BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ PHƯƠNG HOA
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
THỰC PHẨM CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ PHƯƠNG HOA
THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
THỰC PHẨM CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Vân Anh
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi, có sự hỗ trợ, giúp đỡ từ Giảng viên hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Thị Vân
Anh.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn
Lê Phương Hoa
DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
An toàn thực phẩm
An toàn vệ sinh thực phẩm
: ATTP
: ATVSTP
Bộ Y tế
Luật Quảng cáo
Luật Thương mại
Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng
: BYT
: LQC
: LTM
: Nghị định số 181/2013/NĐ-CP
11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Quảng cáo
Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng : Nghị định số 158/2013/NĐ-CP
11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực Văn hóa,
Thể thao, Du lịch và Quảng cáo
Nghị định số số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 : Nghị định số 38/2012/NĐ-CP
tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực
phẩm
Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 : Nghị định số 71/2014/NĐ-CP
năm 2014 của Chính phủ Quy định chi tiết
Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh
Quảng cáo thực phẩm chức năng
: QCTPCN
Thông tin và Truyền thông
: TT&TT
Thông tư số 09/2015/TT-BYT ngày 25 tháng : Thông tư số 09/2015/TT-BYT
5 năm 2015 của Bộ Y tế về xác nhận nội dung
quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa dịch vụ
đặc biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế
Thông tư số 10/2013/TT- BVHTTDL ngày 06 : Thông tư số 10/2013/TTtháng 12 năm 2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao BVHTTDL
và Du lịch quy định chi tiết và hướng dẫn thực
hiện một số điều của Luật Quảng cáo và Nghị
định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11
năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Quảng cáo
Thông tư số 19/2012/TT-BYT ngày 09 tháng : Thông tư số 19/2012/TT-BYT
11 năm 2012 của Bộ Y tế hướng dẫn việc
công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định
an toàn thực phẩm
Thông tư số 43/2014/TT-BYT ngày 24 tháng : Thông tư số 43/2014/TT-BYT
11 năm 2014 của Bộ Y tế quy định về quản lý
thực phẩm chức năng
Thực phẩm chức năng
Uỷ ban nhân dân
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
: TPCN
: UBND
: VHTT&DL
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số liệu vi phạm trong hoạt động quảng cáo thực phẩm chức
năng từ quý I/2015 đến quý I/2016
48
Bảng 2: Danh sách Công ty vi phạm về quảng cáo thực phẩm chức
năng trong 6 tháng đầu năm 2017
Biểu đồ 1: Tỷ lệ số người xem quảng cáo thực phẩm chức năng nghe
được khuyến cáo “Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác
49
dụng thay thế thuốc chữa bệnh”
Biểu đồ 2: Thái độ của người tiêu dùng khi mua phải thực phẩm chức
năng không giống với quảng cáo
43
60
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THỰC
PHẨM CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM
6
1.1. Khái quát về thực phẩm chức năng và quảng cáo thực phẩm
6
chức năng
1.1.1. Khái niệm thực phẩm chức năng và các loại thực phẩm chức năng
6
1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của quảng cáo thực phẩm chức năng
11
1.1.3. Tác động của quảng cáo thực phẩm chức năng đối với xã hội
12
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức
năng ở Việt Nam
14
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo thực phẩm
14
chức năng ở Việt Nam
1.2.2. Nội dung pháp luật hiện hành về quảng cáo thực phẩm chức năng
16
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thi hành pháp luật về quảng cáo
thực phẩm chức năng
33
1.3.1. Nhận thức, ý thức pháp luật của chủ quảng cáo và người tiếp nhận
quảng cáo
33
1.3.2. Năng lực của các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về quảng
36
cáo thực phẩm chức năng và cơ quan có liên quan
1.3.3. Hệ thống pháp luật quảng cáo thực phẩm chức năng
36
1.3.4. Thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật quảng cáo thực phẩm chức năng
37
1.3.5. Sự phát triển của kinh tế - xã hội và khoa học – công nghệ
38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
QUẢNG CÁO THỰC PHẨM CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
40
2.1. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của việc thực thi pháp luật
về quảng cáo thực phẩn chức năng ở Việt Nam
40
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong việc thực thi pháp luật về quảng
cáo thực phẩm chức năng
40
2.1.2. Những hạn chế trong việc thực thi pháp luật về quảng cáo thực
phẩm chức năng và nguyên nhân của những hạn chế
48
2.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
66
về quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam
2.2.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức
năng
66
2.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quảng cáo
thực phẩm chức năng
67
KẾT LUẬN
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Quảng cáo ra đời là một tất yếu của quá trình vận động, phát triển của thị
trường. Theo các tài liệu ghi lại, cha đẻ của hình thức quảng cáo là một người Ai
Cập cổ với tờ thông báo đầu tiên trên tường thành Thebes vào khoảng 3000 năm
trước Công nguyên, sau đó hình thức này dần trở nên phổ biến1. Qua nhiều năm,
quảng cáo ngày càng phát triển và trở thành công cụ quan trọng trong việc quảng bá
sản phẩm của các công ty, doanh nghiệp.
Với sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhu cầu về các sản phẩm có tác dụng
bồi bổ chất dinh dưỡng, tăng cường sức khỏe của công chúng ngày càng tăng lên.
Do đó công chúng rất quan tâm tới thực phẩm chức năng, đặc biệt là những tác
dụng và công dụng của chúng. Đây là nguyên nhân khiến thị trường sản xuất và
kinh doanh thực phẩm chức năng bùng nổ, phát triển mạnh. Bằng việc sử dụng công
cụ quan trọng là quảng cáo, các công ty và doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm
chức năng đã đưa sản phẩm của mình ra thị trường và tiếp cận người tiêu dùng
thuận lợi, nâng cao vị thế cạnh tranh, xây dựng chỗ đứng cho chính doanh nghiệp
của mình. Tuy nhiên, nắm bắt được tâm lý của người tiêu dùng và thấy được những
lợi thế của quảng cáo, nhiều chủ thể kinh doanh đã lợi dụng quảng cáo để thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thu lợi bất
chính.
Trước tình trạng trên, quản lí hoạt động quảng cáo thực phẩm chức năng cần
đặc biệt chú trọng và pháp luật chính là công cụ hữu hiệu mà Nhà nước sử dụng.
