II.Thực trạng thị trường sữa tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017.
1.Tổng quan về thị trường:
Nằm trong xu thế chung của các nước đang phát triển trên thế giới, nhu cầu về
các sản phẩm sữa ởViệt Nam như một nguồn bổ sung dinh dưỡng thiết yếu ngày
càng tăng lên. Điều này có thể thấy qua sự gia tăng doanh số từ sữa của các hãng
sản xuất tại Việt Nam, với tổng doanh thu các mặt hàng sữa tăng ổn định qua các
năm.
Doanh thu toàn ngành sữa năm 2017 đạt trên 100.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với
năm 2016.Hiện nay, tiêu dùng các sản phẩm sữa tập trung ở các thành phố lớn, với
10% dân số cả nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ 78% các sản
phẩm sữa (Somers, 2009).Mức tiêu thụ sữa bình quân là 26 lít/người.Theo xu
hướng của các nước này, mức tiêu thụ tại Việt Nam sẽ tăng lên cùng với GDP.Theo
dự báo của Euromonitor International, công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu, thì
trong những năm tới ngành sữa Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng 9% / năm và đạt
mức 27 – 28 lít sữa/người/năm vào năm 2020.Cùng với nhu cầu về các sản phẩm
1
sữa ngày càng tăng lên tại Việt Nam,thị trường sữa hiện có sự tham gia của nhiều
hãng sữa, cả trong nước và nước ngoài,với nhiều sản phẩm phong phú.
2.Nguồn cung trên thị trường sữa tại Việt Nam:
Có thể nói, thị trường sữa đang có những bước phát triển nhanh chưa từng thấy trong
những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Bình quân, ngành
này tăng trưởng 17%/năm trong giai đoạn 2011 -2015, tăng 17,5% giai đoạn 2015 đến
nay.
Hai mảng chính dẫn dắt sự tăng trưởng của toàn ngành sữa trong nước và cũng là 2 mặt
hàng quan trọng nhất là sữa nước và sữa bột. Riêng tổng giá trị trường của 2 mảng này đã
chiếm gần 3/4 giá trị thị trường. Năm 2017 vừa qua cũng ghi nhận mức sản lượng sản
xuất sữa các loại này cao nhất từ trước đến nay.
2.1.Về nguồn cung trong nước:
Sản lượng sữa sản xuất trong nước tăng đều qua các năm,tốc độ trung bình đạt
32%/năm.Từ 262.000 tấn vào năm 2008 lên đến trên 1 tỷ lít vào năm 2017 (1103,8
triệu lít) với cả sữa bột và sữa nước.
2
Theo BMI Reasearch, thị trường sữa Việt Nam đang trải qua giai đoạn bùng nổ xét
về cả mặt sản xuất, chế biến.
Xét về mặt sản xuất sữa, nhiều công ty sữa lớn tại Việt Nam trong đó có Vinamilk,TH
true Milk và Hanoi Milk đã và đang tăng cường đầu tư xây dựng các trang trại nuôi bò
sữa mới để tăng sản lượng.Nguồn cung sữa và sản lượng sữa tại Việt Nam tăng đáng kể
trong vòng vài năm qua do nguồn vốn đầu tư đổ vào các nông trại sản xuất sữa ngày càng
nhiều nhằm giảm sự lệ thuộc vào sữa nhập khẩu.Số lượng các đàn bò cũng như năng suất
sữa trên từng con bò cũng tăng liên tục qua từng năm.
