Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Bản sắc dân tộc trong thơ ma trường nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 148 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HUYỀN ANH

BẢN SẮC DÂN TỘC
TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HUYỀN ANH

BẢN SẮC DÂN TỘC
TRONG THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.220.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ngân


Thái Nguyên - 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn
đều trung thực và chưa từng được công bố trong một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Anh


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn TS. Lê Thị Ngân đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời
gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Huyền Anh


iii

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii
MỤC LỤC ................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................ 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 7
7. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 7
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ CA DÂN TỘC THIỂU SỐ
HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN............................. 8
1.1. Vài nét về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại ............................................ 8
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:...................................................................... 8
1.1.2. Giai đoạn 1945-1975:............................................................................ 11
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: ........................................................... 24
1.2. Nhà thơ Ma Trường Nguyên - cuộc đời, con người và sự nghiệp
sáng
tác:................................................................................................................ 32
1.2.1. Vài nét về cuộc đời, con người nhà thơ Ma Trường Nguyên ...............
32

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên:........................................ 34
1.2.3. Quan điểm sáng tác của Ma Trường Nguyên: ...................................... 37
Chương 2. CẢM HỨNG NỔI BẬT TRONG THƠ MA TRƯỜNG
NGUYÊN.................................................................................................... 41
2.1. Cảm hứng về quê hương, con người miền núi:.................................... 41


2.2. Cảm hứng về tình yêu đôi lứa .............................................................. 61
2.3. Cảm hứng viết về phong tục, tập quán đậm bản sắc Tày .................... 69
Chương 3. NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬTTRONG
THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN
......................................................................... 82
3.1. Hình ảnh thơ mang đậm sắc miền núi.................................................. 82
3.2. Ngôn ngữ thơ đậm chất Tày............................................................... 104
3.3. Thơ song ngữ Tày- Việt: .................................................................... 113
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................. 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 129
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn học Việt Nam,
có vẻ đẹp, sắc thái riêng, in đậm bản sắc văn hóa các dân tộc anh em với nhiều
cá tính sáng tạo độc đáo. Đối với lĩnh vực thơ ca, những nhà thơ các dân tộc ít
người đã đóng góp vào nền thơ ca hiện đại Việt Nam một thế giới nghệ thuật
thực sự mới lạ, sinh động với những gương mặt mới, những giọng điệu riêng.
Mỗi người trong số họ đã tạo ra một tiếng nói, một gương mặt, một phong

cách thơ riêng biệt, độc đáo, tạo nên một vườn hoa thơ dân tộc đầy hương sắc.
Đó là các nhà thơ Bàn Tài Đoàn, Triệu Kim Văn (dân tộc Dao); Cầm Biêu,
Vương Trung, Lò Văn Cậy, Lò Cao Nhum (dân tộc Thái); Mã Thế Vinh (dân
tộc Nùng); Vương Anh (dân tộc Mường); Lò Ngân Sủn (dân tộc Giáy); Lâm
Quý (dân tộc Cao Lan), Pờ Sảo Mìn (dân tộc Pa Dí), Dư Thị Hoàn (dân tộc
Hoa)…..
Riêng đối với Dân tộc Tày, đã đánh dấu sự trưởng thành của nhiều
gương mặt như: Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Mai Liễu,
Lương Định, Triệu Lam Châu, Vi Thị Kim Bình, Y Phương, Dương Thuấn,
Ma Trường Nguyên... Có thể thấy ở mỗi tác giả đều gắn với những hoàn
cảnh và điều kiện xã hội cụ thể, trong đó không thể phủ nhận vai trò góp
sức của nhiều yếu tố khác trong xã hội.
Hầu hết những gương mặt trên là những trí thức sống gắn bó với quê
hương dân tộc mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất
nước, họ sống, lao động, chiến đấu gắn bó với thực tế và nhiều người trong số
đó được học tập đào tạo, bồi dưỡng trở thành văn nghệ sỹ chuyên nghiệp như
Triều Ân, Mã Thế Vinh, Y Phương, Ma Trường Nguyên... Hiện nay, chúng ta
đã có một đội ngũ nhà thơ dân tộc thiểu số vững vàng về tay nghề và có đóng
góp đáng kể cho nền văn học dân tộc nước nhà. Trong số đó có Ma Trường
Nguyên, một trong những nhà thơ dân tộc Tày có bản sắc riêng. Cùng với các


nhà thơ khác, ông đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học tỉnh nhà nói
riêng và nền văn học các dân tộc thiểu số nói chung.
Miệt mài “trên cánh đồng chữ nghĩa”, tính đến nay ông đã cho ra đời
20 đầu sách (8 tiểu thuyết, 6 tập thơ, 1 trường ca, 1truyện thiếu nhi, 1 tự
truyện, 1 tập ký, 2 tập tiểu luận và phê bình). Sáng tác của nhà thơ Ma Trường
Nguyên mang đậm hơi thở cuộc sống và con người miền núi với những yếu
tố nghệ thuật giàu bản sắc dân tộc. Ông đã đạt khá nhiều giải thưởng, trong
đó có Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam:

