ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỌ HẢI
ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Ở HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN
Chuyên ngành: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Mã số: 8440217
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐỘ
Thừa Thiên Huế, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa
từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Họ tên tác giả
Nguyễn Thọ Hải
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Ban giám hiệu trường Đại học
Sư phạm Huế, phòng đào tạo sau đại học, đặc biệt là TS Nguyễn Đăng Độ đã trực tiếp
hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình
triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô giáo - Các nhà khoa học đã trực tiếp giảng dạy
truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành Địa lý cho bản thân tác giả trong những
năm tháng qua.
Xin gửi tới Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Ninh Thuận, phòng thống kê huyện Ninh
Hải, phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Ninh Hải tỉnh Ninh Thuận lời cảm ơn
sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả thu thập số liệu, điều tra khảo sát cũng
như cung cấp những tài liệu nghiên cứu cần thiết cho đề tài.
Xin cảm ơn các bạn học viên lớp cao học Địa lý tự nhiên K24 đã đóng góp ý kiến và giúp
đở tác giả triển khai, điều tra thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp. Đặc biệt là sự quan tâm, động
viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cũng như những thông cảm sâu sắc của gia đình,
ban giám hiệu trường THPT..... và các đồng nghiệp.
Mặc dầu đã rất cố gắng trong học tập và nghiên cứu để hoàn thành tốt nhất luận văn
nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của quý Thầy
Cô giáo, các nhà khoa học, đọc giả và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
ĐẠI HỌC HUẾ
1
3.2.2. Phạm vi không gian.....................................................................
3.2.3. Phạm vi nội dung.........................................................................
1.2.2. Ở Việt Nam
24
1.3.1.1. Biến đổi của yếu tố nhiệt độ...................................................
1.3.1.2. Các hiện tượng cực đoan liên quan đến nhiệt độ................
1.3.1.3. Biến đổi của yếu tố lượng mưa
33
1.3.1.4. Các hiện tượng cực đoan liên quan đến sự thay đổi lượng mưa
34
1.3.1.5. Bão và áp thấp nhiệt đới...........................................................................
1.3.1.6. Biến đổi mực nước biển theo số liệu quan trắc tại các trạm hải văn
36
2.1.1.4. Đặc điểm khí hậu......................................................................................
2.1.1.5. Đặc điểm thổ nhưỡng
62
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng phục vụ trồng trọt............................................................
2.2.1.1. Sự thay đổi của nhiệt độ.......................................................145
2.2.1.2. Số giờ nắng............................................................................145
2.2.1.3. Bốc hơi...................................................................................145
2.2.2.1 Sự thay đổi của lượng mưa...................................................146
Nguồn:[24]..........................................................................................148
2.2.2.2. Xu thế và mức độ biến đổi độ ẩm........................................148
2.2.3.2.1: Lũ lụt và lũ quét:...............................................................151
2.2.3.2.2 Về hoang mạc hóa...............................................................152
2.2.3.2.3: Về hạn hán:........................................................................154
2.3.1.3. Những nỗ lực của cộng đồng trong công tác thích ứng với BĐKH
238
3.2.2.1 Nhóm giải pháp thích ứng
240
3.2.2.2 Nhóm biện pháp truyền thống dân gian có cải tiến
241
PHỤ LỤC
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AC
ATNĐ
BĐKH
DTTS
ĐB
ĐN
E
GDP
HDI
HM
HMH
: Chỉ số khả năng thích ứng (Adaptive Capacity)
: Áp thấp nhiệt đới
: Biến đổi khí hậu
: Dân tộc thiểu số
: Đồng bằng
: Đông Nam
: Chỉ số mức độ phơi nhiễm (Exposure)
: Tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm nội địa
: Chỉ số phát triển con người
: Hoang mạc
: Hoang mạc hóa
IMHEN
: Viện khoa học khí tượng thủy văn và môi trường
(Institute of Meteorology, Hydrolody and Environment)
: Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
(Intergovernmental Panel on Climate Change)
KT – XH : Kinh tế - xã hội
KTTV
: Khí tượng thủy văn
LRTX
: Loại rừng thường xanh
LVS
: Lưu vực sông
NBD
: Nước biển dâng
NTTS
: Nuôi trồng thủy sản
S
: Chỉ số mức độ nhạy cảm (Sensitivity)
SDĐ
: Sử dụng đất
SXNN
: Sản xuất nông nghiệp
TB
: Tây Bắc
TBNN
: Trung bình nhiều năm
TDBTT
: Tính dễ bị tổn thương
TN &MT : Tài nguyên & môi trường
Tp
: Thành phố
TT
: Trồng trọt
UBND
: Ủy ban nhân dân
: Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNDP
(United Nations Development Programme)
V
: Chỉ số tổn thương (Vulnerability)
XNM
: Xâm nhập mặn
IPCC
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Thay đổi lượng mưa (%) trong 57 năm qua (1958 - 2014) ở các
vùng khí hậu
33
Bảng 1.2 Đánh giá và kiểm nghiệm thống kê xu thế biến đổi
36
3
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Chuẩn sai nhiệt độ trung bình năm (0C) trên quy mô cả nước.
Nguồn [3].
31
Hình 1.2 Chuẩn sai nhiệt độ trung bình năm (0C) đối với các trạm ven biển
và hải đảo Nguồn [3]
31
Hình 1.3 Thay đổi nhiệt độ trung bình năm (0C) thời kỳ 1958 – 2014. Nguồn
[3] 32
4
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay, biến đổi khí hậu (BĐKH) không còn là nguy cơ mà đã trở thành hiện
thực. BĐKH đã tác động đa chiều đối với nhân loại ở trên nhiều nhiều lĩnh vực kinh
tế, xã hội, môi trường, tài nguyên…và trở thành rào cản cho sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Do đó, việc xác định mức độ tổn thương do BĐKH đang là
vấn đề được nhiều tổ chức chính trị và nhiều quốc gia rất quan tâm.