Năng suất sữa: mỗi năm năng suất sữa trung bình cả nước tăng thêm 100 kg/chu kỳ, tốc
độ tăng hàng năm từ 2.8%-3.4%. Theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn,năng suất
sữa hàng hóa của đàn bò nước ta vào năm 2018 là 4.45 tấn/chu kỳ và năm 2020 sẽ là 4.5
tấn/chu kỳ. Tuy nhiên,từ năm 2008 một số địa phương đã vượt cả năng suất dự kiến của
năm 2020 nhờ kỹ thuật chăn nuôi, giống tốt.Ví dụ,năng suất bò thuần HF (nhập từ Úc) tại
3
công ty sữa Tương Lai (Tuyên Quang) đạt 5.35 tấn/chu kỳ[ CITATION kỳanh \l
1033 ].Các doanh nghiệp sản xuất trong nước liên tục đẩy mạnh đầu tư nhằm gia tăng
năng suất nhiều nhất có thể.
2.2.Về nguồn cung từ nước ngoài:
Từ năm 2008 đến hết năm 2017, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 8,9 tỷ USD mặt
hàng sữa và các sản phẩm sữa, trung bình mỗi năm nước ta bỏ ra 817 triệu USD để
nhập khẩu sữa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Năm 2017,Việt Nam
nhập khẩu khoảng 223,2 nghìn tấn sữa bột, gấp 1,73 lần sản lượng sữa bột sản xuất
trong nước.
4
Việt Nam nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa chủ yếu từ thị trường New Zealand,
Singapore, Mỹ, Đức, Thái Lan… Năm 2017, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường
New Zealand đạt 232,8 triệu USD, chiếm tới 26,9% và tăng 26% so với năm
2016.Kế đến là Singapore và Mỹ với kim ngạch nhập khẩu lần lượt là 122,4 triệu
USD và 67,8 triệu USD.
New Zealand là thị trường nhập khẩu sữa chủ lực của Việt Nam, chiếm thị phần
lớn 25,4% tổng kim ngạch, đạt 165,8 triệu USD, tăng 19,3%. Đứng thứ hai là thị
trường Singapore,kế đến là thị trường Đức, Thái Lan, Hoa Kỳ, Hà Lan….
VDSC cho biết năm 2017, kim ngạch nhập khẩu sản phẩm sữa dù tăng 2% lên 868
triệu USD nhưng chỉ chiếm 19% tổng giá trị cả ngành hàng.
5
2.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung:
2.3.1.Trình độ công nghệ:
Kết quả từ DDEF cho thấy, chỉ có đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ cao; kết
hợp việc quản lý chặt chẽ các quy trình chăn nuôi, kiểm soát an toàn dịch bệnh và nguyên liệu đầu vào –
đầu ra một cách đồng bộ thì mới mang lại hiệu quả cao cho nghề nuôi bò sữa.
Song, trên thực tế thì có hơn 95% số bò sữa ở nước ta được nuôi phân tán trong các nông hộ với
quy mô nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp. Trong 32 tỉnh chăn nuôi bò sữa, chỉ có 10 tỉnh có kinh nghiệm 8 –33
năm, chiếm 80% số bò sữa, còn lại 22 tỉnh mới nuôi từ 3 – 6 năm, kinh nghiệm còn hạn chế. Phần lớn các
hộ chăn nuôi ở những tỉnh này gặp nhiều khó khăn, gây thiệt hại cho người mới lần đầu chăn
nuôi. Người dân không được hướng dẫn bài bản về kỹ thuật chăn nuôi, biện pháp phòng trừ bệnh tật. Và
người nuôi bò hoàn toàn thụ động trước các tác động kinh tế, xã hội.
2.3.2.Giá các yếu tố sản xuất:
Vốn cũng là một bài toán khó của các doanh nghiệp vì để xây dựng một hệ thống chăn nuôi bò sữa
đạt chuẩn, doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn rất lớn. Hơn nữa, muốn đáp ứng yêu cầu thị trường,
các doanh nghiệp trong ngành sữa phải nhập khẩu công nghệ, nguyên liệu, thiết bị từ nước ngoài do kỹ
thuật trong nước còn hạn chế ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm, doanh thu của doanh nghiệp.