Trong quá trình thực thi, mặc dù pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng phát
huy hiệu quả nhưng đã bộc lộ những hạn chế. Để pháp luật về quảng cáo thực phẩm
chức năng phát huy vai trò bảo vệ người tiêu dùng, doanh nghiệp kinh doanh, sản
xuất thực phẩm chức năng và Nhà nước, cần phát huy những ưu điểm đồng thời
khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực thi pháp luật. Với sự cấp
thiết này, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực tiễn thi hành pháp luật về quảng
cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến thời điểm hiện tại, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về pháp luật
quảng cáo có ý nghĩa với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật như:
1
cập 15/6/2017
2
- “Pháp luật về hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp” do Tiến sĩ Phạm
Duy Nghĩa viết trong sách tham khảo “Pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền ở Việt Nam” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Đây là
công trình nghiên cứu lớn đối với các doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động
quảng cáo nhằm quảng bá thương hiệu, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đào Tuyết Vân “Pháp luật quảng
cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” được thực hiện tại Đại học Luật
Hà Nội năm 2007. Công trình nghiên cứu về quảng cáo nhưng đi sâu vào vấn đề
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tập trung nghiên cứu pháp luật quảng cáo có
đối tượng người tiêu dùng. Luận văn nêu được quy định của pháp luật về quảng cáo
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đề xuất phương hướng, đồng thời đưa
ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật quảng cáo, bảo vệ tối đa quyền lợi người
tiêu dùng.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về dịch vụ quảng cáo trên truyền
hình ở Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung thực hiện tại Đại học Quốc gia
Hà Nội. Luận văn nghiên cứu về một phương tiện quảng cáo cụ thế - truyền hình.
Là phương tiện phổ biến nhất hiện nay và được nhiều doanh nghiệp lựa chọn, quảng
cáo trên truyền hình khẳng định được lợi thế của mình. Tác giả đã tập trung phân
tích thực trạng pháp luật về quảng cáo dịch vụ trên truyền hình, các quy định về hợp
đồng dịch vụ quảng cáo trên truyền hình.
- Luận văn Thạc sĩ “Các yếu tố tác động đến ý định mua thực phẩm chức
năng của khách hàng: Nghiên cứu trường hợp tại thành phố Hồ Chí Minh” do
Nguyễn Nhật Hùng thực hiện tại trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
năm 2013 đã chỉ ra những yếu tố tác động đến ý định mua thực phẩm chức năng của
người tiêu dùng và khẳng định quảng cáo thực phẩm chức năng là một trong những
yếu tố đó. Luận văn cũng đưa ra những sai phạm trong quảng cáo thực phẩm chức
năng của các doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục.
- Kỉ yếu của Hội thảo “Bảo vệ người dùng sử dụng Thực phẩm chức
năng” diễn ra ngày 29/12/2015 được tổ chức tại Hà Nội nêu ra thực trạng công tác
quản lý các vấn đề liên quan đến thực phẩm chức năng như sản xuất, kinh doanh,
tiêu thụ và quảng cáo.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Chế tài đối với các vi phạm pháp luật trong
quảng cáo thương mại ở Việt Nam” do Dương Văn Thực thực hiện năm 2016 tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của
3
các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong quảng cáo thương
mại ở nước ta, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong quảng cáo
thương mại ở Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ “Quảng cáo mỹ phẩm dưới góc độ pháp luật thương
mại ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Vân Anh thực hiện năm 2012 tại trường Đại
học Luật Hà Nội là công trình nghiên cứu đầu tiên về quảng cáo một sản phẩm đặc
thù chịu sự quản lý của Bộ Y tế. Luận văn nêu được chi tiết pháp luật về quảng cáo
mỹ phẩm nhìn nhận dưới góc độ pháp luật thương mại, pháp luật cạnh tranh, pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đồng thời nêu ra thực trạng thi hành pháp
luật về quảng cáo mỹ phẩm qua đó đánh giá được những ưu điểm, hạn chế để đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi.
Như vậy, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quảng cáo, cũng có
những công trình nghiên cứu pháp luật quảng cáo về một sản phẩm, dịch vụ đặc thù
nhưng chưa có công trình riêng biệt nghiên cứu quá trình thực thi pháp luật về
quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam - công trình nghiên cứu có tính ứng
dụng với ý nghĩa nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và thực hiện pháp luật về
quảng cáo thực phẩm chức năng.
3.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
quảng cáo thực phẩm chức năng và thực tiễn thi hành pháp luật về quảng cáo thực
phẩm chức năng trên thực tế.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng,
tác giả tập trung đánh giá việc áp dụng pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước, quá
trình thực hiện các quy định pháp luật của các doanh nghiệp, thái độ người tiêu
dùng đối với việc thực thi pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng trên cơ sở
đối chiếu với thực tiễn trên phạm vi một vài địa phương cụ thể, một số vấn đề đối
chiếu trong phạm vi cả nước trong khoảng thời gian từ 2011 đến hết tháng 6 năm
2017 tùy vào từng số liệu.
4.
4.1.
Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
4
Luận văn tập trung làm rõ nội dung pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức
năng, qua đó có cơ sở để đánh giá thực tiễn thi hành và đề xuất những phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quảng cáo thực
phẩm chức năng trên thực tế, đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập và phát triển,
đặc biệt là sức mạnh của ngành thực phẩm chức năng.
4.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Làm sáng tỏ ở mức cơ bản những vấn đề lý luận về thực phẩm chức
năng, sự khác nhau giữa thực phẩm chức năng và thuốc chữa bệnh cũng như những
vấn đề cơ bản về quảng cáo thực phẩm chức năng;
- Đánh giá được tác động của quảng cáo thực phẩm chức năng tới xã hội;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo thực
phẩm chức năng ở Việt Nam, các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt
động quảng cáo thực phẩm chức năng.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi
pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam, qua đó đánh giá quá trình
thực tiễn thi hành pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng trong đời sống.