Theo báo cáo của IPCC (2007) và đánh giá tác động kinh tế do biến đổi khí
hậu, báo cáo phát triển thế giới năm 2010 của tổ chức Ngân hàng thế giới (WB,
2010, WB, 2010a) cho thấy: BĐKH đang gây ra những thảm họa mang tính toàn
cầu về thiên nhiên, môi trường, đe dọa cuộc sống hàng triệu người trên khắp hành
tinh, có thể làm bùng nổ các làn sóng di cư, thậm chí đe dọa sự tồn tại của nhiều
quốc gia ở vị trí thấp so với mực nước biển. Kết quả đánh giá từ các nghiên cứu này
dự báo rằng đến năm 2050, khoảng 150 triệu người có thể phải rời khỏi những khu
vực duyên hải do nước biển dâng làm ngập lụt, sạt lở đất và xâm nhập mặn. Đến
năm 2080, sản lượng ngũ cốc sẽ giảm 2 - 4% trong khi giá ngũ cốc có thể tăng 13 45%, và nạn đói có thể tác động đến 35 - 60% dân số thế giới [34],[38]. Nếu dự báo
này xảy ra, biến đổi khí hậu sẽ gây ra những thay đổi lớn ở một số khu vực trên thế
giới, tình trạng đói nghèo do thiên tai, hạn hán sẽ gia tăng…
Ninh Hải là một huyện ven biển, thuộc vùng Nam Trung Bộ. Đây là một trong
những địa phương chịu ảnh hưởng của nhiều hiện tượng thời tiết khí hậu cực đoan
như sự gia tăng về nhiệt độ, suy giảm về lượng mưa và độ ẩm… đã gây nên tình
trạng hạn hán và hoang mạc hóa trên diện rộng, đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển KT - XH, đặc biệt là hoạt động SXNN. Ninh Hải được xem là một trong
những huyện khô hạn nhất cả nước, có lượng mưa bình quân năm thấp nhất trong cả
nước. Phân bố mưa theo không gian và thời gian hết sức bất lợi cho cây trồng. Đặc
biệt trong hai năm vừa qua 2015 – 2016 Ninh Hải công bố thiên tai hạn hán.
Năm 2016, do ảnh hưởng chung của BĐKH, hạn hán kéo dài đã ảnh hưởng
nặng nề đến SXNN và đời sống người dân địa phương. Toàn huyện có 507,96 ha
cây trồng bị thiệt hại; 655 gia súc chết do bị suy dinh dưỡng. Từ trước đến nay
5
người dân chỉ trông chờ vào nguồn nước từ các hồ chứa như hồ Thành Sơn, Nước
Ngọt, Ông Kinh để sản xuất. Tuy nhiên, đến năm 2016, nhiều hồ chứa cũng đã cạn
nước, riêng hồ Ông Kinh đã cạn trơ đáy. Tình trạng hạn hán diễn ra gay gắt, gây
nhiều khó khăn cho đời sống của người dân, nhất là về nước sinh hoạt và sản xuất.
Ninh Hải thường xuyên phải hứng chịu những diễn biến bất thường của thời
tiết, thiên tai gây ra do BĐKH và nước biển dâng. Những biểu hiện ảnh hưởng ngày
càng rõ nét như: áp thấp nhiệt đới, bão lụt, lũ quét, lốc xoáy,… Mưa lớn bất thường
xảy ra nhiều gây úng lụt không những ảnh hưởng nghiêm trọng đến SXNN trong
nội đồng mà khi tiêu thoát ra biển làm cho nồng độ muối vùng nước ven bờ giảm
đột ngột dẫn đến các loài thuỷ sản nhất là loài nhuyễn thể như ngao bị chết hàng
loạt do bị sốc nước. Đặc biệt, là hiện tượng nước biển dâng, độ xâm nhập mặn tiến
sâu vào nội địa gây nhiễm mặn, nhiễm phèn nguồn nước, ảnh hưởng lớn đến nguồn
nước tưới gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Tác động tổng hợp của BĐKH đã làm thay đổi một số quy luật tự nhiên, môi
sinh, môi trường, tác động tiêu cực lên hệ sinh thái nhất là hệ sinh thái Vườn quốc
gia Núi Chúa, vùng đất ven biển, vùng vịnh Vĩnh Hy… sẽ chịu nhiều thiệt hại.
Trước những tác động bất lợi của BĐKH ngày càng hiện hữu đối với tất cả các
lĩnh vực sản xuất và đời sống. Để phát triển kinh tế, xã hội bền vững Ninh Hải phải
thay đổi chiến lược để có tầm nhìn bao quát hơn trong việc lập kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, xem xét tổng thể và lường trước những tác động của
biến đổi khí hậu tới các hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân.
Xuất phát từ thực tiễn nói trên, tác giả chọn đề tài “Đánh giá tính dễ bị tổn
thương do biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp ở huyện Ninh Hải, tỉnh
Ninh Thuận” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu của đề tài nhằm xác định xu hướng và đánh giá TDBTT do
BĐKH gây ra đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh
Thuận, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp thích ứng cho cộng đồng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về đánh giá tính dễ bị tổn thương do BĐKH
- Biểu hiện của BĐKH ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.
6
- Đánh giá TDBTT do BĐKH đối với hoạt động ngành TT ở huyện Ninh Hải.
- Đề xuất một số giải pháp thích ứng với BĐKH cho cộng đồng địa phương
trong sản xuất nông nghiệp.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng gây tổn thương: Sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng
theo các kịch bản BĐKH đến năm 2100 và tình trạng hạn hán ở huyện Ninh Hải.
- Đối tượng bị tổn thương: Đối tượng sản xuất của ngành TT ở huyện Ninh Hải.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.2.1. Phạm vi thời gian
- Đề tài tập trung phân tích những biểu hiện BĐKH trên địa bàn theo chuỗi số
liệu thu thập trong vòng hơn 30 năm qua và các kịch BĐKH đến năm 2100.
- Đánh giá TDBTT cho hiện tại và đề xuất những định hướng tương lai theo
các kịch bản về BĐKH của huyện Ninh Hải.
3.2.2. Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu trên toàn bộ phạm vi không gian của huyện Ninh Hải,
được xác định theo ranh giới bản đồ hành chính của huyện.
3.2.3. Phạm vi nội dung
- Đánh giá TDBTT hiện nay có nhiều phương pháp và cách tiếp cận khác
nhau. Đề tài áp dụng phương pháp đánh giá theo chỉ số của IPCC (2007) đề xuất để
đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương.