Tiểu thuyết "Rễ người dài" (1996). Giải thưởng Hội VHNT các DTTS Việt
Nam: Cây nêu, thơ (2007) giải C; Hiện đại mà dân tộc, tiểu luận (2010) giải
Khuyến khích; Trên cánh đồng chữ nghĩa, tiểu luận (2012), giải Khuyến
khích. Giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT, báo chí về "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh": Chùm thơ 6 bài (2015) giải
Khuyến khích. Giải thưởng VHNT tỉnh 5 năm: Trái tim không ngủ (thơ), giải
C; Mũi tên ám khói, (tiểu thuyết) giải B 1997; Mùa hoa hải đường, (tiểu
thuyết), giải B 2002; Câu hát vắt qua vai, (thơ) giải B, 2006; Dưới vòm cây
thiên tuế (thơ) giải C; Điệu then Pác Bó, Cây ổi mọc trước cửa hang Pác Bó
(thơ), giải B, 2014.
1.2. Đọc thơ Ma Trường Nguyên ta thấy dù ở đề tài nào các sáng tác
cũng mang đậm chất Tày. Nguồn cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của
ông, đó là tình yêu quê hương, đất nước, về những thay đổi lớn lao của số
phận dân tộc, từ kiếp đói nghèo, nô lệ được làm chủ cuộc đời; về cuộc sống và
con người miền núi, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, về những nơi tác giả
đã từng qua… Và ở đề tài nào Ma Trường Nguyên cũng thể hiện một cách
chân thực, giản dị như chính suy nghĩ và con người tác giả.
Cùng với các bài thơ viết bằng tiếng Việt, Ma Trường Nguyên còn sáng
tác thơ song ngữ Việt- Tày (Phuối đuổi căn; Roọng Slao; Khay cằm lượn
noọng bên slung; Pắc nỉ; Sài Gòn cầư cụng mì tói…). Nghiên cứu thơ Ma
Trường Nguyên, sẽ thấy ở đó những nét khác lạ. Dấu ấn, bản sắc văn hóa Tày
hiện lên


đậm nét trong tác phẩm, trong trải nghiệm cuộc đời, ở chiều sâu văn hóa.
Nhưng điều đáng trân quý ở nhà thơ Tày ấy là không bó hẹp chỉ trong cuộc
sống sinh hoạt của người Tày mà vượt lên, vươn xa như một dấu nối với thơ
ca các dân tộc khác. Tác phẩm vì thế mà mở rộng biên độ, phong phú đề tài về
cuộc sống, con người. Ông viết về những nét văn hóa, về vùng đất nơi ông
sinh ra và lớn lên (Cây Nêu; Tiếng lá rừng gọi đôi …), về những vùng đất ông

từng đặt chân đến, từng ghé thăm (Du thuyền trên sông Hương; Trước biển
Cửa Lò; Nụ cười An Giang; Sào Gòn ai cũng có đôi; Sông Bến Hải…), kể cả
ở nước ngoài (Dòng người viếng Lê Nin; Dâng hoa trước tượng Đài; Tôi làm
thợ ảnh; Thăm bức tranh tròn nhà danh họa Ru- Bô; Đến Nam Ninh; Bến
Thượng Hải…). Và điều quan trọng, các sáng tác của ông tuy thấm đẫm bản
sắc văn hóa dân tộc mình nhưng vẫn giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để
hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam và nói như chính tác giả “Hiện
đại mà dân tộc”.
1.3. Là một nhà báo công tác tại Đài PT- TH Thái Nguyên, đơn vị
truyền thông với 4 loại hình Báo chí là Báo nói, Báo hình, Báo điện tử và Tạp
chí PT- TH. Hiện Đài có chương trình phát thanh tiếng Tày; chuyên mục
truyền hình: “Văn hóa và Du lịch”, “Dân tộc và Miền núi”, “Đất và Người
Thái Nguyên”, “Văn học nghệ thuật”, “Gương mặt nghệ sỹ” cùng một số
chương trình khác. Chính vì vậy tôi nhận thấy việc nghiên cứu thơ của Ma
Trường Nguyên - nhà thơ người Tày, người con của Thái Nguyên là rất có ý
nghĩa. Qua đó, sẽ giúp tôi hiểu hơn về thơ được sáng tác bằng tư duy và sáng
tạo của người Tày, về nhà thơ và những đóng góp của ông đối với thơ ca dân
tộc thiểu số nói riêng, thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Đặc biệt, tôi sẽ
hiểu sâu sắc hơn về bản sắc văn hóa dân tộc Tày - một trong những dân tộc
thiểu số ở Thái Nguyên, cũng như có ý thức gìn giữ nép đẹp truyền thống quý
báu đó thông qua việc thực hiện các tác phẩm báo chí. Từ đó, góp phần tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc Tày trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên gìn giữ và phát


huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá VIII).
2. Lịch sử vấn đề
Ma Trường Nguyên là một nghệ sĩ đa tài. Ông không chỉ làm thơ,
viết văn mà còn viết tiểu luận, phê bình. Ông bắt đầu bằng sáng tác thơ, rồi