- Nghiên cứu và đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật làm nền
tảng để đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quảng cáo
thực phẩm chức năng ở Việt Nam trong thời gian tới.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, Luận văn sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kết hợp các phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp biện luận, phương pháp chứng minh, logic và phương pháp phân
tích số liệu sơ cấp thu thập từ phương pháp điều tra sử dụng bảng hỏi. Riêng
phương pháp tổng hợp và phương pháp thống kê, phương pháp biện luận và phương
pháp chứng minh được sử dụng trong suốt quá trình đánh giá thực tiễn thi hành các
quy định của pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng. Phương pháp phân tích
số liệu thu được từ cuộc điều tra được sử dụng để làm rõ thêm về nhận thức của
người dân về pháp luật quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam hiện nay.
5
6.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1.
Ý nghĩa khoa học
Luận văn dựa trên các vấn đề lý luận của thực phẩm chức năng và quảng cáo
để xây dựng được khái niệm thế nào là quảng cáo thực phẩm chức năng, hệ thống
được những vấn đề pháp lý điều chỉnh hoạt động quảng cáo thực phẩm chức năng.
Quảng cáo thực phẩm chức năng là hoạt động có đóng góp lớn tới sự phát
triển ngành dịch vụ quảng cáo. Hoạt động này diễn ra rất phức tạp, có xu hướng
biến tướng với những hành vi mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh, dẫn tới sự lúng
túng của các cơ quan nhà nước trong việc áp dụng pháp luật về quảng cáo thực
phẩm chức năng trên thực tế. Vì vậy, việc hiểu rõ những vấn đề cơ bản về quảng
cáo thực phẩm chức năng cũng như các quy phạm pháp luật điều chỉnh sẽ có tác
động lớn tới chủ thể áp dụng cũng như những thực hiện pháp luật quảng cáo thực
phẩm chức năng.
6.2.
Ý nghĩa thực tiễn
Những nhận định, đánh giá của luận văn về quá trình thực thi pháp luật về
quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt Nam hiện nay có đóng góp không nhỏ cho
sự thay đổi cách nhìn nhận trong phương thức quản lý và xây dựng, sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng. Các phương
hướng, giải pháp sẽ là cơ sở cho những ý kiến đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ
sung pháp luật và cách thức áp dụng, thực hiện pháp luật quảng cáo thực phẩm chức
năng trong đời sống, bảo đảm quyền lợi của tất cả mọi người, từ người tiêu dùng,
đến các doanh nghiệp và Nhà nước.
7.
Kết cấu luận văn
Ngoài các phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn được chia làm hai chương. Cụ thể:
Chương 1: Tổng quan pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng ở Việt
Nam
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng
ở Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
6
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢNG CÁO THỰC PHẨM CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về thực phẩm chức năng và quảng cáo thực phẩm chức năng
1.1.1. Khái niệm thực phẩm chức năng và các loại thực phẩn chức năng
1.1.1.1. Khái niệm thực phẩm chức năng
TPCN là kết quả nghiên cứu, tổng hợp từ các nguồn thực phẩm trong tự
nhiên nhằm mang lại các công dụng cải thiện sức khỏe cho con người. Khái niệm và
tên gọi về TPCN bắt nguồn từ Nhật Bản. Năm 1980, BYT và sức khỏe Nhật Bản
bắt đầu xây dựng hệ thống tổ chức trong Bộ, có nhiệm vụ điều chỉnh và công nhận
những loại thực phẩm có hiệu quả cải thiện sức khỏe của cộng đồng dân cư. Tổ
chức này cho phép ghi trên nhãn hiệu hàng hóa thực phẩm sử dụng cho sức khỏe
con người, chữ viết tắt từ cụm từ tiếng Anh là FOSHU (Food for Specified Health
Use).
Hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực này, tới tháng 9 năm 2001, đã có hơn
271 sản phẩm thực phẩm mang nhãn hiệu FOSHU. Sau khi xuất hiện ở Nhật Bản,
TPCN đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới2. Hiệp hội thực phẩm sức khỏe và
dinh dưỡng Nhật Bản định nghĩa: TPCN là thực phẩm bổ sung một số thành phần
có lợi hoặc loại bỏ một số thành phần bất lợi. Việc bổ sung hay loại bỏ phải được
chứng minh và cân nhắc một cách khoa học và được BYT cho phép xác định hiệu
quả của thực phẩm đối với sức khỏe3.
Ở Mỹ quan niệm TPCN ADA (The American Dietetic Association) là thực
phẩm bao gồm tất cả các thành phần có trong nó và cũng là thực phẩm được làm
mạnh thêm, làm giàu thêm hoặc nâng cao thêm yếu tố nào đó, có hiệu quả tiềm
năng đến sức khỏe khi tiêu thụ một phần nó trong khẩu phần một cách thường
xuyên, với mức độ có tác dụng. Còn Hiệp hội nghiên cứu thực phẩm Leatherhead
(châu Âu) lại cho rằng khó có thể định nghĩa TPCN vì sự đa dạng phong phú của
nó. Tổ chức này cho rằng: “TPCN là thực phẩm được chế biến từ thức ăn thiên
nhiên, được sử dụng như một phần của chế độ ăn hàng ngày và có khả năng cho
một tác dụng sinh lý nào đó khi được sử dụng”.
2
ngày truy cập 30/5/2017
Dương Thanh Liêm (chủ biên, 2010), Thực phẩm chức năng - Sức khỏe bền vững, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật.
3
7
Theo Hiệp hội thông tin thực phẩm quốc tế - IFIC (The International Food
Information Council), TPCN là thực phẩm mang đến những lợi ích cho sức khỏe
vượt xa hơn dinh dưỡng cơ bản. Viện Khoa học và đời sống quốc tế - ILSI (The
International Life Sciences Institute of North America) chỉ ra rằng TPCN là loại
thực phẩm có chứa hoạt chất sinh học có ích cho sức khỏe trên cơ sở các chất dinh
dưỡng cơ bản.
Nhìn chung, trên thế giới có rất nhiều cách hiểu khác nhau về TPCN. Tại
Việt Nam, từ năm 1990-1991, Viện dinh dưỡng đã xác định: TPCN là thực phẩm có
chứa các chất có hoạt tính sinh học cần thiết cho sức khỏe, bao gồm cả thực phẩm
chế biến cải tiến, thức ăn cổ truyền dân tộc và các thành phần không dinh dưỡng
khác, có tác động đặc biệt và cần thiết cho sức khỏe (theo Bùi Minh Đức, 2004).