- Do hạn chế về thời gian và nguồn số liệu, đề tài chỉ tập trung đánh giá tính
dễ bị tổn thương của BĐKH đến hoạt động sản xuất của ngành trồng trọt.
4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Tiếp cận hệ thống theo quan điểm cấu trúc trong địa lý học đó là việc nghiên
cứu cấu trúc thẳng đứng, cấu trúc ngang và cấu trúc chức năng của hệ thống tự nhiên.
Cấu trúc thẳng đứng là các thành phần cấu tạo như: Địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thổ
nhưỡng, sinh vật và mối quan hệ giữa chúng. Đối với việc nghiên cứu tính dễ tổn
7
thương do BĐKH ta phải đặt trong mối quan hệ có tính hệ thống với các tai biến
thiên nhiên do quá trình nội lực, ngoại lực, tai biến nhân sinh. Mặt khác cần xem xét
mối quan hệ giữa các tai biến thiên nhiên với nhau, cũng như mối quan hệ giữa các
tai biến thiên nhiên với hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Ninh Hải,
để từ đó có nhận định đúng, toàn diện, tìm ra nguyên nhân, mối quan hệ, đánh giá
mức độ tác động, đề xuất giải pháp thích ứng hợp lí.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp
Quan điểm này xem các yếu tố và hiện tượng của môi trường tự nhiên là một
tổ hợp có tổ chức, giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự tác động của con
người vào một hợp phần hay bộ phận tự nhiên nào đó có thể gây ra những biến đổi
lớn trong hoạt động của cả tổng thể. Tuy nhiên, quan điểm này không yêu cầu nhất
thiết phải nghiên cứu tất cả các thành phần mà có thể lựa chọn một số đại diện có
vai trò chủ đạo, là những nhân tố có vai trò quyết định đến các thuộc tính cơ bản
nhất của tổng thể. Áp dụng quan điểm này, đề tài chỉ đánh giá tính tổn thương do
BĐKH đến hoạt động sản xuất nông nghiệp trong đó tập trung vào ngành trồng trọt
ở huyện Ninh Hải.
4.1.3. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Do
đó, khi đánh giá chúng chỉ đúng ở một thời điểm nhất định. Đứng trên quan điểm
lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để đưa
ra các dự báo xác thực về xu hướng hát triển trong giai đoạn sắp tới. Vận dụng quan
điểm này, đề tài phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng biến đổi
khí hậu trên địa bàn huyện Ninh Hải, với chuỗi số liệu nhiều năm nhằm phản ánh cơ
bản nhất đặc điểm của đối tượng, từ đó tính toán chỉ số tổn thương.
4.1.4. Quan điểm lãnh thổ
Mỗi một công trình nghiên cứu địa lí tự nhiên nói riêng cũng như địa lý nói
chung đều được gắn với một lãnh thổ cụ thể. Các thành phần tự nhiên luôn có sự
thay đổi theo thời gian và phân hoá theo không gian. Vì vậy, khi nghiên cứu một
khu vực cần xác định sự phân hoá không gian theo lãnh thổ và việc đánh giá cần
gắn liền trên một lãnh thổ cụ thể được phân chia. Với quan điểm này, đề tài xác định
8
rõ những yếu tố gây nên và biểu hiện của các tai biến thiên nhiên trên phạm vi toàn
huyện Ninh Hải cũng như xem xét, đánh giá mức độ tổn thương đối với hoạt động
sản xuất nông nghiệp ở địa bàn các xã của huyện Ninh Hải.
4.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại nhưng
không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu
của chính họ. Đây vừa là xu thế, vừa là yêu cầu bắt buộc trong bất kì hoạt động kinh
tế - xã hội nào. Quan điểm này được tác giả vận dụng xuyên suốt quá trình đánh giá
phân tích hiện trạng và đề xuất giải pháp trong hoạt động động sản xuất nông
nghiệp ở địa bàn nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1.Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu, số liệu
Các dữ liệu, số liệu liên quan đến BĐKH, ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu
đến ngành trồng trọt được thu thập chọn lọc, xử lý và sử dụng cho quá trình tính
toán, lập bảng biểu, đánh giá tác động của BĐKH đến ngành trồng trọt thông qua
việc đánh giá sự thay đổi của diện tích, năng suất, sản lượng thu hoạch thực tế trong
giai đoạn 2005 - 2016.
4.2.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Khảo sát thực địa vùng nghiên cứu giúp thu thập thông tin, số liệu về sản
xuất nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu và nhằm kiểm tra tính xác thực những thông
tin. Đề tài tiến hành lựa chọn địa điểm và tuyến khảo sát theo các tiêu chí sau:
Địa bàn chịu tác động mạnh mẽ bởi BĐKH đối với ngành trồng trọt, Các khu vực
được lựa chọn khảo sát phải đóng vai trò đại diện, tiêu biểu cho hoạt động sản xuất
của ngành trồng trọt ở địa phương.
Trên cơ sở các địa phương, các tuyến khảo sát được lựa chọn, đề tài tiến hành
khảo sát để thu thập các thông tin, bổ sung các số liệu còn thiếu và kiểm chứng kết
quả nghiên cứu của luận văn.
Các tuyến khảo sát của đề tài là: Tuyến phía Bắc:
xã Tân Hải, Phương Hải; Tuyến phía Nam: Thị trấn Khánh Hải; Tuyến phía Tây:
Xã Xuân Hải, Hộ Hải; Tuyến phía Đông: Xã Tri Hải, Nhơn Hải, Thanh Hải, Vĩnh
Hải.
9
4.2.3. Phương pháp bản đồ và GIS
Bản đồ được xem là "ngôn ngữ" của khoa học Địa lý vì chúng có khả năng
chứa đựng những tri thức cũng như thể hiện rõ nhất, trực quan nhất các đặc trưng
không gian của các đối tượng nghiên cứu. Để đáp ứng mục tiêu của đề tài, phương
pháp bản đồ được vận dụng vào việc xây dựng các bản đồ chuyên đề của lãnh thổ
nghiên cứu như: bản đồ địa hình, thủy văn, thổ nhưỡng,... của huyện Ninh Hải.