Đàn bò sữa trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 35% tổng nhu cầu ngành sữa cả nước, và điều
đó cũng đã kéo theo hệ quả là các công ty sữa phụ thuộc vào sữa bột nhập khẩu hơn là sản xuất sữa
uống trong nước. Sự phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài đốivới nguyên liệu đầu vào tạo ra một
nguy cơ chèn ép lợi nhuận do biến động giá của các sản phẩm sữa nhập khẩu.Chính phủ đã có chiến lược
phát triển nguồn nguyên liệu sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa. Theo đó số lượng đàn bò sữa tăng
bình quân 11%/năm.Tuy nhiên trong dài hạn nguồn sữa trong nước cũng sẽ chưa đáp ứng được nhu
cầu.
2.3.3.Chính sách của nhà nước:
Một loạt các chính sách như:Theo cam kết gia nhập WTO, mức thuế nhập khẩu sữa bột cao cấp ở
mức 25%,Theo Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP),thuế xuất nhập khẩu của sữa dần giảm về 0% vào
cuối năm 2018.một số loại đã ở mức thuế khá thấp như sữa và kem chưa cô đặc là 5%, và sữa,
kem đã pha thêm chất ngọt là 3-7%.
6
Theo quyết định phát triển quy hoạch chế biến sữa 2015 của bộ công thương,một loạt các chính
sách đã được đưa ra:
-Tăng cường kiểm tra chất lượng sữa trong và ngoài nước,công khai kết quả kiểm tra.
-Tổ chức các hội trợ triển lãm tong và ngoài nước
-Xây dựng chương trình sữa học đưòng
-tăng cường truyên truyền để người dân hiểu rõ vai trò của sữa
-tăng cường bảo hộ thương hiệu sữa
-ban hànhcác quy chuẩn chất lượng bao bì nhãn mác theo thông lệ quốc tế
-tăng cường chuyển giao công nghệ,đẩy mạnh nghiên cứu
-khấu trừ VTA đầu vào cho các dn thu mua sữa từ nông dân
-có các khoản vay ưu đãi cho nông dân
2.3.4.Số lượng các nhà cung ứng:
Có khoảng 60 doanh nghiệp Sữa tại Việt Nam cùng cạnh tranh với nhau. Trong đó, Vinamlik và
Abbott dẫn đầu thị trường, kế đến là FrieslandCampina Vietnam(Dutch Lady) 15.8%, Mead Johnson
14.4%, Nestle 9.1%
Tính đến tháng 8/2018 thị phần Sữa uống hiện nay chủ yếu nằm trong tay các doanh nghiệp sữa
nội, trong đó, Vinamilk nắm giữ 48,7% thị phần, kế đến là FrieslandCampina Việt Nam với 25,7% và TH
True Milk là 7,7% thị phần. Vinamilk hiện có 5 thương hiệu sữa uống. FrieslandCampina Việt Nam hiện
có 4 dòng sản phẩm sữa uống trong đó Dutch Lady (Sữa Cô gái Hà Lan) chiếm vị trí chủ lực.
Sữa Bột cũng là mảng thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, với sự hiện diện của hơn 300 thương
hiệu sữa, trong đó sữa ngoại chiếm 75% (2013). Abbott với hơn 120 nhãn sữa đang bày bán trên thị
trường nội địa đã chiếm khoảng 30% thị phần, với mức doanh thu trung bình 3.000-4.000 tỷ đồng/năm.
Vinamilk đứng thứ 2 với 24.6% thị phần. Riêng phân khúc thị truờng Sữa Bột trẻ em Vinamilk hiện dẫn
đầu thị phần với 25.8%.
Thị Phần sữa bột
7
Thị phần sữa nước tại Việt Nam 2017
8
2.3.5.Kỳ vọng của người sản xuất:
Các nhà sản xuất lớn trong nước và quốc tế không ngừng đầu tư vào thị trường Việt Nam,số lượng và
sản lượng của các đàn bò tăng lên nhanh chóng,kim ngạch nhập khẩu sữa năm sau luôn cao hơn năm
trước.Việt Nam hiện tại trong mắt các nhà đầu tư đang là thị trường béo bở chưa được khai thác hết
tiềm năng.