Tổng hợp những phân tích trên có thể định nghĩa TPCN (Functional Foods) là các
sản phẩm thực phẩm có tác dụng hỗ trợ cấu trúc chức năng của các bộ phận trong
cơ thể, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm nguy cơ và tác
hại của bệnh tật4.
Về mặt pháp lý, lần đầu tiên khái niệm TPCN được quy định trong Thông tư
số 08/2004/TT-BYT ngày 23 tháng 8 năm 2004 của Bộ Y tế hướng dẫn việc quản lý
các sản phẩm thực phẩm chức năng. Theo đó, TPCN là thực phẩm dùng để hỗ trợ
chức năng của các bộ phận trong cơ thể người, có tác dụng dinh dưỡng, tạo cho cơ
thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ gây bệnh. Đến năm
2010, khái niệm TPCN được quy định tại khoản 23 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm:
“Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ thể con
người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm bớt nguy cơ
mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, thực phẩm
dinh dưỡng y học”.
Từ định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của TPCN như sau:
Thứ nhất, TPCN là thực phẩm dùng để ăn hoặc uống nhằm hỗ trợ chức năng
của cơ thể con người. Tức là TPCN có thể loại bỏ các chất bất lợi và bổ sung các
chất có lợi, có tác dụng tăng cường sức khỏe, dự phòng, giảm thiểu nguy cơ gây
bệnh tới một hay nhiều chức năng của cơ thể.
Thứ hai, TPCN là giao thoa giữa thực phẩm và thuốc, giống thực phẩm về
bản chất nhưng khác về hình thức, giống thuốc về hình thức nhưng khác về bản
4
Trần Đáng (chủ biên, 2013), Thực phẩm chức năng - Functional Food , Nxb Y học.
8
chất. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của TPCN, để phân biệt sự
khác nhau giữa TPCN với các loại hàng hóa khác, đặc biệt là thuốc.
Thứ ba, TPCN có nguồn gốc tự nhiên (thực vật, động vật, khoáng vật) và
được đánh giá đầy đủ về tính chất lượng, tính an toàn, tính hiệu quả.
Thứ tư, TPCN có lợi ích với sức khỏe nhiều hơn lợi ích dinh dưỡng cơ bản5.
1.1.1.2. Các loại thực phẩm chức năng
Dựa trên khái niệm và những cách hiểu khác nhau của các quốc gia, TPCN
bao gồm nhiều loại. Tùy từng cách phân loại, TPCN được chia ra làm nhiều loại.
Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Đáng - Chủ tịch Hiệp hội TPCN Việt Nam cho rằng, ở
Việt Nam, dựa vào bản chất của TPCN có 5 cách phân loại: Theo phương thức chế
biến; theo dạng sản phẩm; theo phương thức quản lý; theo tác dụng và phương pháp
phân loại tương đối đặc biệt áp dụng theo cách của người Nhật Bản. Cụ thể:
Thứ nhất, theo phương thức chế biến, TPCN được chia thành bốn loại nhỏ:
Nhóm sản phẩm bổ sung vitamin; nhóm sản phẩm bổ sung khoáng chất; nhóm sản
phẩm bổ sung hoạt chất sinh học và các loại sản phẩm bào chế từ thảo dược.
Thứ hai, theo dạng sản phẩm: TPCN được chia làm 2 dạng: Thực phẩm thuốc và thức ăn - thuốc. Dạng thực phẩm - thuốc có nhiều loại: Dạng viên, dạng
nước, dạng bột, dạng trà, dạng rượu, dạng cao, dạng kẹo, dạng thực phẩm cho mục
đích đặc biệt. Dạng thức ăn - thuốc bao gồm: Cháo thuốc, món ăn thuốc, món ăn bổ
dưỡng, canh thuốc, nước uống thuốc…
Thứ ba, theo chức năng tác dụng: TPCN gồm 26 dạng khác nhau. Cụ thể: các
nhóm sản phẩm hỗ trợ chống lão hóa; hỗ trợ tiêu hóa; hỗ trợ giảm huyết áp; hỗ trợ
giảm đái tháo đường; tăng cường sinh lực; bổ sung chất xơ; phòng ngừa rối loạn
tuần hoàn não; hỗ trợ thần kinh; bổ dưỡng; tăng cường miễn dịch; giảm béo; bổ
sung calci, ngăn ngừa loãng xương; phòng ngừa thoái hóa khớp; hỗ trợ làm đẹp; bổ
mắt; giảm cholesterol; hỗ trợ điều trị ung thư; phòng chống bệnh Gout; giảm mệt
mỏi, stress; hỗ trợ phòng và giải độc; hỗ trợ an thần, ngăn ngừa mất ngủ; hỗ trợ
phòng ngừa bệnh răng miệng; hỗ trợ phòng ngừa bệnh nội tiết; hỗ trợ tăng cường trí
nhớ và khả năng tư duy; hỗ trợ phòng chống bệnh tai, mũi, họng và hỗ trợ phòng
chống bệnh về da.
Thứ tư, theo phương thức quản lý: TPCN được phân ra thành 3 loại: TPCN
phải đăng ký, TPCN không phải đăng ký chứng nhận và TPCN được sử dụng cho
5
Trần Đáng, tlđd chú thích 4, tr.54.
9
mục đích đặc biệt. TPCN phải đăng ký là loại TPCN phải đăng ký và được chứng
nhận, cấp phép lưu hành của Cục ATTP.
Theo cách phân loại phổ biến tại Nhật Bản, TPCN được chia thành hai nhóm
là nhóm các thực phẩm công bố về sức khỏe (gồm 2 loại: thực phẩm dùng cho mục
đích đặc biệt và thực phẩm có khuyến cáo chức năng dinh dưỡng) và nhóm thực
phẩm đặc biệt (gồm thực phẩm cho người ốm, sữa bột trẻ em, sữa bột cho phụ nữ có
thai và cho con bú, thực phẩm cho người già nhai nuốt khó).
Dựa vào tác dụng, pháp luật Việt Nam quy định TPCN có 4 loại sau6: Thực
phẩm bổ sung; thực phẩm bảo vệ sức khỏe; thực phẩm dinh dưỡng y học; thực
phẩm dùng cho chế độ ăn đặc biệt.
