinh đọc bài ứng dụng ( Trong phần học
vần) hay bài tập đọc trong phần luyện tập tổng hợp. Hướng dẫn luyện đọc
nhiều lần các câu dài có nhiều dấu phẩy hoặc những câu có những chỗ cần
ngắt giọng theo yêu cầu nội dung bài, cũng cần rèn cho học sinh đọc các câu
hỏi, câu cầu khiến, câu cảm.
Ví dụ: Khi cho học sinh luyện đọc các câu trong " Bàn tay mẹ" tôi tập
trung rèn luyện cho học sinh đọc các câu sau và chỉ rõ những chỗ cần ngắt
hơi ( Có kí hiệu /,// ) .
Bình yêu nhất / là đôi bàn tay mẹ //. Hằng ngày / đôi bàn tay của mẹ /
phải làm biết bao nhiêu là việc //.
Đi làm về /, mẹ lại đi chợ /, nấu cơm //. Mẹ còn tắm cho em bé/ giặt một
chậu tã lót đầy //.
Từ việc hướng dẫn cụ thể như vậy, học sinh biết ngắt nghỉ hơi đúng
chỗ, nên giọng đọc chuẩn xác, có ý thức phát âm tốt.
Trong khi tiến hành luyện đọc cho các em. Tôi thường tổ chức cho các
đọc nối tiếp các câu trong bài. Khi tổ chức hình thức này tôi thường qui định
các em ngồi cùng dãy ( ngang, dọc ) tự động đọc, tôi có thể linh hoạt khi thì
gọi em đầu tiên theo dãy dọc, lúc thì gọi em ngồi phía bên trái theo dãy hàng
ngang. Bằng cách này tôi yêu cầu tất cả học sinh trong lớp phải chú ý bạn
khác đọc.
Cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em thi đọc diễn cảm hay
học thuộc lòng một đoạn thơ, đoạn văn theo nhiều hình thức như cá nhân, tổ,
nhóm.
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh
đọc trơn tốt đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là

các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết
tốt. Còn các em nhận biết chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất
chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế
đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn,
-7-


giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ
ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn
đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại , thụ động của học sinh . Giáo viên nên
cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn
lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn
tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Ví dụ : Dạy bài tập đọc Trường Em (Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 Tập
II )
+ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh
vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
Giáo viên: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì ? Có dấu
thanh gì?
Học sinh: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh
huyền.
Giáo viên: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
Học sinh: Trờ - ương – trương – huyền – trường.
Giáo viên: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Học sinh: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: Trường em.
+ Học sinh không đọc được tiếng trường , Giáo viên nên cho học sinh
ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
Giáo viên: Vần ương gồm có mấy âm?
Học sinh: Vần ương gồm có hai âm. Âm đôi ươ và âm ng.

Giáo viên: Vị trí các âm trong vần thế nào?
Học sinh: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
Giáo viên: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
Học sinh: Ươ- ng- ương, ương
Giáo viên: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên âm ơ .Ta
đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
-8-


Học sinh: Trờ - ương – trương- huyền – trường, trường
Và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần
nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
4. Những phương tiện dạy học :
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham
học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết
dạy như sau:
- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em
quan sát tìm hiểu.
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy.
5 . Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học:
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy
nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương
pháp nào được coi là tối ưu, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt
nhiều phương pháp để giúp học sinh mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là
một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
a) Phương pháp đàm thoại, vấn đáp:
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự
hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
Ví dụ : - Âm này là âm gì ? ( âm a, o,b,c, d….)

+ Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào ?
( chờ- anh- chanh) .
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe,
nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu . Hãy ôn tồn dẫn
dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ , từng tiếng, từng
câu trong mỗi ngày.
b) Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh:

-9-


Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh
đọc chậm, để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh đọc tốt tôi
thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn . Còn đối với học sinh
đọc chậm còn đánh vần tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em
sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như ở
nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em
đọc chậm còn đánh vần lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô . Tôi giành
nhiều thời gian cho đối tượng này hơn . Cùng đọc bài với các em trong giờ ra
chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các
em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần
quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú
và cố gắng hơn.
c) Phương pháp học nhóm :
Như đã nói ở trên , tôi cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chậm ,
còn đánh vần em đọc tốt ngồi gần em đọc chậm để giúp bạn học tâp ở lớp.
Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho em đọc chậm đem sách
đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn đọc tốt gần nhà nhất và cho bạn đọc
tốt báo cáo với cô: chiều hôm qua bạn A có đến để học bài với em hay
không? Nếu có sẽ được cô khen bạn A ngoan, nếu không cô sẽ giữ bạn A lại