4.2.4. Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia
Phương pháp này tập hợp các ý kiến đánh giá của các chuyên gia về tác động
của BĐKH lên ngành trồng trọt. Các ý kiến và đánh giá của các chuyên gia được
tập hợp thông qua các cuộc trao đổi, tham khảo ý kiến của những chuyên gia có uy
tín, có học hàm, học vị ở các trường đại học, viện nghiên cứu, các nhà quản lý ở các
sở ban nghành của địa phương về lĩnh vực BĐKH, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
là trong hoạt động của ngành trồng trọt.
4.2.5. Phương pháp chỉ số trong đánh giá tính dễ bị tổn thương.
Đưa ra các chỉ số thứ tự mà thông qua đó các khu vực sẽ được xếp hạng,
phân nhóm theo các mức dễ bị tổn thương. Chỉ số được xây dựng sao cho nằm
trong khoảng từ 0 đến 1 để dễ tiến hành so sánh giữa các vùng.
Chỉ số dễ bị tổn thương được xây dựng qua nhiều bước. Đầu tiên là chọn khu
vực nghiên cứu gồm nhiều vùng khác nhau. Ở mỗi vùng, một bộ chỉ thị được lựa
chọn cho từng thành phần của khả năng dễ bị tổn thương. Các chỉ thị được chọn dựa
vào độ sẵn có của dữ liệu, đánh giá cá nhân hoặc nghiên cứu trước đó. Vì tình trạng
dễ bị tổn thương thay đổi theo thời gian nên cần lưu ý rằng tất cả các chỉ thị cần liên
quan tới năm được chọn. Nếu tình trạng dễ bị tổn thương cần được đánh giá qua
nhiều năm thì cần thu thập dữ liệu về các chỉ thị ở từng vùng trong năm.
4.2.6. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (PRA)
Trong quá trình thực hiện, đề tài tiến hành tham vấn ý kiến của người dân
thông qua hệ thống bảng hỏi được thiết kế sẵn gồm cac câu hỏi liên quan đến thông
tin chung về chủ hộ, sinh kế, hoạt động SXNN, biểu hiện của BĐKH và ảnh hưởng
của BĐKH đến SXNN. Việc tham vấn được tiến hành qua các cấp quản lý: từ cấp
tỉnh, huyện, xã, thôn; đồng thời khảo sát trực tiếp với những người dân có tham gia
10
hoạt động SXNN tại các địa bàn trọng điểm được lựa chọn về các nội dung như
mức độ tổn thất do BĐKH gây ra đối với SXNN, các loại thiên tai tác động mạnh
nhất, tình hình sản xuất, sinh kế, thu nhập của người SXNN... Kết quả, đề tài đã tiến
hành tham vấn và điều tra được 450 phiếu. Mỗi thị trấn và xã có số phiếu điều tra
bằng nhau (50 phiếu). Các xã/thị trấn được điều tra: 01 thị trấn: Khánh Hải, 08 xã:
Hộ Hải, Nhơn Hải, Phương Hải, Tân Hải, Thanh Hải, Tri Hải, Vĩnh Hải, Xuân Hải.
4.2.7. Phương pháp phân tích chuỗi
Cách tiếp cận cơ bản nhất trong nghiên cứu tình trạng dễ bị tổn thương đối với
hoạt động SXNN là phân tích chuỗi số liệu nhiều năm theo nguyên lý nguyên nhân
- kết quả. Từ đó, tìm ra sự vận động và phát triển của đối tượng nghiên cứu trong
tương lai, làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp ứng phó và thích ứng
cho cộng đồng SXNN ở địa bàn nghiên cứu.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện phương pháp đánh giá tính
dễ bị tổn thương cho một hoạt động kinh tế cụ thể trước những tác động của biến
đổi khí hậu, trên cơ sở đó xác lập các luận chứng khoa học cho việc đề xuất các giải
pháp thích ứng trong hoạt động SXNN đối với BĐKH.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tư liệu tham khảo cho người dân địa
phương và các cấp quản lý nhằm lựa chọn các giải pháp thích ứng với BĐKH trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp, góp phần giảm thiểu những rủi ro và thiệt hại cho
người dân ở huyện Ninh Hải.
- Đề tài còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học chuyên
ngành Địa lý tự nhiên.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
- Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
Chương 3. Tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu và đề xuất giải pháp
11
thích ứng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận
12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
1.1.1. Tính dễ bị tổn thương
Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability) là một khái niệm
khá trừu tượng, được đề cập trong rất nhiều tài liệu và chưa có sự thống nhất.
TDBTT bao hàm nhiều vấn đề, từ các biểu hiện vật lý (Mitchell, 1989; Schneider
và Chen, 1980; Barth và Titus, 1984), kinh tế, xã hội và tài nguyên (Susman,
O’Keefe, và Wisner 1983; Timmerman, 1981; Cannon, 1994); mối quan hệ của nơi
xảy ra tai biến với hệ thống xã hội (Dow 1992; Cutter 1996, 2003),... Một số định
nghĩa về TDBTT sau:
- TDBTT là một đe dọa đến cộng đồng, bao gồm không chỉ cơ sở vật chất
của cộng đồng đó mà còn cả đặc tính sinh thái, khả năng ứng phó với các tác động
của cộng đồng vào mọi thời điểm (Gabor, 1979).
- TDBTT là mức độ ứng phó với tai biến của một hệ thống (tự nhiên - xã hội,
môi trường...). Mức độ ứng phó của hệ thống đối với tai biến được coi là khả năng
phục hồi (Resilience) của hệ thống (Timmerman, 1981).
- TDBTT là khả năng nguy hiểm hay hứng chịu những bất lợi của cá nhân
hay một nhóm người do tác động của tai biến. Tính tổn thương phụ thuộc vào độ rủi
ro và khả năng giảm thiểu tai biến của cộng đồng (Cutter, 1993).
- TDBTT là sự mất an toàn của cá nhân hay cộng đồng khi phải đối mặt với
sự thay đổi của môi trường (Moser, 1996).
- TDBTT là một hàm của 2 biến của mức độ tổn thất (do tai biến) và khả
năng chống chịu (Coping ability) và phục hồi (Clark, 1998).