1.1.1.3. Sự khác nhau giữa thực phẩm chức năng và thuốc chữa bệnh
Là sản phẩm dễ bị nhầm lẫn với thuốc chữa bệnh về tác dụng nên người bệnh
hoặc NTD rất khó có được sự lựa chọn đúng đắn để cải thiện cho sức khỏe của
mình. Hình vẽ dưới đây cho thấy sự khác nhau cơ bản giữa TPCN và thuốc chữa
bệnh:
Thực
phẩm
thông thường
Thực phẩm
chức năng
Thuốc
Hình 1. Phân biệt các loại thực phẩm và thuốc
TPCN được hiểu là các sản phẩm thực phẩm có tác dụng hỗ trợ cấu trúc chức
năng của các bộ phận trong cơ thể, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề
kháng, giảm nguy cơ và tác hại của bệnh tật. Thuốc là chế phẩm có chứa dược chất
hoặc dược liệu dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chẩn đoán bệnh, chữa
bệnh, điều trị bệnh, giảm nhẹ bệnh, điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể người bao
gồm thuốc hóa dược, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền, vắc xin và sinh phẩm7. Như
vật, TPCN và thuốc có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Tiêu chí đầu tiên: Công bố trên nhãn của nhà sản xuất và công nghệ sản xuất.
Công bố trên nhãn của nhà sản xuất đối với TPCN là “Thực phẩm chức năng” - tức
6
Điều 2 Thông tư số 43/2014/TT-BYT ngày 24 tháng 11 năm 2014 của Bộ Y tế quy định về quản lý thực
phẩm chức năng
7
Khoản 2 Điều 2 Luật Dược 2016.
10
là được sản xuất theo Luật ATTP 2010. Theo đó, các nhà sản xuất TPCN được yêu
cầu thực hiện 4 loại công bố trên nhãn của sản phẩm của họ (công bố về dinh
dưỡng, công bố về lợi ích, công bố về sức khỏe, công bố về cấu trúc hoặc chức
năng8) và TPCN được sản xuất với công nghệ chiết, nghiền nên tiêu chuẩn ít
nghiêm ngặt hơn. Ngược lại, công bố trên nhãn của thuốc là “Thuốc” và được sản
xuất theo Luật Dược. Công bố trên nhãn phải thể hiện được tên thuốc, thành phần
cấu tạo của thuốc, dạng bào chế, quy cách đóng gói, chỉ định, cách dùng, chống chỉ
định, số lô sản xuất, ngày sản xuất, các dấu hiệu lưu ý, xuất xứ của thuốc9… Thuốc
được sản xuất với công nghệ sản xuất phức tạp hơn so với TPCN, bao gồm chiết,
tách, tổng hợp cùng với những tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt.
Tiêu chí thứ hai: Thành phần, hàm lượng và hiệu quả. Thuốc thường là hóa
chất tổng hợp tạo thành các phân tử với hàm lượng cao, hiệu quả với cơ thể mạnh
mẽ và nhanh chóng nhưng TPCN là hỗn hợp của nhiều chất, hoạt chất tự nhiên có
trong chuỗi cung cấp thực phẩm, hàm lượng của nó xấp xỉ nhu cầu sinh lý hàng
ngày của cơ thể nên hiệu quả sinh lý đến chậm hơn so với thuốc, tuy nhiên lại có tác
dụng rất bền vững.
Tiêu chí thứ ba: Điều kiện sử dụng. TPCN được NTD tự mua ở siêu thị, hiệu
thuốc, các cửa hàng chuyên bán TPCN... và sử dụng theo hướng dẫn từ phía nhà sản
xuất. Ngược lại, thông thường muốn sử dụng thuốc, người bệnh phải đến khám
bệnh tại các cơ sở y tế, bác sĩ sẽ khám và kê đơn sử dụng thuốc phù hợp với từng
loại bệnh.
Tiêu chí thứ tư: Điều kiện phân phối. Để phân phối ra thị trường thuốc phải
đáp ứng điều kiện hết sức nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật là chỉ được bán
tại các hiệu thuốc đã đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có dược sĩ là
người trực tiếp bán. Khác thuốc, TPCN được bán dưới nhiều hình thức như bán lẻ,
bán tại các siêu thị, đại lý, công ty, bán hàng trực tiếp, bán hàng đa cấp… Như vậy,
ai cũng có thể phân phối TPCN, chỉ cần tuân thủ các quy định của pháp luật về tiêu
chuẩn, chất lượng, đăng ký kinh doanh…
Tiêu chí thứ năm: Về cách dùng. Nếu như thuốc chỉ uống theo từng đợt vì
nếu uống nhiều thuốc sẽ có nguy cơ biến chứng, tai biến hoặc có tác dụng phụ thì
8
Lê Thị Thanh Long (2016), “Hiều về những công bố trên nhãn chế phẩm bổ sung dinh dưỡng”, Thực phẩm
cộng đồng, ngày truy cập 30/5/2017
9
Điều 7 Thông tư số 06/2016/TT-BYT ngày 08 tháng 3 năm 2016 của Bộ Y tế quy định ghi nhãn thuốc
11
TPCN có thể dùng thường xuyên, liên tục bổ sung thêm vào khẩu phần ăn hàng
ngày bởi TPCN được sử dụng một cách an toàn sẽ ít tai biến và tác dụng phụ.
1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của quảng cáo thực phẩm chức năng
Dưới góc độ ngôn ngữ, quảng cáo được định nghĩa là một loại thông tin phải
trả tiền, có tính đơn phương, không dành riêng cho ai, có vận dụng mọi biện pháp
và phương tiện thông tin đại chúng để hỗ trợ một sản phẩm, một nhãn hiệu, một xí
nghiệp, một mục đích hoặc một tổ chức nào đó… được nêu danh trong quảng cáo10.
Dưới góc độ pháp lý, quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu
đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch
vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân11. Riêng
QCTPCN, tới thời điểm hiện tại pháp luật chưa quy định cụ thể nhưng từ định nghĩa
quảng cáo và TPCN có thể định nghĩa:
Quảng cáo thực phẩm chức năng là hoạt động do thương nhân thực hiện để
giới thiệu, quảng bá thông qua việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến
công chúng những loại thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ thể con người
nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất, bán, tiêu thụ, sử dụng thực phẩm chức năng.