2.4.Kết luận:
Với tất cả các tác động trên,nguồn cung sữa trong 10 năm từ 2008-2018 không ngừng được gia tăng,gây
ra sự dịch chuyển sang phải của đường cung.
3.Cầu tại thị trường sữa Việt Nam:
3.1.Thực trạng:
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế,còn người ngày càng có nhu cầu cao hơn về sức khỏe và dịch vụ.Điều
này góp phần không ít vào sự tăng trưởng nhu cầu về sữa trong các năm vừa qua,với tốc độ trung bình
9%/năm
9
Báo cáo về người tiêu dùng Việt Nam 2013 của Nielsen cho thấy,Người Việt chi tiêu ngày càng nhiều
cho những thực phẩm có lợi cho sức khỏe như nước ép trái cây, sữa uống/thanh trùng/tiệt trùng,
sữa đậu nành, sữa chua,…
Trong tổng ngân sách chi tiêu cho mặt hàng FMCG ở thành thị là 1.13 triệu đồng/tháng thì
các sản phẩm sữa chiếm 372,000 đồng, chiếm khoảng 32%. Ở khu vực nông thôn, trong ngân
sách trung bình 515,000 đồng chi tiêu cho FMCG hàng tháng, sữa chỉ đứng thứ ba với 114,000 đồng,
sau thực phẩm và nước uống. Mức tiêu thụ sữa của người Việt Nam khoảng 26 lít/ người/năm
(2017),tăng dần qua các năm với tốc độ khá nhanh(khoảng 20%/năm) tuy nhiên vẫn thấp hơn một số
nước châu Á.
10
Việt Nam với dân số 86 triệu người vào năm 2008,tỉ lệ gia tăng dân số hằng năm là
1,2%,mức tăng GDP là 6.8%/năm.Theo số liệu tại đồ thị ở trên thì,năm 2008 mức
tiêu thụ sữa bình quân 1 người/1 năm là 14,6l(2008) lên mức 26l năm 2018 và có
tốc độ tăng trưởng khá mạnh tuy nhiên vẫn còn ở mức rất thấp so với các nước
như Thụy Sỹ(140l/năm) hay Hà Lan(120l/năm).Vậy nên tiềm năng để phát triển
các sản phẩm về sữa vẫn còn rất lớn.
3.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu về sữa tại Việt Nam.
3.2.1.Thu nhập của người tiêu dùng.
Thứ nhât,thu nhập bình quân đang không ngừng cải thiện.Bình quân từ năm 2008 đến
năm 2014,tỷ lệ tăng trưởng GDP đầu người của Việt Nam và thu nhập bình quân đầu
người đều đã tăng trưởng 2 con số trong mỗi năm.Ở thống kê gần nhất, năm 2014, trung
bình cả nước có thu nhập đầu người là 2,64 triệu đồng /tháng và GDP bình quân đầu
người là 3,6 triệu đồng / tháng.
Thứ hai,cùng với sự gia tăng trong thu nhập, mức sống của người dân cũng đang ngày
càng nâng cao, thể hiện ở mức chi tiêu bình quân mỗi người có xu hướng gia tăng liên tục
qua các năm.
Trong vòng 10 năm từ 2008 – 2018,mức chi tiêu hàng tháng cho ăn uống của một người
Việt Nam đã tăng từ 792 nghìn đồng lên đến gần 2,6 triệu đồng.Điều đáng chú ý,người
11
Việt đang sử dụng ngày càng nhiều tiền hơn để chi cho ăn uống,mà sữa là một trong số
đó.Trong gần 2,6 triệu đồng,mỗi người Việt có thể bỏ ra tới một nửa để chi cho ăn uống,
một tỷ lệ đã cải thiện rõ rệt so với năm 2008.