- TDBTT là tính nhạy cảm của tài nguyên (tài nguyên tự nhiên, tài nguyên
xã hội) trước những tác động tiêu cực của tai biến (NOAA, 1999).
- TDBTT là khả năng bị tổn thương của hệ thống tự nhiên – xã hội, là những
đặc tính của hệ thống cho phép nó cảm nhận, ứng phó, chống đỡ và phục hồi từ
những thay đổi bên ngoài tác động vào hệ thống (Kasperson, 2001).
13
Theo quan niệm thông thường, TDBTT thường được biểu thị thông qua cấu
trúc của một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội hay môi trường và được tạo ra bởi
2 nhóm yếu tố là mức độ tổn thất và khả năng chống chịu. Đối với các tổ chức quốc
tế, đặc biệt là các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến tài nguyên - môi
trường thì có những định nghĩa riêng về tính tổn thương tùy thuộc vào từng mục
đích nghiên cứu và hoạt động:
- Chương trình lương thực thế giới (WFP) và Tổ chức Nông lương Thế giới
(FAO) quan tâm đến tính tổn thương ở khía cạnh khủng hoảng lương thực. Do đó
các tổ chức này đã đưa ra định nghĩa tính tổn thương là toàn bộ những yếu tố tác
động đến con người làm cho họ mất lương thực hoặc mất an toàn thực phẩm.
- Cơ quan phát triển quốc tế của Hoa Kỳ (USAID, 1999) thì coi tính tổn
thương như là một công cụ đánh giá trong Hệ thống cảnh báo sớm nạn đói nghèo
(Famine Early Warning System - FEWS). Họ cho rằng mọi người đều bị tổn thương
nhưng ở mức độ khác nhau phụ thuộc vào nguyên nhân, diễn thế và điều kiện.
- Liên hợp quốc (UN, 1982) phân biệt 2 khái niệm quan trọng trong định
nghĩa TDBTT. Trước tiên, phân biệt TDBTT kinh tế và tính nhạy
cảm (Sensitivity) sinh thái và cho rằng tổn thương kinh tế bao gồm cả các yếu tố
sinh thái. Do vậy, TDBTT phản ánh tính nhạy cảm kinh tế và sinh thái đối với
những sự cố hay biến động từ bên ngoài. Tiếp theo là phân biệt giữa TDBTT cấu
trúc bắt nguồn từ tình hình chính trị và TBDTT bắt nguồn từ các chính sách kinh tế.
Theo đó, TDBTT được coi là sự mất mát/tổn thất do các hiện tượng tự nhiên có
cường độ khác nhau.
- Theo quan niệm của Cục Bảo vệ Môi trường Hoa kỳ (USEPA, 2006) trong
Chương trình đánh giá TDBTT vùng (Regional Vulnerability Assessment
Programme) thì TDBTT của một hệ thống là mức độ tổn thất của hệ đó dưới tác
động của một áp lực nào đó từ bên ngoài hay bên trong hệ thống. Ví dụ, suy thoái
chất lượng nước mặt và ô nhiễm môi trường khí là căn cứ để nhận biết TDBTT của
hệ môi trường.
- Uỷ ban Địa học ứng dụng Nam Thái Bình Dương (The South Pacific
Applied Geo-science Commission - SOPAC, 1999) thì cho rằng tính tổn thương là
14
khả năng ứng phó và phục hồi của hệ thống đối với các tác động của tai biến.
- Trong các báo cáo của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC),
khái niệm này vẫn được sử dụng khác nhau qua các thời kỳ. Trên thực tế, IPCC đã
đưa ra các khái niệm khác nhau về TDBTT đối với BĐKH qua các năm. Năm 1992,
TDBTT được định nghĩa như mức độ mà một hệ thống không có khả năng đối phó
với những hậu quả của BĐKH và NBD. Năm 1996, báo cáo lần thứ 2 (SAR) của
IPCC đã định nghĩa TDBTT là mức độ mà BĐKH có thể gây tổn hại hay bất lợi
cho hệ thống, không chỉ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của hệ thống mà còn phụ thuộc
vào năng lực thích ứng của cộng đồng với điều kiện khí hậu mới. Định nghĩa này
bao gồm sự phơi lộ, mức độ nhạy cảm, khả năng phục hồi của hệ thống để chống lại
các mối nguy hiểm do ảnh hưởng của BĐKH. Năm 2001, báo cáo lần thứ 3 (TAR)
của IPCC đã định nghĩa TDBTT là mức độ một hệ thống tự nhiên hoặc xã hội bị
nhạy cảm với các thiệt hại do BĐKH gây ra. TDBTT là một hàm của mức độ nhạy
cảm của một hệ thống đối với những thay đổi của khí hậu (mức độ mà một hệ thống
sẽ ứng phó với một sự thay đổi của khí hậu, bao gồm những tác động có lợi và có
hại), năng lực thích ứng (mức độ mà sự điều chỉnh trong thực tiễn, quá trình thực
hiện, hoặc cơ cấu có thể giảm nhẹ hoặc bù lại được những thiệt hại tiềm ẩn hoặc tận
dụng được những cơ hội tạo ra từ sự thay đổi khí hậu đó) và mức độ phơi lộ của hệ
thống với các nguy cơ khí hậu. Năm 2007, báo cáo lần thứ 4 (AR4) của IPCC đã
định nghĩa tính dễ bị tổn thương do tác động của BĐKH là mức độ một hệ thống bị
nhạy cảm hoặc không thể chống chịu trước các tác động có hại của BĐKH, bao
gồm dao động khí hậu và các hiện tượng khí hậu cực đoan. TDBTT là một hàm của
các đặc tính, cường độ và mức độ (phạm vi) của các biến đổi và dao dộng khí hậu
mà hệ thống đó bị phơi lộ, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng của hệ thống đó.
Theo định nghĩa mới nhất này, khi các biện pháp thích ứng được tăng cường thì
TDBTT theo đó sẽ giảm đi.
Liên quan đến khía cạnh BĐKH, nghiên cứu và đánh giá TDBTT đã được đề
cập, thực hiện với nhiều công trình của các giả và tổ chức trên thế giới. Một số khái
niệm TDBTT do BĐKH điển hình có thể kể đến như:
- TDBTT là khả năng tiềm tàng và sự ảnh hưởng của các tai biến trong từng
15
bối cảnh cụ thể của xã hội, môi trường sống, BĐKH (RonBenioff, 1996).