TPCN là một loại hàng hóa các thương nhân, nhà sản xuất muốn kinh doanh
để kiếm lời nên QCTPCN là hoạt động nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Do đó QCTPCN mang những đặc điểm pháp lí cơ bản của quảng cáo thương mại:
Chủ thể hoạt động QCTPCN là thương nhân; QCTPCN có thể được thương nhân tự
mình thực hiện hoặc thuê dịch vụ quảng cáo của thương nhân khác; Cách thức xúc
tiến thương mại của hoạt động QCTPCN đó là sử dụng TPCN và phương tiện
quảng cáo thương mại để thông tin về hàng hóa dịch vụ đến khách hàng, NTD; Mục
đích của QCTPCN là giới thiệu TPCN nhằm xúc tiến kinh doanh, buôn bán của nhà
sản xuất, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân.
Vì đối tượng của quảng cáo là TPCN - một sản phẩm đặc biệt nên ngoài
những đặc điểm trên QCTPCN còn có những đặc điểm riêng biệt. Cụ thể:
- QCTPCN là hoạt động giới thiệu hàng hóa đặc biệt – TPCN. Chịu sự điều
chỉnh của rất nhiều các văn bản pháp luật khác nhau bởi tính chất và tác dụng của
10
National texbook company (NTC) 1992, Hoa Kỳ, trích trong tài liệu “Nguyễn Thị Dung (2005), Khái niệm
“Quảng cáo” trong pháp luật Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến việc hoàn thiện pháp luật về quảng cáo,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (12), tr. 33”.
11
Khoản 1 Điều 2 Luật Quảng cáo 2012.
12
TPCN ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của NTD, do đó hướng dẫn cách thức sử
dụng, truyền tải thông tin về TPCN tới khách hàng, NTD hiệu quả phải bằng nhiều
cách thức và thông qua nhiều phương tiện quảng cáo.
- TPCN có công dụng đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người
sử dụng, vì vậy pháp luật quy định nội dung QCTPCN phải tuân thủ theo quy định
của LQC nói chung và Luật ATTP nói riêng. Tức là ngoài việc thúc đẩy tiêu thụ sản
phẩm, thu lợi nhuận cho chính mình, thương nhân tiến hành quảng cáo phải đặt mục
đích sử dụng TPCN an toàn và hiệu quả lên hàng đầu. TPCN hướng tới nhiều NTD,
ở mọi thành phần, mọi lứa tuổi nên QCTPCN tiếp cận đến đại bộ phận đối tượng
khách hàng tiềm năng, từ trẻ em, tới thanh niên, người trưởng thành hay người già.
1.1.3. Tác động của quảng cáo thực phẩm chực năng đối với xã hội
Là một trong những vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay, QCTPCN được
Nhà nước và tất cả mọi người quan tâm. Không chỉ về mặt lí luận, mặt pháp lí mà
còn cả tác động của QCTPCN đối với xã hội. Nhìn nhận về vấn đề này, phải thấy
được những tác động tích cực, những tác động tiêu cực mà QCTPCN đã tác động
tới xã hội.
1.1.3.1. Tác động tích cực
Không thể phủ nhận vai trò tích cực của QCTPCN đối với xã hội. Có thể
thấy quảng cáo tạo công ăn việc làm cho nhiều người, thúc đẩy sự tiếp xúc giữa
cung và cầu hàng hóa, qua đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của mọi người trong nền
kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của thị trường tiêu dùng Việt Nam. Doanh thu từ
hoạt động QCTPCN đã đóng góp vào cho ngân sách Nhà nước một phần không
nhỏ, làm kinh tế tăng trưởng không ngừng.
TPCN là một loại sản phẩm được sản xuất rộng rãi trên thị trường, đặc biệt ở
Việt Nam - nơi có nền tảng về nguồn nguyên liệu và nhân công phù hợp. Nhận thức
được điều này, rất nhiều các doanh nghiệp đã đầu tư vào sản xuất TPCN, kể cả các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc sản xuất nhiều loại TPCN đặt ra thách thức tìm
kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đối các doanh nghiệp. Để giải quyết vấn đề này,
QCTPCN là phương thức đẩy mạnh kinh doanh, góp phần hình thành môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của nhà sản xuất và NTD, giúp công chúng
biết đến thương hiệu của doanh nghiệp… và góp phần nâng cao chất lượng hàng
hóa của các doanh nghiệp.
Với con người, QCTPCN là phương tiện không thể thiếu trong quá trình đưa
các loại TPCN ra thị trường, giúp NTD nắm bắt đầy đủ thông tin về sản phẩm, qua
13
đó có được sự lựa chọn chính xác, phù hợp với sức khỏe của mình. Ngoài việc giúp
người dân tiếp cận với xu hướng tiêu dùng lành mạnh, tiếp cận được với những sản
phẩm có uy tín, chất lượng trên thị trường, QCTPCN còn là những căn cứ để NTD
so sánh thông tin, giá cả, dịch vụ… giữa những sản phẩm của những doanh nghiệp
khác nhau. Sự am hiểu của NTD về sản phẩm và thị trường TPCN như hiện nay
một phần là nhờ quảng cáo.
1.1.3.2. Tác động tiêu cực
Mặc dù QCTPCN có những tác động tích cực nhưng không tránh khỏi có
những tác động tiêu cực đến xã hội. Với xã hội, không quản lý tốt QCTPCN sẽ tác
động tiêu cực vào văn hóa tinh thần, xâm phạm thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền
thống, cổ vũ lối sống vật chất thực dụng, kích động bạo lực… Điều này ảnh hưởng
xấu tới sự phát triển nền văn hóa và duy trì lối sống tinh thần của đại bộ phận người
dân.
Với NTD, QCTPCN cung cấp nhiều thông tin về chủng loại, mẫu mã đã
khiến NTD khó khăn trong việc xác định, phân biệt, lựa chọn sản phẩm phù hợp với
mục đích của mình. Có những QCTPCN đưa ra thông tin “thôi phồng”, gian dối,
không chính xác, gây hiểu nhầm, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe NTD. Hậu quả
làm cho nhận thức của NTD về TPCN bị sai lệch, nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng
tới sức khỏe do NTD sử dụng TPCN thay bữa ăn hàng ngày hoặc thay thế thuốc
chữa bệnh.