Về ngành hàng sữa, đây là vốn là một sản phẩm thiết yếu nên dù trong những năm kinh
doanh ảm đạm của các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp ngành
này vẫn giữ tăng trưởng mạnh với mức 2 con số.
Trong những năm tới, việc dân số tăng, thu nhập người dân tăng kéo theo chi tiêu nhiều
hơn,và những quan tâm ngày một nhiều của người Việt Nam về các sản phẩm chăm sóc
sức khỏe, ngành sữa được kỳ vọng sẽ còn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng này.
3.2.3.Sở thích và thị hiếu.
Theo nghiên cứu của Nielsen, những yếu tố quan trọng có ảnh hướng đến quyết định mua sản
phẩm dinh dưỡng là “Thành phần đầy đủ dinh dưỡng”, “Giảm nguy cơ mắc bệnh”, “Giá cả phải chăng”
và“Được sự chứng nhận bởi các chuyên gia y tế”.
Mặc dù người mua thường là giới nữ nhưng đối tượng sử dụng có phạm vi rộng lớn hơn, gồm
cả nam giới, trẻ em, người lớn tuổi. Do đó, việc chọn loại sữa, thương hiệu sữa bị ảnh hưởng nhiều bởi
người sử dụng. Ví dụ, người lớn tuổi trong gia đình khuyến khích sử dụng sữa bột trong khi người mẹ trẻ
có xu hướng cho con uống sữa uống. Hay mẹ chọn mua nhãn hiệu sữa này nhưng con muốn uống nhãn
hiệu vì không hợp khẩu vị hay vì thích thú với món quà tặng kèm. Bạn bè, đồng nghiệp cũng tác động
đến quyết chọn mua sữa, nhất là các sản phẩm sữa cho bé. Các mẹ có con nhỏ rất quan tâm đến vấn đề
“nên mua sữa gì cho con?”.Trong giai đoạn này, những lời khuyên từ người xung quanh đã định hướng
hành vi mua của người tiêu dùng, dẫn người tiêu dùng đi đến quyết định mua loại sữa này thay vì loại
khác hoặc từ chỗ đang dùng loại này chuyển sang dùng loại khác.
Người mua có thói quen lựa chọn sữa theo nhãn hiệu lâu năm (trong tâm trí họ), có thương
hiệu và uy tín trên thị trường. Họ có xu hướng đánh giá chất lượng sữa qua giá thành và nguồn gốc xuất
xứ, giá cao hơn chất lượng sẽ tốt hơn (đặc biệt là sản phẩm sữa giành cho trẻ em và người cao tuổi) và
hàng ngoại sẽ tốt hơn hàng nội. Tuy nhiên giá không phải là yếu tố tiên quyết để chọn lựa nhãn hiệu sữa
vì các sản phẩm sữa hiện nay rất đa dạng và có thể thay thế cho nhau. Người mua lựa chọn nhãn sữa
dựa trên thông tin chất lượng, sức mạnh thương hiệu, phản hồi của người dùng khác… rồi mới đến giá
cả.
12
Sự tin tưởng là yếu tố lớn nhất và thành công nhất khi tiếp cận người tiêu dùng trong lĩnh vực
sức khỏe và dinh dưỡng. Người mua tin tưởng thông tin từ người dùng khác, người bán hàng và dễ bị
tác động đến quyết định mua.
3.2.4.Giá cả hàng hóa thay thế.