- TDBTT là sự nhạy cảm của hệ thống tự nhiên hay xã hội do những thiệt hại
lâu dài từ BĐKH (IPCC, 1997).
- TDBTT do BĐKH là mức độ mà hệ thống dễ bị tác động và không có khả
năng chống chịu trước những tác động bất lợi (IPCC, 2007).
Từ những trình bày trên có thể coi TDBTT là mức độ tổn thất, suy
thoái của hệ thống, mức độ chống chịu, phục hồi, ứng phó của nó trước các tác
động từ bên ngoài (tai biến và các hoạt động nhân sinh).
1.1.2. Biến đổi khí hậu
- Theo Hiệp hội Khí tượng Mỹ (American Meteorological Society-AMS):
Bất kỳ sự thay đổi có hệ thống của các nhân tố khí hậu trong một thời gian dài
(nhiệt độ, áp suất hoặc gió) qua hàng chục năm hoặc lâu hơn. BĐKH có thể do các
quá trình tự nhiên, như các thay đổi trong quá trình phát năng lượng của Mặt Trời,
hoặc các thay đổi chậm chạp trục quay Trái Đất, hoặc do các quá trình tự nhiên nội
tại của hệ thống khí hậu; hoặc do các tác động từ các hoạt động của con người.
- Định nghĩa BĐKH của Bộ TN - MT Việt Nam: Là sự thay đổi của khí hậu
trong một khoảng thời gian dài do tác động của các điều kiện tự nhiên và hoạt động
của con người. Biến đổi khí hậu hiện nay biểu hiện bởi sự nóng lên toàn cầu, mực
nước biển dâng và gia tăng các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan. [3]
- Theo báo cáo lần thứ 4 của tổ chức Liên chính phủ về BĐKH – IPCC:
“BĐKH là sự biến đổi về trạng thái của hệ thống khí hậu, được nhận biết qua sự
biến đổi về trung bình và/hoặc sự biến động của các thuộc tính của nó, duy trì trong
một thời kì dài, điển hình là hàng ngàn thập kỷ hoặc dài hơn”.
- “BĐKH Trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự
nhiên và nhân tạo”.[10]
- Theo công ước chung của Liên Hợp Quốc về BĐKH - UNFCCC năm 2003:
“BĐKH là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ
sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã
16
hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.
Tóm lại, BĐKH là sự thay đổi trạng thái khí hậu so với trung bình nhiều năm
và nguyên nhân của BĐKH được quyết định chủ yếu bởi con người.
1.1.3. Thích ứng và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu
Thích ứng là khái niệm rất rộng, trong bối cảnh BĐKH, thích ứng được áp
dụng cho nhiều lĩnh vực/đối tượng liên quan bị tác động của BĐKH. Về bản chất,
sự thích ứng là quá trình dẫn tới tiến bộ hoặc tiến hóa. Mọi thực thể của hệ thống tự
nhiên – xã hội đều có khả năng thích ứng BĐKH. Một số khái niệm thích ứng với
BĐKH điển hình có thể kể đến như:
- Là một quá trình mà qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của
khí hậu đến sức khoẻ, đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường
khí hậu mang lại (Burton, 1992);
- Là sự điều chỉnh một cách chủ động, chống lại nhằm làm giảm thiểu những
hậu quả tiêu cực do BĐKH (Stakhiv, 1993);
- Là sự điều chỉnh của cá nhân, tập thể và các thể chế để giảm mức độ tổn
thương do khí hậu (Pielke, 1998).
- Là sự điều chỉnh của hệ thống tự nhiên hoặc con người để ứng phó những
tác động thực tại hoặc tương lai của khí hậu do đó làm giảm tác hại hoặc tận dụng
những lợi ích mang lại (IPCC, 2001). Trong đó, tăng cường khả năng thích ứng là
một phương thức giảm mức độ tổn thương và định hướng phát triển bền vững.
- Là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc
môi trường thay đổi, nhằm giảm khả năng bị tổn thương do BĐKH và tận dụng các
cơ hội do nó mang lại (Viện Khoa học KTTV và Môi trường, 2011).
- “Thích ứng với BĐKH là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người
đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn
thương do dao động và biến đổi khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng cơ hội
nó mang lại”. [2]
Mỗi lĩnh vực đều phải thích ứng theo mức độ tác động khác nhau và phù hợp
với các điều kiện mới của BĐKH. Hơn nữa, thích ứng trong từng lĩnh vực đồng thời
phải có sự thích ứng tổng hợp liên kết với các lĩnh vực khác trong hệ thống tự nhiên
17
- xã hội hay phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh BĐKH. Do đó, thích ứng cần
yêu cầu các đặc điểm sau:
- Thích ứng đòi hỏi sự tham gia của nhiều đối tượng, nhiều thành phần và
được thực hiện ở các quy mô khác nhau theo một qui trình thống nhất và lâu dài.
Thích ứng cần được thực hiện có hiệu quả nhất và phù hợp nhất, không ảnh hưởng,
thay đổi sinh kế người dân cũng như các hoạt động phát triển KT-XH của khu vực.
- Thích ứng mang tính chủ động theo ý chí con người nhằm giảm thiểu mức
độ tổn thương và hướng tới sự phát triển bền vững.
- Thích ứng là một quá trình mang tính liên ngành và tính liên vùng rất cao.
Không một ngành nào, một quốc gia nào hoặc một nhóm quốc gia nào có thể hành
động đơn phương trong thích ứng.
Ngoài ra, thích ứng còn yêu cầu đánh giá về các công nghệ và biện pháp
khác nhau nhằm phòng tránh những hậu quả bất lợi của BĐKH bằng cách ngăn
chặn hoặc hạn chế; tạo ra sự thích ứng nhanh với BĐKH; phục hồi có hiệu quả sau
những tác động, hay là bằng cách lợi dụng những tác động tích cực. Thích ứng với
BĐKH có thể được nâng cao bằng cách đầu tư vào thích ứng với khí hậu hiện tại
cũng như thay đổi và biến đổi khí hậu trong tương lai.