để học với cô trong giờ ra chơi hoặc về muộn hơn so với các bạn để học bù
lại.
d) Phương pháp tổ chức các trò chơi :
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng
tham gia. VD trò chơi “Ai nhanh – Ai đúng” . Giáo viên ghi một số từ vào
các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng ba từ
liên tiếp sẽ được cả lớp khen và tôi thường hay chọn các học sinh đọc chậm
để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các
em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
đ) Phương pháp nhận xét nêu gương:
- 10 -


Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh
đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh học chậm
,đọc chưa trôi chảy còn đánh vần , để dẫn dắt các em cố gắng hơn cho kịp
bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn đọc đúng ,đọc nhanh trong
lớp.
VD: Bạn Khôi, bạn Quốc Đạt đọc tốt ,đọc hay vì các bạn ấy rất chăm
chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và
luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt , đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với
nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng
sẽ đọc tốt và hay như các bạn ấy .Nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn :
đọc chưa thông , đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm nhẩm xong đọc to
lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc
được ngay mới thôi.
6. Những kết quả đạt được :
- Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ
năng đọc cho học sinh lớp 1. Cuối mỗi năm học tôi đã thu về được những
kết quả đáng khích lệ như sau :

Năm học

Sĩ số

Chưa

học
2014-2015
2015-2016

sinh
20
23

Đọc tốt
18
22

Đọc

biết

Tỉ lệ
chậm Tỉ lệ
90%
2
10%
95,7%
1
4,3%


đọc
0
0

Ghi
Tỉ lệ

chú

* Nhận xét: Sau khi áp dụng một số biện pháp, phương pháp trên để
rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 tỷ lệ học sinh trong quá trình luyện đọc.
Tôi đã thấy học sinh có sự tiến bộ rõ rệt so với những năm học trước kia .
- Đây cũng là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự
kiên nhẫn của giáo viên đứng lớp.

- 11 -


C. KẾT LUẬN :
- Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng ,từ, câu,
đoạn, bài vv… Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy,
dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác từng tiếng
,từng từ ,câu ,đoạn trong bài … để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến
sai lỗi chính tả. Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả
cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh,mặt yếu của
học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
- Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần
truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng

dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới
phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi
cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng
dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị
dạy học.
- Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo
cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học
tập.Khi học mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và
vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
- Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn
nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi
các em hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh
phải tiến bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn
đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch
cho mình ngay từ đấu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình
với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi
nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với
học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng,
- 12 -


nhẫn nại, chịu khó v.v… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm
nay và mai sau.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ trong công tác giảng dạy mà bản
thân tôi đúc kết sau gần 20 năm làm công tác giảng dạy ở các trường có
nhiều học sinh là người dân tộc thiểu số mà bản thân đã thực hiện tại đơn vị
và đã đem lại được một số kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục thông qua việc rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh dân tộc thiểu số.
Những kinh nghiệm mà tôi thực hiện và viết ra đây có thể không mới nhưng
tôi đã vận dụng những giải pháp đưa ra một cách sáng tạo, tuân thủ nghiêm

túc nên nó đem lại hiệu quả như bản thân mong muốn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các tổ chức đoàn thể, các tổ khối trong nhà
trường đã phối kết hợp để có được kết quả này đặc biệt này .Tôi xin cảm ơn
đội ngũ giáo viên đã thực hiện tốt những kế hoạch, nhiệm vụ được giao và có
ý thức đổi mới phương pháp dạy học phù hợp, luôn tìm những giải pháp tối
ưu để rèn cho học sinh những hiệu quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên đây chỉ là
những kinh nghiệm thực tế của bản thân áp dụng ở một đơn vị có điều kiện
đặc biệt khó khăn, quá trình thực hiện ghi chép lại còn nhiều thiếu sót, chưa
thực sự đầy đủ và khoa học. Rất mong sự đóng góp chân thành của hội đồng
khoa học để đề tài này được hoàn chỉnh hơn .
Xin chân thành cảm ơn!
Yang Trung ; Ngày 15 tháng 10 năm 2016
Người viết sáng kiến

Trịnh Thị Hương

- 13 -


Mục lục
Nội dung
A. ĐẶT VẤN ĐỀ .

Trang
2-3

B. NỘI DUNG

4


1.Thực trạng của vấn đề

4

2. Tình hình học sinh qua khảo sát đầu năm

4

3. Các biện pháp tổ chức và thực hiện

5

4. Những phương tiện dạy học
5. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học

9

6. Những kết quả đạt được

11

C . KẾT LUẬN

12

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 14 -


1.


Tài liệu tăng cường tiếng Việt

2.

Sách Tiếng Việt lớp 1.

3.

Tài liệu hướng dẫn giảng dạy môn tiếng Việt .

4.

Chương trình chuẩn kiến thức kỹ năng

5.

Các văn bản hướng dẫn thực hiện tăng cường Tiếng Việt của Bộ và

sở Giáo dục – Đào tạo.
6.

Sách tham khảo tiếng Việt 1

7.

Sách giáo viên tiếng Việt 1

- 15 -




×