sau viết văn xuôi. Tác giả tâm sự rất hồn nhiên: “Cái gì mà thơ không nói
được thì tôi nói trong tiểu thuyết; và ngược lại, cái gì không nói được
trong tiểu thuyết tôi nói trong thơ”. Sống thật để viết thật. Viết từ tâm hồn
không có chút giả dối. Chỗ mạnh và cái hay của tác phẩm Ma Trường
Nguyên phần lớn là ở chỗ đó.
Là nhà thơ dân tộc thiểu số có nhiều tác phẩm được công bố, được nhận
giải thưởng của Trung ương và địa phương, có nhiều bài thơ để lại dấu ấn
trong lòng bạn đọc, như đã nói ở trên, thơ Ma Trường Nguyên đã thu hút được
một số người nghiên cứu, phê bình. Ma Trường Nguyên đã được nhắc đến qua
một số công trình nghiên cứu về thơ dân tộc thiểu số nhưng còn rất ít: Tập
sách Văn học dân tộc Việt Nam thời kỳ hiện đại- một số đặc điểm, NXB Đại
học Thái Nguyên, 2015, do PGS.TS. Trần Thị Việt Trung và PGS.TS. Cao
Thi Hảo đồng chủ biên; Tập sách Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên, 2015 do PGS.TS.
Trần Thị Việt Trung chủ biên.
Đã có nhiều nhà văn, nhà thơ viết về Ma Trường Nguyên với những
tâm sự chân thật. Trung Trung Đỉnh cho đó là “Người đốt lửa bằng trái tim”
với “dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành”. Ngô Quang Miện sau khi
đọc xong thơ Ma Trường Nguyên đã cảm nhận: “Bắt gặp cái mộc mạc, hồn
nhiên của những con người sống giữa thiên nhiên. Những câu thơ không khắc
họa, không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ nguyên sơ,
giữa một bầu không khí ban mai trong trẻo”. Phạm Tiến Duật cho đó là “tâm
hồn nhiều say đắm”. Hồ Thủy Giang gọi đó là “một trái tim thức cùng năm
tháng”


và “hiền lành một cách bẩm sinh”. Nguyễn Đức Thiện cho rằng Ma Trường
Nguyên “nói năng chất phác, thật thà của người Tày gốc”, và “chất rừng núi,
chất dân tộc đã được thể hiện sâu sắc không chỉ ở tả cảnh, tả người mà nó
còn đậm đà trong tình cảm”….Chính vì vậy, Ma Trường Nguyên đã trở thành

đối tượng nghiên cứu qua một số bài viết của các tác giả Phạm Tiến Duật,
Ngô Quân Miện, Vũ Nho, Hoàng Quảng Uyên, Lê Xuân, Nguyễn Đức Hạnh,
Lâm Tiến, Hồ Thủy Giang, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Đức Thiện; một số
bài viết phê bình trên các báo, tạp chí của các tác giả khác về thơ Ma Trường
Nguyên, đặc biệt là thơ viết về tình yêu.
Ngoài ra có luận văn tốt nghiệp đại học Hình tượng nhân vật phụ nữ
trong một số tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên của tác giả Trần Thị Hạnh;
Luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên (2013); luận văn Thơ
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh- từ góc nhìn văn hóa
(2016). Và nói như Phạm Tiến Duật “Thơ Ma Trường Nguyên thấm đẫm
giọng dân ca và âm điệu đàn Tính của dân tộc Tày nơi quê hương anh…”
(Tạp chí “Diễn đàn văn nghệ Việt Nam”, số 4- 2004).
Điểm lại lịch sử vấn đề nghiên cứu về các tác phẩm của Ma Trường
Nguyên nói chung và thơ Ma Trường Nguyên nói riêng, chúng tôi thấy những
bài nghiên cứu, phê bình mới chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá một số
tác phẩm của nhà thơ, đặc điểm ngôn ngữ thơ cũng như về thể loại tiểu thuyết.
Hiện nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát một cách có
hệ thống về bản sắc dân tộc Tày trong thơ của Ma Trường Nguyên, trong đó
có thơ song ngữ. Qua quá trình khảo sát, cùng với những ý kiến đánh giá của
các nhà nghiên cứu đi trước sẽ là những gợi ý quý báu cho việc triển khai
đường hướng nghiên cứu của chúng tôi, để từ đó chỉ ra nét duyên riêng của
nhà thơ “rất Tày” trong sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và văn
học dân tộc thiểu số nói riêng.


3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là toàn bộ những sáng tác
thơ của Ma Trường Nguyên. Nội dung chính của luận văn tập trung vào phân
tích bản sắc dân tộc Tày trong thơ ông. Ngoài ra, còn tham khảo một số tập

thơ của các tác giả dân tộc Tày khác như Y Phương; Dương Thuấn… để có sự
so sánh, làm rõ hơn đặc điểm của thơ Ma Trường Nguyên cũng như sự đồng
điệu của các nhà thơ dân tộc thiểu số khác cùng miền Đông Bắc.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới việc làm nổi bật những nét đặc sắc về nội dung,
nghệ thuật, tính sáng tạo, tính mới của thơ Ma Trường Nguyên, trong đó có cả
thơ song ngữ. Từ đó thấy được nét riêng mang đậm bản sắc dân tộc cũng như
những đóng góp của Ma Trường Nguyên đối với thơ ca dân tộc thiểu số nói
riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong thơ Ma Trường
Nguyên. Trên cơ sở đó, khẳng định những nét riêng, mang đậm chất Tày,
những đóng góp của tác giả đối với sự phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số
Việt Nam và thơ ca Việt Nam thời kỳ hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ lựa chọn những phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp tiểu sử;
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu;
- Vận dụng một số phương pháp nghiên cứu theo hướng Thi pháp học.


5. Phạm vi nghiên cứu
- 6 tập thơ, 1 trường ca của nhà thơ Ma Trường Nguyên.
+ Mát xanh rừng cọ, Sở Văn hóa Bắc Thái, 1985
+ Trái tim không ngủ, Hội Văn nghệ Bắc Thái,1988
+ Tiếng lá rừng gọi đôi, NXB Văn hóa Dân tộc, 1996

+ Câu hát vắt qua vai, Hội Văn nghệ Thái Nguyên, 2005
+ Cây Nêu, NXB Nhà văn, 2006
+ Bắc cầu vồng thăm nhau, NXB Hội nhà văn, 2007
+ Mở núi, NXB Hội nhà văn, 2011
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại và nhà
thơ Ma Trường Nguyên.
Chương 2: Cảm hứng chủ đạo trong thơ Ma Trường Nguyên.
Chương 3: Những điểm nổi bật về nghệ thuật trong thơ Ma Trường
Nguyên.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn chỉ ra một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật mang bản
sắc dân tộc trong thơ Ma Trường Nguyên.
- Khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ Ma Trường
Nguyên trong bộ phận thơ ca dân tộc thiểu số thời kì hiện đại.
- Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm nghiên cứu thơ ca dân tộc thiểu số và thơ ca Việt Nam nói
chung; là tài liệu phục vụ cho việc giảng dạy thơ ca dân tộc thiểu số trong
chương trình giáo dục ở bậc phổ thông nói riêng. Đây cũng là tài liệu giúp bổ
sung thêm kiến thức, hiểu biết phục vụ cho công việc chuyên môn của một
người làm báo.