Với các doanh nghiệp, QCTPCN là hoạt động phức tạp bởi đối tượng của
quảng cáo là sản phẩm đặc biệt, phải có sự tác động lâu dài. Vì vậy, muốn
QCTPCN thực sự có hiệu quả cần có sự đầu tư lớn, lâu dài khiến cho chi phí quảng
cáo tăng đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật về
QCTPCN. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp QCTPCN còn có tác động tiêu cực vào
đời sống xã hội của cộng đồng cư dân.
Sự xuất hiện tràn lan của QCTPCN ở mọi lúc, mọi nơi với nhiều thông tin đã
gây bối rối, khó phân biệt, khó lựa chọn, làm ức chế, quảng cáo khiếm nhã không
hợp văn hóa gây bức xúc trong dư luận… và tạo ra môi trường cạnh tranh không
lành mạnh, ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường TPCN, thay đổi cách suy
nghĩ và hành động, cách sống của nhiều người trong cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ
dẫn tới những thay đổi trong quan hệ gia đình và xã hội khác lạ với tập quán và đạo
đức vốn có.
14
1.2.
Nội dung cơ bản của pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức năng ở
Việt Nam
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về quảng cáo thực phẩm chức
năng ở Việt Nam
Trước năm 1989, hầu hết các quy định về quảng cáo chưa xuất hiện nên quy
định về QCTPCN hoàn toàn chưa có. Từ năm 1989 đến trước tháng 12/1994, những
vấn đề pháp lí liên quan đến quảng cáo dần được đề cập. Lần đầu tiên, pháp luật
Việt Nam quy định về lĩnh vực quảng cáo ở Luật báo chí 1989 nhưng chỉ quy định
quảng cáo trên báo chí, nêu sơ lược về quảng cáo và không quy định chi tiết, cụ thể
các vấn đề liên quan đến QCTPCN. Năm 1991, Uỷ ban Khoa học Nhà nước và Bộ
Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư liên bộ số 1191TT/LB quy định về Quản lý nhãn và quảng cáo sản phẩm hàng hóa. Văn bản này
mới manh nha đến vấn đề in nhãn và quảng cáo một số loại hàng hóa12.
Nhận thấy sự cần thiết và quá trình phát triển mạnh mẽ của quảng cáo, Chính
phủ ban hành Nghị định số 194/CP ngày 31 tháng 12 năm 1994 về hoạt động quảng
cáo trên lãnh thổ Việt Nam và Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Thông tư số
37/VHTT-TT ngày 01 tháng 3 năm 1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 194/CP
ngày 31 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ
Việt Nam. Đây là hai văn bản bổ sung quy định điều chỉnh các quan hệ pháp luật và
những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực quảng cáo. Với QCTPCN vẫn chỉ dừng lại ở
mức độ chung về hình thức, nội dung… Dù LTM 1997 có quy định về quảng cáo
hàng hóa nhưng vẫn không có quy định cụ thể về QCTPCN.
Trong khoảng thời gian từ năm 2000 - 2001, BYT ban hành liên tiếp hai
Thông tư quản lý các sản phẩm thuốc - thực phẩm, cụ thể: Thông tư số17/2000/TTBYT ngày 27 tháng 9 năm 2000 của Bộ Y tế hướng dẫn đăng ký các sản phẩm dưới
dạng thuốc - thực phẩm và Thông tư số 20/2001/TT-BYT ngày 11 tháng 9 năm
2001 của Bộ Y tế hướng dẫn quản lý các sản phẩm thuốc - thực phẩm. Hai văn bản
tuy không quy định về QCTPCN nhưng là cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động
quảng cáo liên quan đến TPCN theo LTM 1997. Ngày 16/11/2001, Pháp lệnh
Quảng cáo được ban hành và ngày 13/3/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số
24/2003/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành pháp luật quảng cáo nhằm triển khai
12
Phạm Thị Vân Anh (2014), Quảng cáo mỹ phẩm dưới góc độ pháp luật thương mại, Luận văn thạc sĩ luật
học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 24.
15
thực hiện cụ thể Pháp lệnh Quảng cáo 2001. Như vậy, hoạt động QCTPCN phải đáp
ứng những quy định nêu trên về nội dung, hình thức, phương tiện quảng cáo…
Năm 2004, thấy được sự phát triển của TPCN và để thống nhất, phù hợp với
thuật ngữ quốc tế, ngày 23/8/2004 Bộ Y tế ban hành Thông tư số 08/2004/TT-BYT
ngày 23 tháng 8 năm 2004 của Bộ Y tế hướng dẫn việc quản lý các sản phẩm
TPCN. Đây là văn bản đầu tiên đề cập đến QCTPCN, yêu cầu QCTPCN phải thực
hiện theo quy định của pháp luật về thông tin, quảng cáo, ghi nhãn và phải bảo đảm
trung thực, chính xác, rõ ràng không gây thiệt hại cho người sản xuất, kinh doanh,
NTD. Luật Cạnh tranh 2004 cũng đã quy định về hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn
tại Điều 45 điều chỉnh vấn đề liên quan đến QCTPCN do TPCN rất gần với thuốc,
dễ gây nhầm lẫn cho NTD.
Năm 2005, Quốc Hội thông qua LTM 2005 thay thế LTM 1997. Theo quy
định của LTM 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006
của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương
mại, hoạt động QCTPCN phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về y tế tuy
nhiên vẫn chưa được quan tâm làm rõ, cụ thể. Luật ATTP 2010 ra đời quy định về
TPCN và những nội dung liên quan tới quảng cáo, ghi nhãn như: Đăng ký quảng
cáo, nội dung quảng cáo, thẩm quyền xác nhận nội dung quảng cáo… Đánh dấu
bước ngoặt là sự ra đời của Luật Quảng cáo năm 2012, quy định cụ thể chi tiết hơn
so với Pháp lệnh Quảng cáo 2001. LQC là văn bản chuyên ngành thể hiện khá đầy
đủ những nội dung cơ bản về quảng cáo nói chung và QCTPCN nói riêng.
Do sự phát triển mạnh mẽ của TPCN, QCTPCN không chỉ được điều chỉnh
bằng LQC mà còn được quy định trong Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25
tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An
toàn thực phẩm, Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LQC, Thông tư số
08/2013/TT-BYT ngày 13 tháng 3 năm 2013 của Bộ Y tế hướng dẫn về quảng cáo
thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế (đã hết hiệu lực), Thông tư số
43/2014/TT-BYT và Thông tư số 09/2015/TT-BYT ngày 25 tháng 5 năm 2015 của
Bộ Y tế về xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa dịch vụ đặc
biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế cùng hàng loạt các văn bản khác liên quan.