Có thể nói, hiện nay BĐKH đang xảy ra một cách khách quan, ngoài tầm
kiểm soát của con người, tác động lên mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trên quy
mô toàn cầu và biện pháp để giảm nhẹ tác động của BĐKH phổ biến nhất hiện nay
là “sống chung”, hay còn gọi là thích ứng với BĐKH.
Ngoài ra, thích ứng còn đòi hỏi sự đánh giá về công nghệ và biện pháp khác
nhau nhằm phòng tránh những hậu quả bất lợi của BĐKH bằng cách ngăn chặn
hoặc hạn chế chúng, nhanh chóng tạo ra sự thích ứng với BĐKH và phục hồi một
cách có hiệu quả sau những tác động của chúng hay bằng cách lợi dụng những tác
động tích cực.
Thích ứng với BĐKH có 2 mặt: giảm nhẹ sự mất mát và tổn thất, nhanh chóng
phục hồi sự hoạt động bình thường của hệ thống; khai thác những cơ hội có lợi do
tác động của các yếu tố khí hậu mang lại.Vì vậy, hai chiến lược cần thiết để đối phó
với BĐKH là: Giảm nhẹ: Giải quyết những nguyên nhân gây ra BĐKH bằng cách
18
giảm phát thải khí nhà kính (GHG) “…. tránh những vấn đề không quản lý
được…” Thích ứng: Tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu được giảm xuống
bằng các biện pháp giảm thiểu những mặt trái của chúng “… quản lý những gì
không thể tránh được…”.
Năng lực thích ứng là tiềm tàng hoặc khả năng của hệ thống, của khu vực hoặc
cộng đồng có thể điều chỉnh để sống chung với sự tác động của BĐKH nhằm làm
giảm sự thiệt hại hoặc tận dụng lợi thế do BĐKH đem lại.
Năng lực thích ứng về ý nghĩa thực tế được thể hiện qua khả năng chống đỡ
với sự biến đổi không chắc chắn của khí hậu, bao gồm cả hiện tượng dao động và
hiện tượng khí hậu cực đoan. Như vậy, tăng khả năng thích ứng chính có thể giảm
nhẹ sự tổn thương và hỗ trợ cho phát triển bền vững.
Không có công thức chung nào cho sự thành công của quá trình thích ứng.
Các quốc gia đối mặt với các loại hình và mức độ rủi ro khác nhau, xuất phát điểm
khác nhau về trình độ phát triển con người và tiềm năng công nghệ và tài chính. Về
lý thuyết, mọi quốc gia và mọi người đều có khả năng thích ứng. Thích ứng diễn ra
ở cả trong tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội. Tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội
đều phải thích ứng với mức độ nhất định với BĐKH và ngay cả sự thích ứng này
cũng thay đổi để phù hợp với các điều kiện mới của BĐKH.
1.1.4. Kịch bản biến đổi khí hậu
Là giả định có cơ sở khoa học và tính tin cậy về sự tiến triển trong tương lai của
các mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội, GDP, phát thải khí nhà kính, BĐKH và mực nước
biển dâng. Cần phải lưu ý rằng, kịch bản BĐKH khác với dự báo thời tiết và dự báo khí
hậu là nó đưa ra quan điểm về mối ràng buộc giữa phát triển và hành động. [21]
1.2. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU
1.2.1. Trên thế giới
Lịch sử nghiên cứu tình trạng dễ bị tổn thương (TTDBTT) được ghi nhận từ
hơn 20 năm qua và đặc biệt được quan tâm nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX.
Trên thế giới, TTDBTT đã được nghiên cứu ở rất nhiều quy mô khác nhau như đối
với một vùng lãnh thổ/khu vực (đới ven biển, hệ thống đảo...), một hệ sinh thái, một
19
hệ thống tự nhiên hay một cộng đồng người vv... trên nhiều lĩnh vực như KT-XH,
môi trường, tự nhiên, thiên tai và đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực BĐKH. Tình trạng
dễ bị tổn thương trong các nghiên cứu cụ thể được xem xét trong những hoàn cảnh
và nguyên nhân rất đa dạng như sự BĐKH toàn cầu, sự biến động giá cả hàng hóa
trên thị trường, sự khan hiếm lương thực, sự thay đổi tổ chức và thể chế, chiến
tranh, khủng bố, những tai biến thiên nhiên, suy thoái môi trường vv....
Trong lĩnh vực thủy sản đã có các công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác
giả như: Hargreaves and Tucker (2003), nghiên cứu về đặc tính sinh học của con
tôm, nghiên cứu chỉ ra rằng nhiệt độ tăng trung bình theo kịch bản BĐKH có thể
nằm trong phạm vi chịu đựng của con tôm nuôi, nhưng nó lại tác động lên quá trình
trao đổi chất của đối tượng nuôi, ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn, ảnh
hưởng đến tốc độ sinh trưởng, làm suy giảm hệ thống miễn dịch và tăng nguy cơ
dịch bệnh đối với tôm nuôi [35].
Nghiên cứu của tổ chức Worldfish Center (2006) đã chỉ ra các yếu tố BĐKH
tác động đến nghề nuôi trồng thủy sản như: Nhiệt độ tăng, NBD, lượng mưa thay
đổi, bão tố và hạn hán bất thường. Tương tự với nghiên cứu này tác giả De Silva và
đồng tác giả (2009) cũng chỉ ra các yếu tố chính của BĐKH tác động đến đến nghề
nuôi trồng thủy sản gồm: NBD, nhiệt độ tăng, mưa bất thường và các yếu tố cực
đoan như bão tố …[39].
Một nghiên cứu điển hình về đánh giá tác động của BĐKH đến nuôi trồng
thủy sản đó là nghiên cứu của Heather Cornell (2012) về việc xây dựng mô hình
đánh giá tác động của BĐKH đó là mô hình DPSIR (Động lực - Driver; Áp lực –
Pressure; Hiện trạng – Status; Tác động – Impact; Ứng phó – Response) mô hình đã
đưa ra cái nhìn tổng quát về BĐKH và các hoạt động ứng phó với BĐKH của nghề
nuôi trồng thủy sản tại biển Salish Canada.
Nghiên cứu tổng quan của De silva và Soto (2009), De silva, Cochrane và
đồng tác giả (2009), Badject và đồng tác giả (2009) về tác động tiềm tàng của
BĐKH lên ngành thủy sản cho thấy các nghiên cứu tác động của BĐKH lên ngành
thủy sản đều chứa đựng các yếu tố không chắc chắn, dựa trên các tính chất đặc thù
của giống loài, mối tương quan với môi trường tự nhiên để phán đoán [31]
20
Về hướng tiếp cận và phương pháp đánh giá TTDBTT được thể hiện trong
công trình của các tác giả như: Preston, B.L, D. Abbs et al, Spatial Approaches for
Assessing Vulnerability and Consequences in Climate Change Assessments. Tác giả
tập trung vào các vấn đề đánh giá tổn thương của 3 yếu tố chính: hạn hán, lũ lụt và
giông bão. Trong đó, mô hình khái niệm của tính tổn thương được nhóm nghiên cứu
áp dụng theo báo cáo đánh giá của IPCC. Thuật toán tập hợp mờ được áp dụng để
lượng hóa các đại lượng mang tính định tính để đánh giá mức độ tổn thương theo
các cấp như thấp, trung bình, cao. Để tính toán các chỉ số tổn thương, các tham số
được chuyển về hệ quy chiếu 3 chiều với 3 trục số chính là mức độ tổn thương, độ
nhạy cảm và khả năng thích ứng. Mô hình toán tập mờ được được sử dụng để
chuyển đổi từ giá trị định tính sang khái niệm hàm thành viên.
Trong quá trình xử lý bằng phương pháp tập mờ, nhóm nghiên cứu cũng đã
kết luận rằng việc lượng hóa tính tổn thương là rất khó bởi các nguyên nhân:
- Có rất nhiều các yếu tố (các biến) ảnh hưởng đến sự tổn thương;
- Sự xác định rõ chỉ số tổn thương thì vẫn còn mơ hồ - không chắc chắn;
- Thiếu việc xác định trọng số của các biến số;
- Ứng dụng lý thuyết của phương pháp tập mờ trong việc chuyển đổi từ cách thể
hiện bằng ngữ nghĩa sang vấn đề lượng hóa làm giảm độ chính xác trong quá trình
phân tích.
Trong nghiên cứu khả năng bị tổn thương ở các quốc gia trước những tác động
do BĐKH lên ngành thủy sản của Allison và các cộng sự (2009). Trong nghiên cứu
này, các tác giả đã sử dụng phương pháp đánh giá dựa vào chỉ số xuất phát từ khái
niệm của IPCC (2001): V = f(E,S,AC) và đề xuất hàm tác động tiềm tàng là PI =
(E,S), Allison và cộng sự đã tính toán khả năng tổn thương bằng hàm V = [PI (E,S)
– AC] kết quả cho thấy, ngành thủy sản của các quốc gia miền Trung và Tây Phi
(Maliwi, Guinea, Senegal và Uganda), Peru, Colombia và 4 quốc gia vùng nhiệt
đới Châu Á là Bangladesh, Campuchia, Pakistan và Yemen được nhận diện là dễ bị
tổn thương nhất trước BĐKH [32]
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về sự thích ứng của kinh tế với BĐKH
trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam [36] đã tập trung vào vấn đề đánh giá
21
tình trạng dễ bị tổn thương của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam trước biến
đổi khí hậu. Chỉ số tổn thương được xây dựng dựa trên 4 tham số theo mô hình của
Allison [27]: 1. Mức độ phơi nhiễm (E); 2. Mức độ nhạy cảm (S); 3. Những tác
động tiềm năng (PI); 4. Khả năng thích ứng (AC). Trong đó những tác động tiềm
năng được tổng hợp từ 2 nhân tố nhạy cảm và phơi nhiễm.
Các tham số được hình thành và tính toán từ các chỉ số phụ:
- Phơi nhiễm (E) được tổng hợp từ 6 biến bao gồm: 1. Mức nước biển dâng;
2. Thay đổi nhiệt độ trung bình; 3. Thay đổi lượng mưa; 4. Hiện tượng cực đoan; 5.
Tần suất xảy ra các hiện tượng cực đoan; 6. Lụt (diện tích NTTS bị lụt).
- Mức độ nhạy cảm (S): 1. Sinh kế trực tiếp - % số hộ tham gia NTTS; 2. Lao
động trực tiếp - % lao động NTTS/ tổng lao động; 3. Kinh tế vĩ mô – tỷ lệ phần
trăm thu được từ nghề cá/GDP; 4. An ninh lương thực – tiêu thụ bình quân thủy sản/
đầu người
- Khả năng thích ứng (AC): 1. Đói nghèo (gồm 2 chỉ số phụ– Tỷ lệ % dân số
dưới ngưỡng đói nghèo và % hộ chi tiêu hàng tháng cho thủy sản); 2. Cơ sở hạ tầng
(gồm 2 chỉ số phụ– tỷ lệ điện thoại/100 người và tổng số giường bệnh của bệnh
viện/100 người); 3. Giáo dục (Tỷ lệ % đỗ tốt nghiệp phổ thông); 4. Khả năng đáp
ứng trong trường hợp thiên tai – (Các chương trình quản lý rủi ro); 5. Vốn xã hội; 6.
Giáo dục (% của lao động nghề cá được đào tạo).
Công thức tổng hợp tính chỉ số tổn thương:
V=1/3(E+S+100-AC)
Trong đó: V: là chỉ số tổn thương, E: chỉ số phơi nhiễm, S: chỉ số nhạy cảm,
AC: Chỉ số thích ứng
Nhóm nghiên cứu cũng đã chỉ ra được những nhược điểm là có nhiều các biến
không lượng hóa được. Các khái niệm về độ nhạy cảm, khả năng thích ứng không
đồng nhất. Sự khó khăn về dữ liệu thu thập là một trong những trở ngại lớn của
nghiên cứu.
Trong công trình ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với nuôi trồng thủy sản
được nghiên cứu thí điểm ở Bangladesh [33]. Nhóm nghiên cứu đã tiếp cận các khái
niệm của IPCC về đánh giá tình trạng dễ tổn thương từ hàm:
22