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THƠ CA DÂN TỘC THIỂU SỐ
HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN
1.1. Vài nét về thơ ca dân tộc thiểu số hiện đại
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nói chung, thơ ca hiện đại các dân

tộc thiểu số nói riêng, từ lâu đã được khẳng định là một bộ phận văn học có vẻ
đẹp, có sắc thái riêng, in đậm dấu ấn tâm hồn và giàu bản sắc văn hóa các dân
tộc anh em, với nhiều cá tính sáng tạo độc đáo. Riêng trong lĩnh vực thơ ca,
những nhà thơ các dân tộc ít người đã đóng góp vào nền thơ ca hiện đại Việt
Nam một thế giới nghệ thuật thơ thực sự mới lạ, sinh động với những gương
mặt mới, những giọng điệu riêng. Theo Trần Đăng Xuyền thì: Thơ là nghệ
thuật kì diệu bậc nhất của con người. Thơ của các nhà thơ dân tộc ít người là
thứ nghệ thuật hai lần kì lạ, vì đây là tiếng nói hồn nhiên nhất, thể hiện tinh
tế, sâu sắc điệu tâm hồn độc đáo của từng nhà thơ, qua đó làm ngời lên
gương mặt tinh thần, vẻ đẹp tâm hồn của các dân tộc anh em trên đất nước
thân yêu của chúng ta [61;6]. Trong mỗi giai đoạn phát triển, bên cạnh những
nét truyền thống cơ bản, thơ ca các dân tộc thiểu số lại có những nét riêng phù
hợp với sự phát triển và hoàn cảnh lịch sử.
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:
Theo một số nhà nghiên cứu thì văn học dân tộc thiểu số nói chung, thơ
ca dân tộc thiểu số nói riêng đã xuất hiện từ thế kỷ XVII với hai tác giả dân
tộc Tày Bế Văn Phùng và Nông Quỳnh Vân với hai bản trường ca Tam
nguyên luận và bài Lượn tứ quý được viết bằng chữ Nôm Tày và thể thơ 7
chữ. Tiếp đó, cuối thế kỷ XIX xuất hiện thêm hai nhà thơ dân tộc Thái là
Ngần Văn Hoan và Lò Văn Thứ. Hai tác giả này sáng tác thơ chủ yếu để hát.
Nhân dân gọi Ngần Văn Hoan là sláy khắp, với nghĩa là người chuyên sáng
tác thơ hát và hát rất giỏi. Ông kế thừa và vận dụng một cách thuần thục
những truyện thần thoại,


truyện cổ tích, truyện thơ và tục ngữ, ca dao, dân ca Thái vào tác phẩm thơ hát
của mình. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Lời hát nền Văn Hoan, là bài thơ dài
2.300 câu được viết với hình thức đối đáp của 2 nhân vật nam và nữ. Thơ ca
Ngần Văn Hoan gần gũi với văn học dân gian, gần gũi với tiếng nói hàng ngày
của người dân tộc. Với cách viết đó, ông đã đưa văn học dân gian Thái lên

đỉnh cao mới, làm cho thơ dân gian Thái phong phú, trong sáng và giàu hình
tượng.
Tuy nhiên, đây chỉ là những hiện tượng lẻ tẻ và số lượng tác phẩm họ
sáng tác cũng không nhiều, vì thi pháp lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học
dân gian, và được viết bằng tiếng dân tộc, nên sức lan tỏa chỉ mang tính phạm
vi vùng miền.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với sự hình thành và phát triển
của nền văn học quốc ngữ, văn học viết dân tộc thiểu số miền núi cũng đã xuất
hiện với sự tham góp của nhiều tác giả ở nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có
khá nhiều tác giả dân tộc Tày sáng tác thơ bằng chữ Hán như Hà Vũ Bằng, Bế
Ích Bồng, Nông Đình Cấp, Bế Đức Cốm, Lê Văn Dự, Nông Đình Đối…Đặc
biệt, có Hoàng Đức Hậu (1890 – 1945) là một hiện tượng đáng chú ý. Nhà
thơ dân
tộc Tày ở Cao Bằng này đã sáng tác bằng 3 loại ngôn ngữ Tày, Hán và Quốc
ngữ. Trong số 121 bài thơ Đường luật ông để lại có 115 bài viết bằng chữ Tày,
3 bài là chữ Quốc ngữ và 3 bài bằng chữ Hán. Ông được coi là một hiện tượng
độc đáo của văn học dân tộc thiểu số thời kì đầu thế kỷ XX. Đó là một nhà thơ
có phong cách riêng và không ngừng tìm tòi, cách tân, sáng tạo thể thơ Đường
luật để tạo nên tiếng nói riêng, cách thể hiện riêng, mới mẻ, độc đáo, không
dùng hình tượng thơ mang tính ước lệ, khuôn sáo, như hình ảnh Tùng, Cúc,
Trúc, Mai hay Nguyệt, Phong, Vân… không mang tính khuôn mẫu, phù hợp
với sự tiếp nhận của độc giả. Thơ ông không chỉ ảnh hưởng tới những nhà thơ
cùng thời, mà còn ảnh hưởng tới những nhà thơ Tày thế hệ sau như Nông
Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Dương Thuấn, Y Phương… Chính
ông đã


góp phần làm nên một hiện tượng thơ độc đáo trong đời sống thơ ca dân tộc
thiểu số cũng như thơ ca Việt Nam nói chung.
Vào những năm 1930 - 1940, cùng với thơ ca cách mạng của đất nước,

một mảng thơ cách mạng của các dân tộc thiểu số ra đời. Tác giả của mảng
thơ này là những chiến sĩ người dân tộc thiểu số hoạt động cách mạng: Hoàng
Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Dương Công Hoạt… Nổi bật trong mảng thơ ca
này là bài thơ “Nhắn bạn” của Hoàng Văn Thụ. Đây là bài thơ viết bằng tiếng
Việt theo thể thơ Đường luật. Còn phần lớn các bài thơ khác được lồng vào
các điệu dân ca quen thuộc. Với những sáng tác này, hiện thực cách mạng đã
ùa vào đời sống văn hóa, văn học các dân tộc thiểu số và đặt nền móng vững
chắc cho thơ ca cách mạng và kháng chiến của các dân tộc thiểu số Việt Nam
phát triển. Những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ ca thời kỳ này và sự
phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn sau là Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông
Viết Toại, Nông Minh Châu…
Vào cuối những năm 40 của thế XX đã xuất hiện một số bài thơ của các
nhà thơ dân tộc thiểu số có nội dung cách mạng, có tác dụng giác ngộ cao đối
với quần chúng nhân dân các dân tộc vùng cao như Lùa chó dậy (1940) của
tác giả Cầm Biêu; Dặn vợ, dặn con của Bàn Tài Đoàn (1944), Nông Quốc
Chấn có bài Khóc đồng chí hay Mưa gió:
….. Đồi núi bốn bề những cơn gió lốc Ngược
xuôi sôi sục nước lũ ngập ruộng nương Hùm
báo gọi nhau đi kiếm ăn từng lũ,
Chim muông bay nhảy để gìn giữ chim muông.
Mặc gió mặc mưa, chúng ta đừng hoảng hốt!
Ngày mai trời nắng, sông núi sẽ huy hoàng.
Mang tính ẩn dụ cao, tác giả đã mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói
về hoàn cảnh hiện tại của đất nước, quê hương ông, và ở đây có tính tư tưởng
rõ rệt: dù đất nước đang rơi vào hoàn cảnh khó khăn, loạn lạc, nhưng một
tương


lai tươi sáng sẽ đến với đồng bào dân tộc. Có thể coi đây là bài thơ trữ tình
mang tính hiện thực được viết với cảm hứng lãng mạn cách mạng đầu tiên của

thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Có thể nói, thơ ca các dân tộc thiểu số giai đoạn trước năm 1945 tuy
mới chỉ là sự bắt đầu, chưa phải đã có nhiều sáng tác nhưng cũng đã để lại
dấu ấn riêng, đã có tính sáng tạo, đổi mới, có tính hiện thực cách mạng. Chính
điều này đã góp phần làm phong phú, đa dạng cho nền thơ ca dân tộc, cũng
như đặt nền móng vững chắc cho thơ ca cách mạng và kháng chiến của các
dân tộc thiểu số Việt Nam phát triển ở những giai đoạn sau.
1.1.2. Giai đoạn 1945-1975:
* Giai đoạn 1945- 1954:
Đây là thời kỳ thơ ca Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ, trong đó có thơ
ca các dân tộc thiểu số. Hòa cùng dòng chảy chung của văn học dân tộc với
tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ca ngợi cách mạng, thơ ca của các tác giả
dân tộc thiểu số giai đoạn này cũng góp một tiếng nói bảo vệ đất nước, chống
giặc ngoại xâm, với nội dung phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian
khổ nhưng chiến thắng lẫy lừng của dân tộc ta.
Ở thời kỳ này, những nhà thơ dân tộc thiểu số đã xuất hiện từ trước năm
1945 đến nay tiếp tục phát triển với hàng loạt các sáng tác về cuộc sống, con
người miền núi trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Bên cạnh đó là
sự xuất hiện của một số các nhà thơ dân tộc thiểu số khác, đã hăm hở sáng tác
những bài thơ thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần hi sinh vì nền độc lập
dân tộc và lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Về tác giả, chủ đạo vẫn là những tên quen thuộc như Nông Quốc Chấn,
Nông Minh Châu, Nông Viết Toại (dân tộc Tày), Cầm Biêu, Lương Quy
Nhân, Hoàng Nó (dân tộc Thái), Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao)…
Về tác phẩm, Nông Quốc Chấn đã có bài thơ Việt Bắc đánh giặc (1948),
Khâu áo (1948), Dọn về làng (1950):


….. Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai

Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân…
Ngoài những bài thơ trên, Nông Quốc Chấn còn có các bài Đi Béc Linh
về (1951), Đời chúng em (1952), Nói với các anh (1953), Rời rừng (1954) và
Thư lên Điện Biên (1954); Tác giả Nông Minh Châu có Đêm Ba Khe (1952),
Đuổi nhau (1952), Thầm ca (1953), Người thanh niên giữ Đèo Giàng (1953),
Gửi anh bạn Triều Tiên (1953), Gửi anh Chương (1954), Hai lời gửi mẹ
(1954); Nông Viết Toại có Pây bộ đội (Đi bộ đội), Lần truyện cáu (Nói
chuyện cũ1954), Kin khẩu mấư (Ăn cơm mới- 1954); Cầm Biêu có Vợ lính ngụy mong
chồng (1949), Gái thời giặc (1950), Mường muổi yên vui (1954); Lương Quy
Nhân có Cán bộ với dân Mường (1947); Hoàng Nó có Tội ác giặc Pháp ở đồn
Pom Nghê (1948); Bàn Tài Đoàn có Chiến thắng Nghĩa Lộ (1952), Mừng thủ
đô giải phóng (1954); Bác về thủ đô…
Chúng ta nhận thấy rằng, lớp nhà thơ đầu tiên của các dân tộc thiểu số
đã được ra đời và trưởng thành luôn gắn liền với phong trào cách mạng Việt
Nam. Hầu hết họ đều xuất thân từ các bản làng miền núi xa xôi, từ các gia
đình lao động nghèo khổ, bị áp bức bóc lột nặng nề. Với điều kiện xuất thân
như vậy nên giữa họ và nhân dân lao động miền núi không có khoảng cách.
Họ gắn bó với nhân dân và đến với cách mạng một cách tự nguyện, tự nhiên.
Mặt khác, họ đều được đắm mình trong mạch nguồn văn hóa, văn học dân
gian dân tộc miền núi, được hấp thụ những tinh hoa văn hóa dân tộc một cách
tự nhiên như ăn cơm, nước uống, như khí thở hàng ngày.


Nên có thể nói, cách mạng, quê hương miền núi và nền văn hóa dân
gian dân tộc là 3 nguồn mạch chính đã tạo nên cảm hứng, nuôi dưỡng và phát

triển thơ ca các dân tộc thiểu số trong những năm tháng đấu tranh cách mạng
và trong cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc. Cũng ở giai
đoạn này, các nhà thơ dân tộc thiểu số đã cất lên tiếng nói cùng những suy
nghĩ, những niềm tâm sự, những tình cảm chân thành, thiết tha và cảm động
của dân tộc mình đối với cách mạng, đối với Đảng, với Bác Hồ vô vàn kính
yêu. Sự kết hợp giữa tư tưởng yêu nước, yêu quê hương với lòng tự hào, tự
tôn dân tộc đã tạo niềm hứng khởi và sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa và phát
huy vốn văn hóa, văn học dân gian phong phú, giàu bản sắc cho các nhà thơ
dân tộc thiểu số thời kỳ này. Các tác phẩm của họ đều đậm đặc chất dân tộc.
Thơ họ gắn liền với thiên nhiên, với con người miền núi, gắn liền với những
sự kiện, những biến động lớn lao của xã hội miền núi. Họ hướng ngòi bút vào
việc phản ánh cuộc sống cách mạng và kháng chiến ở vùng dân tộc mình, về
những tâm tư, cảm nhận, những nỗi niềm của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Nhà thơ Bàn Tài Đoàn có bài thơ Kể chuyện đời có thể coi như tiếng nói tâm
tình của người Dao từ trong đau khổ, đói rách và tăm tối đến với cách mạng:
Người dân bụng đói và áo rách
Dốt đặc chẳng biết chữ nào chơi
Có hai mắt mà như mù cả
Có tai như điếc cả cuộc đời…
Nhà thơ người Thái Cầm Biêu lại khắc họa chân thực và sinh động số
phận đau khổ, nhục nhã và bế tắc của người phụ nữ dân tộc mình dưới chế độ
thực dân phong kiến qua bài thơ Gái thời giặc:
Gái nhỏ thời sợ quan
Gái to thời sợ lính...
Hay bài thơ Vợ lính ngụy mong chồng:
Hỡi anh ơi! Người chồng em ngàn năm yêu dấu
Nghĩ tới anh, em những héo hon lòng...


Một trong những điều làm nên sức mạnh để con người vượt qua những

thử thách, khó khăn trong thời kỳ này là niềm tin vào Đảng và Bác Hồ:
....Chính phủ Cụ Hồ rất thương dân
Có chính sách khoan dung với người lầm đường lạc lối..
(Vợ lính ngụy mong chồng - Cầm Biêu)
Thơ ca giai đoạn này có sự vận động, phát triển khá phong phú. Nhìn
chung đã phản ánh được hiện thực cuộc sống, phản ánh những tâm tư, những
cảm nhận, những nỗi niềm của con người miền núi trong những ngày kháng
chiến gian khổ và anh dũng cùng những ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ
lừng lẫy.
Về nghệ thuật, một trong những đặc điểm nổi bật của thơ ca giai đoạn
này là sự ảnh hưởng và kế thừa thơ ca dân gian truyền thống. Đó là thể thơ 7
chữ 8 dòng, 7 chữ 4 dòng kéo dài, thơ Đường luật, lời thơ trong các làn điệu
dân ca như lượn, sli, páo dung…Bàn Tài Đoàn là người sử dụng trung thành
nhất thể thơ truyền thống xưa của dân tộc Dao. Thơ ông chủ yếu là thơ 7 chữ,
nặng về phương thức tự sự, kể lể:
Mẹ lại được nghe anh cán bộ
Báo tin mừng giải phóng thủ đô
Bộ đội ta vào như nước chảy
Rầm rập cờ đỏ cắm đầy khắp nơi….
Vào cuối giai đoàn này, tức vào những năm đầu của thập kỷ 50, các nhà
thơ dân tộc thiểu số đã có nhiều bài thơ sáng tác theo thể thơ tự do, mang màu
sắc hiện đại hơn. Tiêu biểu như bài “Bộ đội ông cụ” của Nông Quốc Chấn, bài
thơ “Qua cánh đồng Lanh Chanh”, “Tay súng tay bay” của Nông Minh
Châu… Đây là điểm rất đáng khẳng định của thơ ca giai đoạn này.
Bên cạnh đó, một đặc điểm nổi bật cần nhắc đến của thơ dân tộc thiểu
số thời kỳ này, là hầu hết các nhà thơ đều sáng tác bằng tiếng dân tộc, phản
ánh đúng tâm tư, tình cảm, diễn đạt đúng theo cách nói, cách nghĩ của đồng
bào dân



tộc thiểu số. Do đó, những bài thơ này rất có tác dụng giác ngộ, giáo dục,
động viên đồng bào trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta.
Có thể nói, thơ giai đoạn 1945- 1954 đã mang đậm bản sắc dân tộc từ
hình thức cho đến nội dung. Giá trị nổi bật của thơ ca giai đoạn này chính là
việc các nhà thơ đã phản ánh được thế giới tâm tư tình cảm và con người miền
núi trong một giai đoạn lịch sử. Những con người vượt lên hoàn cảnh khó
khăn, thiếu thốn để chiến đấu cho cuộc sống tự do với một lòng căm thù giặc,
có niềm tin với Đảng, Cách mạng và Bác Hồ.
* Giai đoạn 1954- 1975:
Sau năm 1954, đời sống cách mạng của đất nước ta có nhiều thay đổi:
miền Bắc được giải phóng, đất nước ta bước vào giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Người dân tộc
thiểu số được thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa,
xã hội giữa miền xuôi, miền ngược thuận lợi hơn. Nhân dân các dân tộc có dịp
tiếp xúc với vùng miền xuôi, thành phố, thủ đô… Do đó, tầm nhìn của các
nhà thơ dân tộc cũng được mở rộng, trình độ được nâng cao, các tác giả người
dân tộc thiểu số đã đưa thơ dân tộc thiểu số sau 1954 bước vào một giai đoạn
mới với khá nhiều thành tựu.
Ở thời kỳ này, thơ ca các dân tộc thiểu số được ví như mùa xuân thứ
nhất, bởi sự ra đời của nhiều bông hoa trong vườn thơ nhiều hương sắc. Đội
ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, số lượng tác phẩm nhiều, chất lượng sáng
tác ngày càng cao.
Bên cạnh những tác giả thơ thuộc lớp trước vẫn tiếp tục sáng tác một
cách tích cực như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Cầm
Biêu, Hoàng Nó, Bàn Tài Đoàn…, thời kỳ này còn xuất hiện một lớp tác giả
mới được đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hóa và ít
nhiều được trang bị kiến thức lý luận về sáng tác như Mã A Lềnh, Mã Thế
Vinh, Vương Anh, Triều Ân…



Có thể nói, đây là một thời kỳ thăng hoa của thơ ca các dân tộc thiểu số,
bởi một loạt các tập thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số giai đoạn này đã xuất
hiện trong đời sống thơ ca Việt Nam. “Các nhà thơ miền núi say sưa cất
giọng ca của dân tộc mình hòa chung vào bản hợp xướng thơ ca dân tộc Việt
Nam, tạo nên một đời sống thơ vô cùng phong phú, đầy hào sảng của dân
tộc…”. [61;62].
Đó là các tập thơ của Nông Quốc Chấn: Người núi hoa (1958), Tiếng ca
người Việt Bắc (1959), Đèo gió (1968), Dám kha Pác Bó (1972); Triều Ân có
Tiếng hát rừng xa (1974), Nắng ngàn (1974); Hoàng Nó có Tiếng hát mường
Hoa Ban; Vương Trung có Ing Éng (1967); Mã A Lềnh có Rừng sáng (in
chung); Bàn Tài Đoàn có Xuân về trên núi (1963), Một giấc mơ (1964), Kể
chuyện đời (1968), Rừng xanh (1973), Sáng cả hai miền (1975)...
Nội dung bao trùm thơ ca các dân tộc thiểu số viết về cuộc sống mới
trong hòa bình tràn đầy niềm vui, niềm tự hào, niềm tin vào một tương lai
tươi sáng của dân tộc Việt Nam nói chung, đồng bào các dân tộc thiểu số nói
riêng. Hàng chục tập thơ với hàng trăm bài thơ của các tác giả dân tộc thiểu
số đã viết về đề tài ca ngợi cuộc sống mới - cuộc sống vĩ đại của đồng bào
các dân tộc thiểu số khi miền Bắc sạch bóng quân thù, cả nước bước vào công
cuộc xây dựng XHCN với niềm tin yêu, hi vọng, với bao niềm hân hoan, lòng
nhiệt thành cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc thiểu số Việt
Nam.
Các nhà thơ hướng ngòi bút của mình vào sự đổi thay lớn lao của quê
hương và bày tỏ tâm trạng phấn khởi của mình trước cuộc sống mới tràn đầy
niềm vui, niềm hạnh phúc. Quê hương Việt Bắc đã hoàn toàn sạch bóng quân
thù:
Đầu mường hết giặc phản
Cuối bản hết giặc Tây
Dưới chân cầu thang đã sạch bóng giặc Mỹ…
(Biên giới lòng người - Lương Quy Nhân).
Họ tự hào và vui mừng khi thấy quê hương giàu đẹp:



Em ơi ! Việt Bắc đẹp giàu
Núi rừng trùng điệp muôn màu cỏ hoa
Trên Phja Dạ mây mù buông chướng
Dưới đất kia: quặng, sắt, bạc, vàng
Đi thuyền Ba Bể dọc ngang...
(Tiếng ca người Việt Bắc - Nông Quốc Chấn)
Hay:
Gà đầy sân đua gáy ấm nhà
Chuồng mới ủn ỉn tiếng lợn nái dỗ đàn con bé…
(Suối Đông và suối Tộc - Vương Trung)
Nhà thơ Tày Triều Ân đã say sưa ca ngợi cuộc sống mới trên quê hương
Việt Bắc:
Cử anh chủ nhiệm đi Hà Nội
Đón máy cày lên với cánh đồng
….
Hôm nay trâu sắt đi cày ruộng
Máy nổ ầm vang thức núi rừng…
(Quê ta, anh biết chăng)
Đúng là một sự đổi thay kì diệu mà theo tác giả, đó thực sự là cuộc đổi
đời lần thứ hai của các dân tộc vùng cao sau Cách mạng Tháng Tám. Đọc bài
thơ ta thấy hiện lên một khung cảnh lao động mới, đã có sự xuất hiện của máy
móc, của KHKT, điều mà trước đây chưa từng có ở các vùng nông thôn miền
núi, vùng xa. Đó thực sự là một cuộc thay da đổi thịt, cuộc sống mới tràn đầy
niềm vui, niềm hạnh phúc. Các dân tộc cùng nhau đoàn kết xây dựng quê
hương.
Những đổi thay về phương thức sản xuất, cảnh lao động tập thể trong
không khí lao động khẩn trương sôi nổi, tinh thần đoàn kết xây dựng quê
hương... cũng là một cảm hứng lớn trong thời kỳ này. Đối tượng mà các nhà



thơ phản ánh ngợi ca là những con người đang trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ
sự nghiệp chung của cả dân tộc. Đó là những người lính canh giữ biên thùy, là
người công nhân làm đường, là người nông dân một nắng hai sương trên
ruộng đồng... Từ cảm hứng về cuộc sống mới, hình tượng con người, đặc biệt
là người phụ nữ cũng đã được khắc họa cụ thể hơn. Người phụ nữ không còn
mang thân phận bị phụ thuộc, giờ đây họ có một vị thế mới, đó là những
người tự do được làm chủ cuộc đời mình và tham gia tích cực vào công tác xã
hội. Họ tham gia lao động trong hợp tác xã, trong các tổ đổi công, bộc lộ tài
năng, sự khéo léo của mình trong hội cấy thi, vận dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất. Họ đã trở thành hoa trong mường:
Mẹ chờ con trai lại
- Tay mày sờ máy, mở tao nhìn
Mẹ nhìn con gái đến
- Tay mày cầm súng cầm có hay...
(Hoa trong mường - Vương Anh)
Nhiều cô gái đã trở thành người công nhân lao động xây dựng chủ
nghĩa xã hội:
Khăn Piêu nhuộm nắng mưa sa
Sánh vai nam giới, ca vang một lời
Vì chị là người
Công nhân trẻ tuổi...
(Chị em công nhân cầu đường –Hoàng Nó).
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đem lại cho nhân dân những
biến đổi lớn lao trong cuộc sống. Trước cuộc sống tự do hạnh phúc hiện tại,
đồng bào các dân tộc thiểu số luôn bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Bác Hồ. Cầm
Biêu có bài Muốn nhìn thấy Đảng (1958), Công Đảng, công Bác (1960); Bàn
Tài Đoàn viết Muối của cụ Hồ:
… .Từ khi cán bộ cụ Hồ đến

Ngoài chợ có bán nhiều thứ hàng


Có hàng bán muối tha hồ chọn
Có hàng bán vải đỏ, vải xanh
Cụ Hồ mang áo về, dân mặc
Cụ Hồ đem muối về, dân ăn
Nay Bác bảo ta đi đào đất
Mở thêm đường cái lên Đồng Văn
Có xe mang thêm nhiều muối đến
Người Mèo ta không sợ đói nghèo.
Có thể nói, chính công cuộc xây dựng xã hội mới - XHCN đã đem lại
sự thay đổi trong nếp cảm, nếp nghĩ, trong tư duy, tư tưởng của đồng bào. Họ
luôn có sự so sánh cuộc sống ngày nay với cuộc sống trước kia để thấy sự
khác nhau sâu sắc giữa hai chế độ nô lệ và tự do. Từ đó càng biết ơn Đảng,
Bác Hồ, những người đã cho họ cuộc sống hôm nay. Đây cũng là cảm hứng
chủ yếu của thơ ca dân tộc thiểu số thời kỳ này:
Thời Tây đem gai góc lấp đường
Thời ta không còn gì uy hiếp
(Có tổ đổi công - Cầm Biêu)
Bên cạnh nội dung ca ngợi cuộc sống mới, con người mới trong không
khí hòa bình ở miền Bắc, cuộc chiến tranh chống Mỹ và đấu tranh thống nhất
nước nhà cũng là một nội dung quan trọng trong thơ ca thời kỳ này. Đồng bào
các dân tộc thiểu số, trong đó có các nhà thơ đã dồn tình cảm và tâm huyết của
mình vào sáng tác, phản ánh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc
và đấu tranh thống nhất ở miền Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số miền Bắc
luôn hướng về miền Nam ruột thịt với tình cảm chân thật, thiết tha. Nhà thơ
Nông Quốc Chấn đã viết bài Tiếng ca người Việt Bắc:
Chúng tôi người Việt Bắc
Không một lúc nào quên

Giành Nam Bắc nối liền


×