Tóm lại, hệ thống văn bản pháp luật nước ta khá đầy đủ, phù hợp với tình
hình thực tế và nhu cầu sử dụng, cung cấp thông tin của NTD về TPCN, qua đó
thiết lập một hành lang pháp lý điều chỉnh các hành vi trong lĩnh vực này.
16
1.2.2.
Nội dung pháp luật hiện hành về quảng cáo thực phẩm chức năng
Luật ATTP 2010 quy định “việc quảng cáo thực phẩm do tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh thực phẩm hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực
hiện theo quy định của pháp luật về quảng cáo” (khoản 1 Điều 43) và khoản 1 Điều
7 Thông tư số 43/2014/TT-BYT quy định: “Việc quảng cáo thực phẩm chức năng
phải được thực hiện theo quy định pháp luật về quảng cáo”. Đây là quy định chung
nhất về QCTPCN, theo đó tất cả những vấn đề pháp lí liên quan đến hoạt động
QCTPCN đều được thực hiện theo quy định của pháp luật quảng cáo, từ chủ thể,
nội dung, phương tiện, điều kiện đến thẩm quyền quản lý nhà nước và xử lý vi
phạm pháp luật hoạt động QCTPCN sẽ do pháp luật quảng cáo điều chỉnh. Trong
đó, vấn đề đặc thù và là sự khác biệt lớn nhất của QCTPCN là nội dung QCTPCN.
1.2.2.1. Chủ thể quảng cáo thực phẩm chức năng
Khi nói về chủ thể của QCTPCN, điều đầu tiên có thể nhận thấy rõ nhất là
các chủ thể phải tuân thủ theo các quy định về chủ thể của quảng cáo thương mại
nói riêng và pháp luật quảng cáo nói chung. Theo quy định tại Mục 2 Chương IV
LTM 2005 và Điều 2 và Chương II LQC 2012, chủ thể QCTPCN bao gồm: người
QCTPCN; người kinh doanh dịch vụ QCTPCN; người phát hành QCTPCN; người
cho thuê địa điểm, phương tiện QCTPCN và người tiếp nhận QCTPCN. Những chủ
thể QCTPCN này tham gia hoạt động quảng cáo ở những công đoạn hoặc những
giai đoạn khác nhau và vì vậy mà quyền, nghĩa vụ của họ cũng khác nhau.
- Người quảng cáo thực phẩm chức năng
Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức, cá nhân đó (khoản 5 Điều 2 LQC
2012). Vì TPCN là một dạng thực phẩm và được điều chỉnh theo Luật ATTP 2010
nên QCTPCN được thực hiện theo quy định của LQC 2012 và Luật ATTP 2010.
Như vậy, người QCTPCN là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TPCN thỏa mãn
các điều kiện quy định về thương nhân tại Điều 6 LTM 2005 và phải có đăng ký
kinh doanh phù hợp ngành nghề theo quy định tại Điều 7 LTM 2005 - tức là phải
đăng ký kinh doanh TPCN theo đúng quy định của pháp luật.
Người QCTPCN ở Việt Nam có yếu tố nước ngoài tuân thủ quy định tại
Điều 39 LQC 2012, tức là các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
được quảng cáo về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và hoạt động của mình tại Việt
Nam theo quy định của LQC. Với tổ chức, cá nhân nước ngoài không hoạt động tại
Việt Nam có nhu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và hoạt động của
17
mình tại Việt Nam phải thuê người kinh doanh dịch vụ quảng cáo của Việt Nam
thực hiện.
Muốn quảng cáo sản phẩm, người QCTPCN phải đáp ứng các điều kiện cụ
thể về chủ thể. Điều 20 LQC 2012 quy định người QCTPCN phải có các loại giấy
tờ như: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; giấy chứng nhận tiêu chuẩn (đối với
sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ); giấy chứng nhận vệ sinh ATTP (đối với
sản phẩm dinh dưỡng trong nước); giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm của cơ
quan có thẩm quyền của nước sản xuất (đối với sản phẩm dinh dưỡng nhập khẩu)
hoặc giấy phép lưu hành. Theo khoản 3 Điều 43 Luật ATTP 2010, tổ chức, cá nhân
có thực phẩm quảng cáo chỉ được tiến hành quảng cáo khi nội dung đã được thẩm
định và chỉ được quảng cáo đúng nội dung đã xác nhận. Ngoài ra, Điều 7 Thông tư
số 09/2015/TT-BYT quy định người QCTPCN còn phải có giấy xác nhận công bố
phù hợp quy định ATTP (đối với sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia)
hoặc giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, pháp luật quy định rất chặt chẽ về người QCTPCN. Chỉ người sản
xuất, kinh doanh đứng tên trên giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy hoặc giấy xác
nhận công bố phù hợp quy định ATTP (đối với sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ
thuận quốc gia) mới được quảng cáo TPCN do chính mình sản xuất; chỉ đơn vị
đứng tên trên giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy (hoặc giấy xác nhận công bố phù
hợp quy định ATTP) mới được phép đề nghị xác nhận nội dung QCTPCN. Trong
trường hợp không tự mình thực hiện thì ủy quyền cho đơn vị khác nhưng phải có
văn bản ủy quyền. Đơn vị được ủy quyền phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về người
quảng cáo theo LQC 2012 và chỉ được quảng cáo những nội dung đã được thẩm
định, đăng ký.
QCTPCN là giải pháp hữu hiệu của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
TPCN - người quảng cáo. Với tư cách là chủ thể, người QCTPCN có thể tự mình
thực hiện các hoạt động QCTPCN hoặc có thể thuê thương nhân khác thực hiện
quảng cáo cho mình thông qua hợp đồng dịch vụ quảng cáo. Do đó pháp luật quy
định cho họ - người QCTPCN quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định tại Điều
108, 111, Điều 112 LTM 2005, Điều 12 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2010 và Điều 12 LQC 2012.
- Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực phẩm chức năng
Thay vì tự mình thực hiện tất cả các công đoạn (lên ý tưởng, thuê diễn viên,
chọn địa điểm quảng cáo...), việc thuê các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng