MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
1. Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài...............................3
2. Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nợ xấu ngân
hàng..............................................................................................4
2.1. Khái niệm nợ xấu và cách phân loại nợ xấu........................................4
2.2. Phân tích nợ xấu dưới 2 góc nhìn khác nhau.......................................6
2.2.1. Nợ xấu đóng vai trò là kết quả......................................................6
2.2.2. Nợ xấu đóng vai trò là nguyên nhân..............................................9
2.3. Những giải pháp và kiến nghị......................................................10
KẾT LUẬN...................................................................................14
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động tín dụng luôn là hoạt động then chốt của các ngân hàng thương
mại (NHTM), do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm
hàng đầu của các NHTM. Việc gia nhập WTO đã đặt các NHTM Việt Nam đứng
trước nhiều cơ hội lẫn thách thức. Khi ấy các NHTM nước ngoài cũng tham gia
vào thị trường tài chính Việt Nam, do đó tính cạnh tranh giữa các NHTM ngày
càng trở nên quyết liệt. Trong khi đó các NHTM Việt Nam còn nhiều yếu kém
không chỉ về vốn mà còn ở năng lực chuyên môn, đặc biệt là trong việc đánh giá
khả năng trả nợ của khách hàng. Điều đó ảnh hưởng lớn đến con số nợ xấu, một
chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ở ngân hàng.
Hiện nay nợ xấu đang là một trong những lo ngại hàng đầu của các các
NHTM trong nước. Tính đến cuối quý I năm 2012, nhiều ngân hàng đang phải
đối mặt với con số nợ xấu lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Theo các báo cáo tài
chính quý 1/2012 của các ngân hàng như Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương
(Vietcombank), Ngân
Hàng TMCP Công Thương(Vietinbank), Ngân Hàng
TMCP Á Châu (ACB), Ngân Hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB) dư nợ cho
vay thì sụt giảm trong khi nợ xấu thì tăng nhanh.
Hiện tượng này xảy ra ở cả các NHTM quốc doanh lẫn khối NHTM cổ
phần tư nhân, ở cả các ngân hàng lớn cũng như những ngân hàng nhỏ. Trong khi
đó những ngân hàng kể trên từng được đánh giá là có tình hình tài chính lành
mạnh, khả năng quản trị tốt, được cấp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 17% và được
Ngân Hàng Nhà Nước xếp nhóm 1 về tăng trưởng tín dụng.
Nếu vậy thì đối với các ngân hàng được xếp vào các nhóm thấp hơn về
tăng trưởng tín dụng thì tình hình nợ xấu sẽ đi đến đâu? Các con số về chỉ tiêu
nợ xấu ở các ngân hàng thay đổi như thế nào qua các năm? Việc gia tăng tỷ lệ nợ
xấu sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với hoạt động của các ngân hàng ? Những
nguyên nhân nào làm cho tỷ lệ nợ xấu tăng lên? Tất cả những câu hỏi này sẽ
được làm rõ qua chuyên đề mang tên : “Nợ xấu ngân hàng dưới góc nhìn của
phạm trù nhân quả”.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài.
Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất
shiện. Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng
đều là biều hiện của mối quan hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả
thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản
sinh ra nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng,
cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình
thành kết quả và ngược lại.
Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, không có hiện
tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào được
xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là
nguyên nhân thì trong sự việc khác, nó lại được coi là kết quả và ngược lại.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không
giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân
theo hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực.
Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tượng
nào tồn tại mà không có nguyên nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học
là phải khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta mới có
thể định hướng cho sự phát triển tiếp sau.
Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi nguyên
nhân có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân
loại các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân phát triển
cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược
chiều. Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác
động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết
quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển.
2. Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nợ xấu
ngân hàng.
2.1. Khái niệm nợ xấu và cách phân loại nợ xấu
Hiện nay, để đánh giá đúng chất lượng của các tài sản Có của tổ chức tín
dụng (ngân hàng, công ty tài chính…), các khoản cho vay/cấp tín dụng (thường
được gọi với tên thông dụng là các khoản nợ) và cam kết ngoại bảng (bảo lãnh,
chấp nhận thanh toán, cam kết cho vay không hủy ngang…) được phân loại từ
Nhóm 1 - 5 và được trích lập dự phòng rủi ro tương ứng.
Nợ xấu dùng để chỉ các khoản nợ phân loại vào các nhóm 3, 4 và 5. Nợ
xấu về bản chất là khái niệm dùng để chỉ các khoản nợ cho vay khách hàng đang
đối diện với rủi ro cao trong việc thu hồi nợ gốc và lãi vay do khách hàng gặp
khó khăn.
Hệ thống quy định của Việt Nam hiện tại đánh giá rủi ro này chủ yếu dựa
trên số ngày quá hạn trong việc trả nợ vay. Tuy nhiên, giới chuyên môn cũng ghi
nhận nhiều trường hợp các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ (giãn nợ)
hay ký hợp đồng vay mới (đảo nợ) để không phải ghi nhận vào nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5.
Trong khi đó, khái niệm Tỷ lệ cấp tín dụng xấu được mở rộng hơn, là tỷ lệ giữa
tổng nợ và cam kết ngoại bảng từ nhóm 3 đến nhóm 5 so với tổng nợ và các cam
kết ngoại bảng từ nhóm 1 đến nhóm 5.
Dưới đây là phương pháp phân loại nợ theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN
ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà nước thay thế cho Quyết định 493 ban
hành năm 2005. Cách phân loại các khoản mục cam kết ngoại bảng cũng được
thực hiện với nguyên tắc tương tự.
Cách phân loại này khác biệt với các hướng dẫn của IFRS và thường được
cho là không thể hiện đầy đủ rủi ro nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
Các khoản nợ xấu phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (cụ thể) cao hơn
rất nhiều so với các nhóm nợ 1 và 2.
Nhóm nợ
Phương pháp định lượng Phương pháp định tính
1 – Nợ đủ tiêu chuẩn
(Current)
Nợ trong hạn, hoặc quá Có khả năng thu hồi đầy
hạn dưới 10 ngày.
đủ cả nợ gốc và lãi đúng
hạn
2 – Nợ cần chú ý
(Special mentioned)
Quá hạn từ 10 - 90 ngày; Có khả năng thu hồi đầy
Nợ điều chỉnh hạn trả nợ
đủ cả nợ gốc và lãi,
lần đầu.
nhưng có dấu hiệu suy
giảm khả năng trả nợ.
3 – Nợ dưới tiêu
Quá hạn từ 91 - 180 ngày;
chuẩn ( Sub-standard) Nợ gia hạn nợ lần đầu;
Miễn hoặc giảm lãi.
4 – Nợ nghi ngờ
( Doubtful)
5 – Nợ có khả năng
mất vốn (Bad)
Không có khả năng thu
hồi nợ gốc và lãi khi đến
hạn. Có khả năng tổn
thất.
Quá hạn từ 181 - 360
Có khả năng tổn thất cao.
ngày;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần đầu, nhưng lại tiếp
tục quá hạn dưới 90 ngày;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần thứ hai…
Nợ quá hạn trên 360 ngày; Không còn khả năng thu
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả hồi, mất vốn.
nợ lần đầu, nhưng lại tiếp
tục quá hạn từ 90 ngày trở
lên;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần thứ hai nhưng lại
quá hạn;
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần thứ ba trở lên…
2.2. Phân tích nợ xấu dưới 2 góc nhìn khác nhau
2.2.1. Nợ xấu đóng vai trò là kết quả
Nhìn nhận trong giai đoạn vừa qua ở nước ta, có thể thấy rằng tình trạng
nợ xấu ngân hàng xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, từ yếu tố kinh tế vĩ mô: Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng
hoảng, môi trường kinh tế vĩ mô khó khăn làm giảm khả năng trả nợ của người
vay khiến chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng suy giảm. Trong giai đoạn
2008-2010, nền kinh tế Việt Nam đã đối diện với tình trạng lạm phát cao, đồng
thời chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, tái lặp lạm phát cao làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm.
Trong hai năm 2011-2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút rõ rệt.
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP chỉ đạt 5,89%, và đến năm
2012 chỉ còn 5,03%. Chỉ số tăng trưởng sản xuất công nghiệp giảm xuống đáng
kể, chỉ đạt lần lượt 6,8% và 4,8%. Tiêu dùng cá nhân chậm, tổng mức hàng hóa
bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2011 và 2012 chỉ tăng 24,2% và 21,5%, nếu
loại trừ ảnh hưởng của yếu tố giá chỉ số này chỉ tăng 4,7% và 3,4%. Chỉ số tồn
kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm 2011, chỉ
số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ
năm 2012. Tại thời điểm 31/12/2012, chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến
tăng 20% so với cùng kỳ năm trước.
Điều này phản ảnh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu
dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh
doanh và làm tăng nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, một số nguyên
nhân khác như tình trạng tăng trưởng tín dụng quá mức và tập trung vào một số
ngành, sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài quốc gia, hiệu quả
của hoạt động giám sát hệ thống, ảnh hưởng từ những cú sốc bên ngoài cũng
khiến nợ xấu ngân hàng tăng cao.
Từ phía các doanh nghiệp
Nhiều doanh nghiệp đã phán đoán không chính xác xu hướng phát triển
của thị trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát
triển quá nóng mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng
trong cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn lại chia nhỏ
dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp các doanh nghiệp
dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng cũng như giảm bớt sự kiểm
soát của ngân hàng. Chính những yếu tố này làm cho ngân hàng gặp khó khăn
trong việc kiểm soát các khoản cho vay, dẫn đến tình trạng nợ xấu.
Nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thiếu hiệu quả, hoạt động
kinh doanh yếu kém, thua lỗ. Trong giai đoạn 2009-2012, thị trường chứng
khoán Việt Nam rơi vào trạng thái suy giảm trong dài hạn, ảnh hưởng tới xu
hướng huy động vốn của các doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp tìm đến
các tổ chức tín dụng (TCTD) để vay vốn tài trợ cho kinh doanh thay vì có thể
phát hành chứng khoán. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong giai đoạn này giúp
các doanh nghiệp có thể tháo gỡ khó khăn về vốn, song lại khiến các doanh
nghiệp phải đối mặt với trạng thái tăng rủi ro tài chính. Khi nền kinh tế bộc lộ
những bất ổn vĩ mô, lạm phát bị đẩy lên ở mức cao, sức mua giảm sút thì tình
trạng tồn kho kéo dài. Điều này khiến nhiều doang nghiệp ứ đọng vốn, không có
khả năng trả nợ vay của TCTD. Do đó, việc sử dụng đòn bẩy tài chính không
hiệu quả cùng với kết quả kinh doanh lỗ của nhiều doanh nghiệp đã trở thành
nguyên nhân gia tăng nợ xấu của các TCTD.
Từ bản thân ngân hàng
Nhận thức về rủi ro tín dụng có hạn chế nhất định. Nguyên nhân của hạn
chế này do nhiều yếu tố:
(i) Nhận thức sai lầm trong mối quan hệ và tầm quan trọng giữa rủi ro,
kinh doanh và nguồn vốn, xem xét chưa đầy đủ về những khả năng mất vốn do
những rủi ro tiềm ẩn gây ra, chủ quan về mở rộng kinh doanh, tăng trưởng cho
vay phụ thuộc chủ yếu vào huy động tiền gửi, phát triển kinh doanh thiếu căn cứ
(ii) Một số nhà quản lý ưa thích rủi ro, khi xem xét hồ sơ của khách hàng
truyền thống chỉ dựa vào các tài liệu được cung cấp, như báo cáo bằng văn bản,
báo cáo tài chính, không thực hiện đánh giá rủi ro một cách khách quan. Do đó
làm mất đi sự chính xác và tính hiện thực khi xem xét hồ sơ vay vốn của khách
hàng.
Thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong kỹ năng quản lý: có hiện tượng ngân
hàng thiếu biện pháp hiệu quả để xác định, định hướng và kiểm soát rủi ro trong
từng khu vực, số liệu quá khứ không đầy đủ, hệ thống thông tin không cập nhật,
kinh nghiệm cá nhân nhiều khi lạm dụng có thể để lại hậu quả cho hoạt động
ngân hàng. Do đó, biện pháp quản lý yếu kém có nguy cơ tập trung và mang tính
hệ thống.
Quản lý rủi ro không diễn ra xuyên suốt cả quá trình:
(i) Công tác thẩm định không kỹ lưỡng, nghiêm ngặt: trong quá trình
thẩm định trước khi cho vay, có trường hợp quan hệ cá nhân có ảnh hưởng nhất
định, vì vậy có hiện tượng buông lỏng công tác thẩm định, không đánh giá một
cách toàn diện, chính xác những rủi ro của khoản vay, thiếu hiểu biết đầy đủ về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại cũng như tương
lai, đánh giá quá lạc quan, thiếu phân tích ảnh hưởng tiềm ẩn của môi trường
xung quanh, biến động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước.
(ii) Quá trình xét duyệt hồ sơ: có trường hợp ngân hàng bỏ qua một thực
tế thủ tục và hồ sơ vay vốn của khách hàng không đầy đủ, hay hồ sơ vay vốn của
khách hàng là hồ sơ ảo.
(iii) Rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng: là mối quan tâm lớn trong công tác
quản trị ngân hàng. Những vấn đề thường gây ra rủi ro trong nghiệp vụ như:
năng lực phân tích, thẩm định khách hàng yếu kém dẫn đến việc ngân hàng bị
lừa đảo, mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong khi bên được bảo
lãnh mất khả năng thanh toán. Hạn chế trong vận dụng quy định của pháp luật
trong nước, quốc tế liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng làm phát sinh
những tranh chấp kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng. Năng
lực của cán bộ tín dụng về thẩm định còn hạn chế cũng là yếu tố dẫn đến rủi ro
khi thực hiện bảo lãnh ngân hàng.
Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân hàng và khách
hàng kém dẫn đến tình trạng thông đồng rút ruột ngân hàng. Ngân hàng là
ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì
đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn mang tính bắt
buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông đồng rút ruột với
khách hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì
vậy đã có chi nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với nhau rút
ruột ngân hàng. Tuy nhiên hiện chưa có tín h toán, trong tỷ lệ nợ xấu có bao
nhiêu xuất phát từ đạo đức ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng
“chuyển vốn cho vay thành vốn góp.” Khoản nợ này không chỉ “rất xấu” mà
còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn tại trên sổ sách của con nợ và chủ nợ.
Thứ tư, do tình trạng sở hữu chéo. Một nghiên cứu của Chương trình giảng
dạy kinh tế Fulbright công bố mới đây về sở hữu chéo giữa Ngân hàng với
doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam cho thấy hệ thống Ngân hàng đã hình thành
một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo quan hệ rất phức tạp, nhằm mục
đích thâu tóm ngân hàng, thu xếp vốn cho những dự án đầu tư chưa minh
bạch. Theo đó, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà
nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính nhưng hiện
đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược trong các
Ngân hàng thương mại. Chưa kể, các Ngân hàng cũng sở hữu cổ phần lẫn
nhau, cổ đông tại các Ngân hàng thương mại là các công ty quản lý quỹ đầu
tư vốn vào những Ngân hàng khác có tiềm năng. Hiện không ít tập đoàn, tổng
công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở hữu chéo khi họ có trong
tay khá nhiều Ngân hàng. Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, đến nay, gần 40
Doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% tại các Ngân hàng
Thương mại cổ phần và các doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư
tài chính[7]. Tình trạng sở hữu chéo này có thể dẫn tới rất nhiều hệ lụy, một
trong số đó là làm tăng tỷ lệ xấu của các ngân hàng. Bởi lẽ, việc sở hữu chéo
sẽ dẫn đến tình trạng các Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để cho các doanh
nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia,
hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại
ngân hàng vay vốn, thậm chí khi một tổ chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi
phối ngân hàng khác và biến ngân hàng này thành "sân sau” của mình, họ có
thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án không an toàn
hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Việc cho vay dễ dàng, thiếu
kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến
nợ xấu. Do đó, tình trạng sở hữu chéo được xem là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao trong thời gian gần đây.
Thứ năm, quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có
nhưng chưa minh bạch, chưa hợp lý. Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã
có những khung pháp lý cơ bản trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ
xấu của các TCTD như: quy định về phân loại nợ; quy định về trích lập dự
phòng rủi ro; quy định về xử lý tài sản đảm bảo nợ; quy định về quyền khởi
kiện yêu cầu các tổ chức cá nhân hoàn trả vốn vay; quy định về hoạt động
mua bán nợ…Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, các quy định khi đi vào thực tế
trở nên không phù hợp, không phát huy được hiệu quả trong việc giải quyết
nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu không được cải thiện mà còn có xu hướng
tăng lên. Có thể kể đến những hạn chế như:
(i) Quy định phân loại nợ xấu chưa rõ ràng, khiến cho việc giải quyết nợ
xấu khó khăn. Về mặt nguyên tắc, để giải quyết được nợ xấu trước hết phải
tìm ra được con số thực và những nguyên nhân dẫn đến có con số đó thì mới
có giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, một trong những rào cản lớn nhất khiến cho
việc xác định chính xác số nợ xấu cũng như tình trạng nợ xấu tại các TCTD
hiện nay đó là sự không rõ ràng trong quy định về tiêu chí phân loại nợ. Theo
quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, được sửa đổi bổ sung tại Quyết
định 18/2007/QĐ-NHNN của NHNN nợ của các TCTD được phân loại dựa
trên cả 2 phương pháp định lượng[8] và định tính[9]. NHNN cho phép các
ngân hàng lựa chọn 1 trong 2 phương pháp tùy theo khả năng và điều kiện
thực hiện của từng ngân hàng. Chính vì vậy, có ngân hàng xác định tỷ lệ nợ
xấu theo phương pháp định lượng, có ngân hàng theo phương pháp định tính.
Trong đó, phân loại nợ theo phương pháp định tính được đánh giá là phương
pháp phân loại nợ phát huy hiệu quả hơn, giúp cho TCTD có đầy đủ cơ sở để
đánh giá tiềm lực và khả năng thanh toán nợ của khách hàng một cách chính
xác và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, Tại Việt nam hiện nay vẫn chưa có một quy
chuẩn chung về tiêu chí định tính, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có bất cứ
hướng dẫn cụ thể nào về việc áp dụng phương pháp định tính mà chỉ có
những quy định chung chung tại Quyết định 493/QĐ-NHNN, mặt khác việc
phân loại nợ theo phương pháp định tính yêu cầu TCTD thực hiện phải xây
dựng một hệ thống đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng một cách
chặt chẽ mà điều này lại không dễ thực hiện, đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian
cũng như công sức. Một yếu tố quan trọng nữa đó là việc phân loại nợ theo
tiêu chí định tính sẽ làm tỷ lệ nợ xấu cao gấp 2 – 3 lần so với định lượng mà
nợ xấu cao đồng nghĩa với doanh nghiệp phải trích lập tỷ lệ dự phòng cao,
đây là điều nhiều TCTD e ngại khi phân loại nợ xấu. Do đó, hiện nay ở Việt
Nam có rất ít TCTD tiền hành phân loại nợ theo phương pháp định tính[10].
Trong khi đó việc phân loại nợ theo tiêu chí định lượng lại không quan tâm
đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, điều này dẫn tới việc
phân loại nợ không phản ánh thực chất của khoản nợ, các TCTD cũng không
chủ động được về chất lượng danh mục tín dụng của mình. Như vậy, quy định
phân loại nợ xấu chưa rõ ràng đã khiến con số nợ xấu của các NHTM không
được phản ánh đầy đủ và chính xác, từ đó dẫn tới việc giải quyết nợ xấu cũng
như hạn chế nợ xấu gia tăng trở nên khó khăn hơn.
(ii) Quy định về xử lý nợ thông qua khởi kiện ra tòa án đối với các khoản nợ
không có tài sản đảm bảo nợ phức tạp, gây khó khăn, mất nhiều thời gian của
các TCTD trong quá trình thu hồi nợ. Sở dĩ như vậy là do, việc xử lý nợ thông
qua khởi kiện ra tòa án đối với các khoản nợ không có tài sản đảm bảo nợ
như yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp. Theo hướng này thì
thời gian xử lý lâu (phải từ 3 – 4 năm) vì phải mất nhiều trình tự, thủ tục như
mở thủ tục phá sản, thành lập tổ thanh lý tài sản, thực hiện thanh lý tài sản…
Trong khi đó, tỷ lệ thu hồi nợ trong những trường hợp này cũng rất thấp do xử
lý tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức bán thanh lý và số tiền thu hồi phải
phân chia cho các chủ nợ có tài sản đảm bảo khác. Thậm chí, dù có phán
quyết của Toà án, TCTD vẫn gặp trở ngại vì khâu thi hành án chậm, thủ tục thi
hành án còn nhiều bất cập. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ
quan chức năng liên quan như cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá… Từ
lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ xử lý nợ qua toà án mất ít nhất 2
năm, trung bình mất 8 – 9 năm[11]. Việc xử lý nợ xấu quan khởi kiện khó khăn
như vậy cho nên tình hình nợ xấu của các TCTD cho đến nay không giải
quyết được là bao, các khoản nợ xấu vẫn tiếp tục tồn động trên giấy tờ từ
năm này qua năm khác mà không có cơ chế nào để thu hồi về. Do đó, để giải
quyết tình trạng nợ xấu hiện nay, việc tạo khung pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện
thuận lợi cho các TCTD khởi kiện yêu cầu các tổ chức, cá nhân mắc nợ thanh
toán nợ là rất cần thiết.
(iii) Khung pháp lý về việc mua bán nợ đã có những chưa hoàn thiện,
chưa phát huy hiệu quả trong hoạt động giải quyết nợ xấu. Tại Việt Nam,
thị trường mua bán nợ đã manh nha hình thành với sự ra đời của các công ty
xử lý và mua bán nợ của các ngân hàng thương mại (AMC) và công ty mua
bán nợ – DATC thuộc Bộ Tài chính. Cả DATC và AMC về nguyên tắc giống
nhau, đều có nhiệm vụ mua lại các khoản nợ xấu từ các ngân hàng thương
mại, từ các chủ nợ, doanh nghiệp và cơ cấu lại bán cho thị trường. Thông qua
hoạt động mua bán nợ, các con nợ có cơ hội phục hồi sản xuất kinh doanh, từ
đó tạo dòng tiền đi vào để có nguồn trả nợ.Tuy nhiên, DATC có số vốn điều lệ
hạn chế, nên hoạt động lâu nay chủ yếu mua bán nợ một số ngân hàng
thương mại trong lần tái cơ cấu thứ nhất giai đoạn 2001-2004. Còn AMC
ngoài mua bán nợ còn có một số nghiệp vụ repo tài sản như là hoạt động tín
dụng. Vì thế hoạt động mua bán nợ của AMC dành cho ngân hàng thương
mại đó rất hạn chế. Ngoài ra, khung pháp lý cho hoạt động của các chủ thể
này hoạt động mua bán nợ cũng chưa đầy đủ, khiến việc mua bán, giải quyết
nợ tồn đọng trở nên khó khăn hơn. Ví dụ, vấn đề cốt lõi trong hoạt động của
DATC và MAC đó sau khi mua nợ thì cần xử lý doanh nghiệp yếu kém, nâng
đỡ để phục hồi doanh nghiệp đó lại, có như thế mới có thể thu hồi vốn bỏ ra,
chữa “lành” được vết thương cho nền kinh tế. Và yếu tố quan trọng hàng đầu
để phục hồi những doanh nghiệp này chính là vốn, có vốn thì doanh nghiệp
mới có thể phục hồi sản xuất, tiếp tục hoạt động, có như thế mới có tiền để trả
nợ. Tuy nhiên, Quy định hiện hành không cho phép công ty mua bán nợ cho
vay bảo lãnh, do đó việc xử lý, khôi phục các doanh nghiệp nợ trở nên rất khó
khăn và mất nhiều thời gian. Không chỉ khó khăn trong khâu xử lý doanh
nghiệp sau khi mua, công ty mua bán nợ còn gặp khó khăn trong tiếp cận
“khách hàng bán nợ”. hiện nay ngân hàng thương mại không có quy định buộc
các ngân hàng thương mại phải bán nợ nếu họ để tỷ lệ nợ xấu cao hoặc họ
không đủ năng lực xử lý nợ xấu nên đa số NHTM còn e ngại trong bán nợ.
Ngoài ra, nếu có chào bán nợ xấu thì họ đòi giá rất cao đến phi thực tế, 70%
thậm chí cả 100% mệnh giá món nợ. Điều này khiến cho việc đàm phán rất
mất thời gian, ảnh hưởng nhiều tới nỗ lực mua và xử lý nợ xấu của DATC và
AMC…
2.2.2. Nợ xấu đóng vai trò là nguyên nhân
Khi xem xét mối quan hệ nhân – quả dưới góc độ nợ xấu đóng vai trò là
một nguyên nhân, thì những hậu quả mà nợ xấu đem lại đối với nền kinh tế đó
chính là:
- Thứ nhất: Việc giải quyết nợ xấu chậm sẽ dẫn đến tình trạng các bảng
cân đối kế toán của các ngân hàng (NH) vẫn chiếm tỷ lệ nợ xấu cao, đồng nghĩa
với việc NH sẽ không thể cho vay và các DN không tiếp cận được vốn để tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng
xấu tới sự phát triển kinh tế của đất nước trong những năm tiếp theo.
- Thứ hai: Khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình
và vô hình đối với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình là việc các tài sản
cầm cố tại ngân hàng sẽ ngày càng bị hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử
dụng sẽ mất dần, nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các tài sản này sẽ được đem
ra sử dụng nhanh chóng, tạo nên giá trị và giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Về
mặt vô hình khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của Việt
Nam sẽ khó mà duy trì được mức tín nhiệm như hiện nay, điều này gây ảnh
hưỏng không nhỏ tới môi trường đầu tư.
- Thứ ba: Tỷ lệ nợ xấu đối với lĩnh vực cho vay bất động sản thương mại
và bất động sản dân dụng mặc dù trong các báo cáo là không thật sự lớn, tuy
nhiên có thể vì lý do nào đó trong phương án kinh doanh, số tiền cho vay lẽ ra
được rót vào các lĩnh vực sản xuất nhưng kỳ thực lại được rót vào bất động sản
hoặc lĩnh vực phi sản xuất. Không thể có số liệu thống kê chính thức trong lĩnh
vực này nhưng có thể dư nợ cho vay loại này không hề nhỏ đối với nền kinh tế,
tình trạng bất động sản xuống giá như thời gian vừa qua càng làm cho nhu cầu
đối với bất động sản giảm mạnh, hàng tồn kho về bất động sản ngày càng tăng
lên, các DN bất động sản bắt buộc phải liên tục hạ giá bán nhưng vẫn không thể
bán được, quá trình này diễn ra liên tục trong thời gian dài dẫn tới hiện tượng
bán tháo, tuột dốc không phanh, khi đã dẫn tới tình trạng bán tháo mà vẫn không
có người mua thì số tiền mà các DN bất động sản bán được cũng không thể nào
trả được hết nợ gốc cho ngân hàng.
- Thứ tư: Việc giải quyết nợ xấu bị kéo dài sẽ làm suy giảm năng lực tài
chính của các NH, năng lực tài chính của các NH là xấu thì việc điều hành chính
sách tiền tệ mới sẽ trở nên khó khăn và hoạt động cung cấp tín dụng cho nền
kinh tế sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
- Thứ năm: Việc tỷ lệ nợ xấu tăng đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động
của các ngân hàng. Bởi vì khi con số nợ xấu tăng cao sẽ làm tăng chi phí hoạt
động, vì phải trích lập dự phòng nhiều hơn đối với các khoản nợ nhóm 3, 4, 5.
Trong trường hợp thu hồi được vốn nhưng lợi nhuận thu được giảm so với tính
toán khi ký kết hợp đồng tín dụng. Khi lợi nhuận giảm thì những khoản đóng
góp vào ngân sách cũng giảm đi, kéo theo việc đầu tư vào hiện đại hóa công
nghệ ngân hàng, đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ nhân viên cũng giảm sút.
Bên cạnh đó khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao gấp 2 đến 4 lần tín dụng quốc tế thì
uy tín và hệ số tín nhiệm của ngân hàng bị sụt giảm nghiêm trọng. Một ngân
hàng mà mang con số nợ xấu quá cao thì dễ gây tâm lý hoang mang cho khách
hàng lẫn nhân viên. Trong trường hợp ngân hàng mất vốn, phải khoanh nợ, giảm
nợ thậm chí là xóa nợ, ngoài phần lớn phần vốn do ngân sách cấp bù đắp, chủ
yếu do các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro, phải giảm thu nhập, giảm lương,
và lại phải bắt đầu đối mặt với tình trạng cán bộ nghĩ việc, thiếu nhân viên có đủ
năng lực làm việc, mà nguồn nhân lực chất lượng cao thì rất quan trọng đối với
hệ thống ngân hàng, dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh càng đi xuống.
- Thứ sáu: Việc tăng cao của tỷ lệ nợ xấu có tác động gián tiếp đến nền
kinh tế thông qua mối quan hệ hữu cơ ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế.
Trước tiên nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, sau
đó ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vì khi nợ xấu phát sinh và
tăng cao sẽ làm hạn chế khả năng khai thác và đáp ứng vốn, dịch vụ của ngân
hàng cho nền kinh tế. Mặt khác nếu nợ xấu phát sinh do khách hàng hoặc doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế vì
nguồn vốn bị ứ động và việc sản xuất bị đình trệ làm cho nền kinh tế bị trì trệ,
thậm chí là tuột dốc theo tác động dây chuyền.
Bên cạnh đó nợ xấu cao sẽ dẫn đến rủi ro vỡ thanh khoản cao, vỡ cơ cấu
kỳ hạn của ngân hàng trong trường hợp không thu hồi được nợ. Do những mối
liên hệ trên thị trường tài chính nói chung và thị trường liên ngân hàng nói riêng,
nên bất kỳ một ngân hàng nào gặp phải những rủi ro trên thì đều có khả năng sẽ
ảnh hưởng đến cả hệ thống. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tăng cao không những
ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân các ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế.
2.3. Những giải pháp và kiến nghị
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, để giảm và hạn chế nợ
xấu phát sinh, các giải pháp sau đây được đề xuất:
(1) Đối với ngân hàng có mức nợ xấu quá cao:
(i) Hỗ trợ thanh khoản: NHTW thực hiện hỗ trợ thanh khoản cho các
ngân hàng thông qua các công cụ khác nhau với vai trò người cho vay cuối
cùng.
(ii) Sáp nhập các ngân hàng, thay đổi cơ cấu sở hữu .
(2) Thiết lập cơ chế tối đa hóa giá trị thu hồi nợ xấu:
(i) Thành lập các cơ quan với chức năng xử lý nợ tập trung: khi tình trạng
nợ xấu trở nên nghiêm trọng, có thể gây khủng hoảng hệ thống và ảnh hưởng
đến nền kinh tế, Chính phủ ngoài các biện pháp hỗ trợ trực tiếp, cần thành lập cơ
quan với chức năng và quyền hạn đặc biệt, thực hiện xử lý nợ xấu.
(ii) Tạo nguồn vốn để xử lý nợ xấu: Chính phủ cấp vốn trực tiếp thông
qua ngân sách nhà nước hoặc phát hành trái phiếu chính phủ; Cho phép ngân
hàng vay nợ thông qua hình thức phát hành trái phiếu công ty quản lý tài sản,
vay từ các nguồn khác và vay từ NHTW.
(3) Tăng cường niềm tin trong dân:
(i) Tăng hạn mức BHTG hoặc áp dụng bảo lãnh toàn bộ nhằm ngăn ngừa
hoảng loạn, duy trì niềm tin là giải pháp thường được lựa chọn khi tình trạng nợ
xấu của hệ thống ngân hàng quá lớn có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới hệ thống
ngân hàng hoặc gây đổ vỡ ngân hàng.
(ii) Củng cố chuẩn mực kế toán, kiểm toán, phân loại nợ theo các chuẩn
mực quốc tế, tăng cường năng lực giám sát. Điều này đặc biệt cần thiết tại các
quốc gia chưa có chế tài, xử phạt đủ mạnh.
(iii) Tái cơ cấu các cơ quan quản lý lĩnh vực ngân hàng.
(4) Thiết lập cơ sở pháp lý cho việc tham gia của Chính phủ trong xử lý
đóng cửa ngân hàng:
(i) Tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và cơ cấu lại nợ: Ngân hàng có thể
cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp dựa trên những hình thức như điều chỉnh kỳ hạn
nợ, gia hạn nợ, giảm, miễn một phần trả nợ lãi vay phải trả. Bản chất của biện
pháp này là duy trì khả năng trả nợ của khách hàng kết hợp với thiện chí trả nợ
vay của khách hàng.
(ii) Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu như chuyển đổi một tập hợp có
chọn lọc các khoản vay có thế chấp của ngân hàng mà trước đó không có thị
trường thứ cấp. Ngân hàng hoặc cơ quan xử lý nợ xấu có thể xử lý các khoản nợ
xấu nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng giao
dịch mua bán nợ. Thông thường chứng khoán hóa được thực hiện trên 2 nhóm
tài sản chủ yếu là các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và các tài sản
tài chính không được thế chấp bằng bất động sản.
(iii) Bán các khoản nợ: Ngân hàng hoặc các tổ chức xử lý nợ sẽ thực hiện
việc bán các khoản nợ trong trường hợp các khoản nợ xấu không có tài sản đảm
bảo hoặc cần rút ngắn thời gian đòi nợ. Đối với ngân hàng, các khoản nợ xấu có
thể được bán cho tổ chức có chức năng theo quy định để thu hồi vốn. Các cơ
quan xử lý nợ xấu, sau khi tập trung nợ xấu từ các ngân hàng, sẽ bán lại cho một
tổ chức tín dụng hoặc các nhà đầu tư khác nhằm đạt mục tiêu thu hồi vốn nhanh,
các ngân hàng hay các cơ quan xử lý nợ xấu thường chấp nhận bán các khoản nợ
thấp hơn giá trị.
(5) Nỗ lực từ chính ngân hàng có nợ xấu cao
(i) Tăng cường xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và
đạo đức tốt. Để tránh các hiện tượng tiêu cực do chính các cán bộ, nhân viên của
TCTD nhằm trục lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, các TCTD cần phải tăng cường
hiệu quả công tác kiểm soát nội bộ theo hướng hoàn thiện các quy trình, nội
dung và phương pháp kiểm soát, tạo tính độc lập cần thiết cho bộ phận kiểm
soát nội bộ. Ngoài ra, cũng cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và giáo dục tư
tưởng, ý thức chấp hành nội quy, quy chế và pháp luật cho tất cả các cán bộ,
nhân viên của TCTD. Bên cạnh đó, cần thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao
trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Điều đó sẽ góp phần thay đổi tư duy và
hành động của cán bộ tín dụng và giảm thiểu rủi ro cho TCTD.
(ii) Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh: đối với những khoản nợ
xấu không thể cơ cấu, khách hàng không có khả năng trả nợ, ngân hàng chủ
động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả tài sản là bất động sản, bao gồm đất
đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình
thức sau: tự bán công khai trên thị trường, bán qua Công ty mua bán nợ của Nhà
nước, bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản.
(iii) Sử dụng dự phòng rủi ro của chính ngân hàng để xử lý: dự phòng rủi
ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng.
Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các ngân hàng vận dụng
tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là ngân
hàng sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu ảnh hưởng đến
kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Xử lý nợ xấu luôn là bài toán khiến cho nhà quản lý cũng như ngân hàng
đau đầu và mất nhiều thời gian, công sức. Để giải bài toán này cần sự góp sức
của nhiều phía, từ phía nhà quản lý, ngân hàng cũng như doanh nghiệp.
Thực trạng nợ xấu của các TCTD cho thấy tình trạng nợ xấu đang ở mức báo động trong nền kinh tế,
nó được ví như “cục máu đông” làm tắc nghẽn cả hệ thống tài chính. Sự tồn tại của nợ xấu có thể tác
động tiêu cực đến nhiều mặt. Trước hết, làm tăng nghẽn dòng tín dụng ra nền kinh tế. Trong 7 tháng
đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 0,57%[12]. Điều đó chứng tỏ, dòng tiền vẫn còn
đang loanh quanh trong hệ thống ngân hàng. Nợ xấu cũng làm cho lãi suất cho vay của các ngân
hàng thương mại ở mức cao trong thời gian dài, gần đây tuy đã được giảm xuống, nhưng vẫn còn
lớn. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động còn cao. Trước thực trạng như vậy, việc đề
ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Nhiều giải pháp
được đưa ra như thành lập công ty mua bán nợ với quy mô 200.000 tỷ đồng, thực hiện chứng khoán
hóa nợ xấu….Ngân hàng nhà nước cũng tích cực đưa ra các quy định nhằm giải quyết, ngăn chặn
tình hình nợ xấu đang ngày càng gia tăng trong hệ thống ngân hàng, có thể kể đến Thông tư
10/2012/TT-NHNN quy định về xử lý sau thanh tra, giám sát đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài với quy định TCTD có nợ xấu 10% liên tục 3 tháng sẽ bị hạ tăng trưởng tín
dụng, quy định này buộc các TCTD sẽ phải có trách nhiệm hơn, phải thực hiện quyết liệt hơn vấn đề
giải quyết nợ xấu, cũng như cẩn trọng hơn trong quá trình kinh doanh. Bên cạnh đó còn có thể kể tới
Thông tư số 26/2012/TT-NHNN hướng dẫn thủ tục chấp thuận của NHNN đối với việc niêm yết cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán trong nước và nước ngoài của tổ chức tín dụng cổ phần (TCTD)
với quy định TCTD nợ xâu từ 3% trở lên không được niêm yết. Việc bị hủy niêm yết cũng đồng nghĩa
với việc khả năng huy động vốn của TCTD bị thu hẹp, cơ hội quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp
cũng bị hạn chế… Những quy định trên cho thấy, Ngân hàng nhà nhà nước đang rất chú trọng nâng
cao trách nhiệm, chất lượng hoạt động của các TCTD để có thể giải quyết vấn đề nợ xấu tận gốc.
Đây là những bước đi đúng hướng, tuy nhiên, chỉ bằng đấy chưa đủ. Vấn đề nợ xấu là một vấn đề hết
sức phức tạp, do nhiều nguyên nhân dẫn tới, do đó, việc giải quyết nợ xấu không chỉ đơn giản là đưa
ra một vài giải pháp, hay ban hành một vài văn bản quy định trách nhiệm của các chủ thể liên quan
mà cần đi vào phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu như hiện nay để từ đó đưa ra
giải pháp giải quyết thích hợp. Cần xác định rõ việc giải quyết nợ xấu không chỉ là giải quyết “cục máu
đông” hơn hai trăm ngàn tỷ mà còn phải quan tâm tới việc hạn chế không để “mầm bệnh máu đông”
tái phát. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân của thực trạng nợ xấu của Việt Nam hiện nay có thể
áp dụng đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về phân loại nợ xấu. Để có thể tiến hành giải quyết nợ
xấu thì việc đầu tiên mà các TCTD cần tiến hành là phải xác định rõ, chính xác tình hình nợ của
doanh nghiệp. Để làm được điều này, thiết nghĩ pháp luật hiện hành nên có quy định rõ ràng hơn
trong việc phân loại nợ xấu, nên thống nhất một tiêu chí phân loại nợ áp dụng cho tất cả các TCTD,
nên kết hợp giữa phương pháp định lượng và phương pháp định tính trong việc phân loại nợ xấu.
Đồng thời cần đưa ra một quy chuẩn chung về tiêu chí định tính, quy định cụ thể về quy trình, cách
thức để thực hiện phân loại nợ theo tiêu chí định tính. Cần có quy định mang tính chất bắt buộc chung
đối với các TCTD trong việc nghiêm túc thực hiện phân loại nợ xấu theo đúng quy chuẩn đã ban
hành, nghiêm cấm việc đảo nợ, cơ cấu lại khoản nợ… để che dấu tình trạng nợ xấu.
Thứ hai, Xây dựng thị trường mua bán nợ, hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động mua
bán nợ của DATC và MAC. Trong quá trình giải quyết nợ xấu vai trò của DATC và MAC là không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, khung pháp lý để các chủ thể này hoạt động hiệu quả lại đang thiếu, đây cũng là
nguyên nhân khiến cho hoạt động của những chủ thể này kém hiệu quả trong thời gian qua. Mặt
khác, với quy mô nợ xấu lớn như hiện nay thì chỉ riêng DATC và MAC tham gia mua bán nợ xấu thôi
thì chưa đủ, trong khi đó nợ xấu cũng có thể được xem như một “món hàng” có thể mua bán, mang
lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, và trên thế giới thị trường mua bán nợ xấu cũng đã và đang hoạt động
khá là hiệu quả. Do đó, để góp phần vào việc giải quyết nợ xấu, bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp
lý cho hoạt động mua bán nợ việc xây dựng thị trường mua bán nợ ở Việt Nam cũng hết sức cần
thiết. Có thể kể đến một số giải pháp sau:
(i) Bổ sung quy định cho phép DATC và MAC cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp “con nợ”, để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phục hồi;
(ii) Quy định cụ thể về trách nhiệm của TCTD trong công khai, minh bạch hóa các khoản nợ. Đồng
thời các TCTD phải có nghĩa bán các khoản nợ khó đòi, xác định việc bán nợ xấu cho các công ty giải
quyết nợ xấu chuyên nghiệp là nghĩa vụ chứ không phải là quyền của các TCTD… Chỉ khi nợ xấu
được công khai, TCTD có trách nhiệm bán nợ thì các công ty mua nợ mới có thể tìm đến và thực hiện
hoạt động mua bán nợ.
(iii) Cần đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tham gia thị trường mua bán
nợ, ví dụ như đưa ra các ưu đãi về thuế, cho phép các nhà đầu tư chủ nợ được quyền tham gia vào
quản trị kiểm soát doanh nghiệp phải xử lý nợ…, đơn giản hóa thủ tục xử lý tài sản đảm bảo nợ hay
thanh lý tài sản doanh nghiệp và có cơ chế để thực hiện nhanh chóng trong trường hợp phải phá sản
doanh nghiệp. Những yếu tố đó rất cần thiết để giúp các nhà đầu tư hiểu rằng họ được khuyến khích
và sẽ thu được lợi ích khi tham gia mua bán, xử lý nợ xấu. Có như vậy mới có thể kích thích thị
trường mua bán nợ ở Việt Nam đi vào hoạt động hiệu quả được.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các TCTD. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các
TCTD là một vấn đề lớn cần xem xét xây dựng trong cả một quá trình dài, tuy nhiên, việc quan trọng
đầu tiên trong việc nâng cao năng lực rủi ro của các TCTD đó là cần phải gấp rút xây dựng được
thước đo lượng hóa rủi ro để trên cơ sở dó có thể đưa ra quyết định cho vay, phân loại nợ chính xác
nhất.
Thứ ba, nâng cao ý thức đạo đức, nghề nghiệp cho các nhân viên tín dụng.Trước thực trạng ý
thức đạo đức, nghề nghiệp của các nhân viên tín dụng kém như hiện nay thì việc tuyên truyền, giáo
dục họ nâng cao ý thức là cần thiết nhưng chưa đủ, cần có chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi
vi phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp. Có như thế thì mới có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm,
ý thức đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên tín dụng.
Thứ tư, hạn chế, tiến tới giải quyết dứt điểm tình trạng sở hữu chéo. Như đã phân tích sở hữu
chéo khiến khó nhận dạng được con nợ và chủ nợ thực sự trong hệ thống. Trong thời gian dài việc
quản lý sở hữu quá lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng, không nhận diện được những chủ sở hữu thực sự.
Do đó, nếu không xử lý được tình trạng sở hữu chéo đang tồn tại ở hệ thông ngân hàng hiện nay thì
vấn đề nợ xấu rất khó có thể giải quyết. Việc giải quyết tình trạng sở hữu chéo là cả một vấn đề lớn,
do đó trong khuân khổ bài viết tác giả chỉ xin đưa ra một số giải pháp mà các chuyên gia hiện nay
đánh giá là cần thiết như sau: (i) “Ngân hàng Nhà nước cần có hành lang pháp lý nhằm kiểm soát
đường đi của dòng tiền bởi mọi bất cập của các Ngân hàng thương mại đều phát sinh từ đây” – TS
Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia. (ii) Theo chương trình giảng
dạy kinh tế Fulbright, trước hết Ngân hàng Nhà nước cần sửa đổi các giới hạn về sở hữu, cấp tín
dụng liên quan đến cổ đông lớn, xóa bỏ các lỗ hổng pháp lý để cá nhân, tổ chức không thể kiểm soát
Ngân hàng thông qua nhiều tầng nấc trung gian… Với những nhóm cổ đông hiện hữu (gồm cả Nhà
nước lẫn tư nhân), nếu có nắm giữ cổ phiếu Ngân hàng trực tiếp hay gián tiếp vượt mức giới hạn của
quy định mới thì buộc phải có kế hoạch thoái vốn gửi cho Ngân hàng Nhà nước giám sát, chế tài. (iii)
“Chính phủ Việt Nam cần có những điều hành rõ ràng, các ngân hàng cũng cần phải công bố thông
tin minh bạch và giám sát việc sở hữu chéo” – theo ông Tomoyuki Kimura, Giám đốc ADB tại Việt
Nam…
Thứ năm, cần có giải pháp giải quyết nợ xấu phù hợp với từng nhóm nợ, trong mỗi giải pháp
cần có sự hỗ trợ của chính phủ thông qua cơ chế, chính sách. Cụ thể:
(i) Đối với một số nhóm nợ xấu do doanh nghiệp “con nợ” có hàng tồn kho không thể bán
được. Đối với những trường hợp này việc hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thanh lý hàng tồn
kho là giải pháp hữu hiệu nhất. Chính phủ có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp trong trường hợp này
thông qua việc giảm thuế, miễn thuế để doanh nghiệp hạ giá thành, kích thích tiêu dùng, giải quyết
hàng tồn kho. Hàng tồn kho được giải quyết, doanh nghiệp có vốn để tiếp tục quay vòng phục hồi sản
xuất. Từ đó, sẽ có tiềm lực để trả nợ cho các TCTD.
(ii) Đối với khoản nợ được đánh giá mất hoàn toàn khả năng thu đòi (ví dụ doanh nghiệp nợ bị
phá sản, tài sản đảm bảo không còn giá trị). Cần xác định rõ trách nhiệm của TCTD trong những
trường hợp này. TCTD phải chấp nhận chịu lỗ, trích dự phòng rủi ro để giải quyết, thậm chí phải cắt
lợi nhuận của ngân hàng để bù đắp vào khoản nợ không thể thu hồi này.
(iii) Đối với các khoản nợ có tài sản đảm bảo, khoản nợ doanh nghiệp “con nợ” có khả năng
phục hồi nếu có sự hỗ trợ. Trong trường hợp này nên kết hợp giải pháp chứng khoán hóa nợ xấu
và giải pháp mua bán chứng khoán nợ xấu. Bởi lẽ: Thực tế cho thấy, đối với những khoản nợ có tài
sản đảm bảo việc bán tài sản đảm bảo mất rất nhiều thời gian mà không hiệu quả. Bởi, giá trị tài sản
đảm bảo nợ đã “bốc hơi” rất nhiều so với thời điểm vay vốn, ví dụ như các tài sản là tàu biển giá trị
giảm trên dưới 50%, các cổ phiếu có nhiều mã giảm tới 60 – 70% so với thời điểm cầm cố, giá trị bất
động sản giảm mạnh, các tài sản đặc thù giá trị lớn khó xác định giá giao dịch… Điều này khiến các
TCTD rất khó xử lý tài sản đảm bảo nợ, nếu xử lý thì chỉ thu hồi được một phần nợ. Ngoài ra, một khó
khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải khi tài sản đảm bảo của một số doanh nghiệp là các máy
móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó thanh lý. Khi bán được thì phải ưu tiên thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu, vì hầu hết các thiết bị này đều được miễn thuế nhập khẩu do thường
được coi là tài sản cố định khi thành lập công ty…, dẫn đến việc thực hiện xử lý nợ xấu thông qua xử
lý tài sản đảm bảo nợ thường kéo dài, tốn kém về tài chính. Vấn đề còn trở nên khó khăn hơn khi mà
việc thu hồi tài sản đảm bảo để tự khai thác đối với các TCTD cũng gặp không ít khó khăn, thậm chí
là bất khả thi do các tài sản đặc thù như tàu biển, máy móc chuyên dụng hoặc tài sản gắn liền với tổ
hợp tài sản khác như đập thủy điện, tổ máy thủy điện trong nhà máy thủy điện, máy móc trong cả dây
chuyền sản xuất, công trình trên đất…, nên không thể tách rời ra để xử lý hoặc khai thác. Nếu tiếp
nhận về để khai thác tài sản thì TCTD cũng không có năng lực và nghiệp vụ để thực hiện như khai
thác tàu biển, cơ khí chế tạo… Do đó đối với những trường hợp này việc chứng khoán hóa các khoản
nợ sau đó bán các chứng khoán nợ nợ này cho các doanh nghiệp có nhu cầu dường như có vẻ hợp
lý nhất, bởi lẽ:
(i) Việc chứng khoán hóa nợ xấu có giải quyết nhanh chóng, dứt điểm trong thời gian ngắn các khoản
nợ xấu của các TCTD, tạo điều kiện cho doanh nghiệp “con nợ” khơi thông nguồn vốn, có cơ hội phục
hồi sản xuất.
(ii) Việc bán chứng khoán nợ xấu cho các “bên mua” là những đơn vị am hiểu lĩnh vực hoạt động của
con nợ, có vốn, có năng lực xoay chuyển tình thế để tạo ra giá trị gia tăng sẽ mang lại hiệu quả hơn
nhiều so với việc TCTD vẫn tiếp tục ôm những chứng khoán đó. Sẽ rất hợp lý nếu một công ty sản
xuất hàng tiêu dùng mua lại một công ty sản xuất bao bì đang bế tắc vì nợ nần, hay một công ty giấy
mua lại một công ty chuyên sản xuất bột giấy…
(iii) Việc chứng khoán hóa nợ xấu sau đó mới tiến hành mua bán các chứng khoán này sẽ vừa giúp
khơi thông được nguồn vốn cho doanh nghiệp “con nợ”, giải quyết nợ xấu trên báo cáo tài chính của
các TCTD, đồng thời có thể thu lại vốn thông qua việc bán các chứng khoán nợ xấu cho các doanh
nghiệp có nhu cầu. Trong khi đó, nếu chỉ chứng khoán hóa nợ xấu thì TCTD cũng có thể gặp rủi ro
trong trường hợp doanh nghiệp “con nợ” sau khi được chứng khoán hóa không thể phục hồi, mà
TCTD cũng không có khả năng để khôi phục được con nợ. Hoặc nếu không chứng khoán hóa nợ xấu
mà thực hiện mua bán nợ luôn thì thời gian giải quyết được hệ thống nợ xấu sẽ mất rất nhiều thời
gian vì thực tế việc thành lập một công ty mua bán nợ quy mô hàng trăm nghìn tỷ đồng như dự định
của NHNN hiện nay rất khó thực hiện, các doanh nghiệp mua bán nợ dã tồn tại như DATC và MAC đã
ra đời khá lâu nhưng hiệu quả hoạt động cũng rất thấp, trong khi đó để đợi các doanh nghiệp có nhu
cầu tìm đến để mua nợ thì cũng tốn không ít thời gian. Chính vì thế, trong lúc để cho thị trường mua
bán nợ có thể đi vào quỹ đạo thì việc chứng khoán nợ xấu sau đó thực hiện bán các chứng khoán nợ
xấu này thông qua cơ chế sàn giao dịch sẽ giải quyết được những vướng mắc được đặt ra.
(iv) Việc kết hợp cả hai giải pháp sẽ mang lại lợi ích cho cả 3 phía. Phía doanh nghiệp mang nợ, giúp
đơn vị mang nợ phục hồi hoạt động, thanh lý nợ xấu và cân đối cơ cấu tài chính. Phía ngân hàng, có
thể giải quyết dứt điểm tình trạng nợ xấu mà không mất nhiều thời gian. Phía doanh nghiệp mua
chứng khoán nợ, có cơ hội mua lại các doanh nghiệp có thể hỗ trợ cho hoạt động của mình với giá
hời, phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp con nợ cũng có thể mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp mua, thậm chí ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp con nợ không còn một cơ sở phục hồi
nào và chỉ còn cái “xác” doanh nghiệp mua nợ cũng có thể được mua vì việc sử dụng một cái “xác”
đang hoạt động thua lỗ sau đó chuyển đổi mô hình hoạt động sẽ đem lại lợi ích về tiết kiệm thuế thu
nhập doanh nghiệp mua nợ…
Như vậy có thể thấy rằng, việc kết hợp chứng khoán hóa nợ xấu và mua bán chứng khoán nợ xấu có
thể góp phần giải quyết khá nhanh và hiệu quả tình trạng nợ xấu của các TCTD. Tuy nhiên, để TCTD
thực hiện hiệu quả giải pháp mua bán chứng khoán nợ xấu cần có sự can thiệp từ phía cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Thiết nghĩ, để hoạt động mua bán chứng khoán nợ có thể dễ dàng thực hiện
nên chăng nhà nước đưa hoạt động mua bán này vào hoạt động mua bán trên thị trường có tổ chức
đặt dưới sự điều hành của các nhà tổ chức thị trường, đưa chứng khoán nợ xấu vào mua bán trên thị
trường chứng khoán cũng là một giải pháp. Mặt khác, để chứng khoán nợ xấu có thể đến được với
các chủ thể có nhu cầu thì việc công khai thông tin chứng khoán nợ xấu là hết sức cần thiết. Pháp
luật cần đặt ra những quy định bắt buộc về công khai thông tin nợ xấu và chứng khoán nợ xấu của
các TCTD cùng những chế tài đủ mạnh, có như vậy thị trường mua bán chứng khoán nợ xấu mới có
cơ hội phát triển.
KẾT LUẬN
Nhìn chung tình hình nợ xấu trên tổng dư nợ ở toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam tăng dần trong giai đoạn 2010-2012. Trong đó tỷ lệ nợ xấu tăng cao
nhất là vào năm 2011 và năm 2012. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát
từ phía các ngân hàng, lẫn các nhân tố khách quan bên ngoài, chủ yếu là từ phía
chính phủ. Về phía các ngân hàng, năng lực quản lý chất lượng tín dụng chưa
được tốt, chưa xác định đúng đối tượng và lĩnh vực để phát triển tín dụng. Một
số ngân hàng chưa đảm bảo được điều kiện vốn nên sa vào tình trạng tăng
trưởng tín dụng nóng, dẫn theo hàng loạt hậu quả, và cuối cùng làm cho tỷ lệ nợ
xấu trên tổng dư nợ tăng lên. Ngoài ra, con số nợ xấu tăng cao là do những yếu
tố khách quan bên ngoài như tình hình kinh tế vĩ mô chưa ổn định, tỷ lệ lạm phát
cao và các chính sách của chính phủ. Từ thực trạng và nguyên nhân tăng của tỷ
lệ nợ xấu được nêu trên thì những giải pháp khắc phục đã được đề ra.
Trong những nguyên nhân đã được phân tích ở trên có cả chính sách ưu ái
của chính phủ đối với các doanh nghiệp nhà nước. Rõ ràng đây là một nhân tố
quan trọng làm cho tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng tăng cao, và số nợ
xấu thuộc về các doanh nghiệp quốc doanh lại chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng số nợ xấu trên toàn hệ thống ngân hàng, nhưng vẫn chưa có biện pháp nào
để khắc phục tình trạng này. Liệu có phải là giải pháp tốt nhất khi chính phủ cứ
giang tay cứu vớt, cơ cấu lại tổ chức các doanh nghiệp quốc doanh mỗi khi vỡ
nợ? Không thể loại bỏ được khả năng các doanh nghiệp ỷ lại phía sau họ có
chính phủ chống lưng, bởi họ có làm kiểu gì chăng nữa, chính phủ cũng sẽ cứu
họ. Thử hỏi các doanh nghiệp nhà nước cứ mãi trong vòng tay mẹ thì biết đến
bao giờ mới trưởng thành? Trước thực trạng đó việc chính phủ cần xem lại cách
thức quản lý đối với các doanh nghiệp quốc doanh là hết sức cần thiết vì không
chỉ để giải quyết tình trang nợ xấu tăng cao, mà còn để tạo điều kiện và thúc đẩy
kinh tế Việt Nam phát triển bên vững, để các doanh nghiệp Việt Nam có đủ bản
lĩnh và năng lực cạnh tranh khi bước vào sân chơi toàn cầu.