Áp lực về sản phẩm mới trong ngành này là không nhiều, do đặc thù của sữa là sản phẩm bổ
sung dinh dưỡng thiết yếu. Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh giữa các sản phẩm trong ngành về thị phần, ví
dự như sữa đậu nành hay các sản phẩm đồ uống ngũ cốc, ca cao… có thể làm giảm thị phần của các sản
phẩm sữa nước. Khi đặt so sánh sản phẩm sữa với các sản phẩm đồ uống nước ngọt khác, người tiêu
dùng thường chọn mặt hàng sữa bởi đây là một thức uống chứa nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu, khác
với các sản phẩm nước ngọt.có đường có ga khác. Đây là sản phẩm đứng đầu trước sự lựa chọn của các
bậc phụ huynh.
3.3.Kết luận.
Với tất cả các tác động trên,cầu về sữa không ngừng gia tăng,gây ra sự dịch chuyển sang
phải của đường cầu.
4.Ảnh hưởng của cung cầu đã tác động tới giá sữa như thế nào?
Giá sữa tăng liên tục trong 10 năm từ mức 187,956 triệu đồng/tấn (2008) lên mức
242,180 triệu/tấn (2018),ngoài một phần do lạm phát thì nguyên nhân chủ yếu vẫn là tác
động của cung và cầu.
Giá thu mua sữa hiện tại của các doanh nghiệp, nhà máy từ người chăn nuôi ổn định, đạt quanh
mức 11.000 – 12.000 đồng/lít,trong khi vào thời điểm năm 2008 là 13000/lít.
13
14
III.Dự báo giá sữa trong thời gian sắp tới tại thị trường Việt Nam.
1.Trong dài hạn
Hiện nay,giá sữa tại Việt Nam đang cao nhất thế giới,cao hơn đến 30-60% so với các nước trong
khu vực.Giábán lẻ trung bình là 1,4 USD/lít, trong khi Trung Quốc là 1,1 USD,Ấn Độ: 0,5 USD,các
nước Âu - Mỹ từ 0,5-0,9 USD/lít.Hiện giá sữa ở Việt Nam cao gấp đôi Malaysia và gấp 1,5 lần so
với Thái Lan.Do đó,xu thế giảm giá sữa sẽ là tất yếu.Nguồn cung sữa nguyên liệu trong nước
đang tăng lên cùng với sự tăng đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi bò sữa. Nguồn nguyên liệu sữa
nhập ngoại cũng sẽ tăng do 1 loạt các thỏa thuận kinh tế khiến thuế sữa giảm.dần về 0%.Có khả
năng các công ty nước ngoài sẽ đầu tư nhà máy mới,hoặc gia công ngay tại các nhà máy trong
nước,do vậy xu hướng giảm giá là rất lớn.Như vậy trong dài hạn tốc độ tăng giá sữa sẽ giảm dần
và có thể tiến tới giảm giá.
P0
S0
D0
D1
E0
E1
S1
P1
2.Trong ngắn hạn.
Có thể nói chưa bao giờ mức tăng giáQ nguyên liệu sữa lại tăng cao và dồn dập như hiện
O
Q0
nay.Chính vì thế việc đưa ra những
dự đoán về giá sữa trong thời gian tới là rất khó khăn, khi thị
Q1
trường có nhiều biến động khó lường. Trong ngắn hạn 21 Về nhu cầu: Việt Nam là một thị
trường rất có tiềm năng với dân số đông, trẻ và mức sống ngày càng được nâng cao nên nhu cầu
về sản phẩm sữa sẽ tăng lên, sữa được coi như một sản phẩm thiết yếu, đặc biệt là sữa dành cho
trẻ em. Vì vậy, việc tăng giá sữa không đồng nghĩa với nhu cầu về sữa giảm đi. Về nguồn cung
nguyên liệu sữa trong nước có tăng nhưng tăng chưa đáng kể, chỉ đáp ứng được khoảng 24% 30% nhu cầu trong nước, còn 70% - 76% là do nhập ngoại. Trong tình trạng giá sữa thế giới liên
tục tăng như hiện nay thì trong giá sữa trong nước sẽ còn tăng
15
P1
P0
S0
S1
E1
E0
D1
D0
O
Q0
Q1
16