Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

tu tuong ho chi minh ve phat trien con nguoi toan dien p2 4689

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 20 trang )

ta phải nghiên cứu, học tập. Nghiên cứu, học tập lý luận
và kỹ thuật" \

3. Phát triển, nâng cao năng lực thẩm mỹ
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của con
người trong suôt tiến trình phát triển của nó, các nhà
khoa học trên nhiều lĩnh vực đã nhận thấy rằng, con
người không những có nhu cầu tồn tại mà còn có nhu
cầu phát triển, để vươn tối cái mới, cái hay, cái đẹp, cái
cao cả. Đó là đặc trưng rất cơ bản, chỉ có ở con ngưòi. Xã
hội càng văn minh thì nhu cầu vươn tới cái đẹp càng
cao. Trình độ thẩm mỹ, khả năng thưởng thức và sáng
tạo ra cái đẹp là một phẩm chất quan trọng của con
người toàn diện. Nó là sự thăng hoa, mang tính ngưòi
sâu sắc nhất. Biết làm đẹp cho bản thân, cho xã hội,
khám , phá và sáng tạo ra những giá trị thẩm mỹ cho
cộng đồng là một trong những hoạt động giàu tính nhân
văn nhất của loài ngưòi. Quá trình vươn tối cái hay, cái
đẹp, cái cao cả cũng là quá trình con người loại bỏ dần
những gì xấu xa, ích kỷ trong bản thân con ngưòi "làm
cho phần tốt ở trong mỗi con ngưồi nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi"^. Sự nghiệp xây dựng
và phát triển con ngưòi toàn diện theo Hồ Chí Minh
cũng là nhằm tới mục tiêu cao cả đó.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 392.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l2 , tr. 558.

102



Theo Hồ Chí Minh, là con ngưòi ai cũng có ước vọng
vươn tới "chân, thiện, mỹ". Đó là bản chất nhân văn luôn
tiềm ẩn trong con ngưòi. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc điều
đó nên trong quá trình xây dựng con ngưồi cho chế độ
mới ở nước ta, Người đã biết gạn đục, khơi trong, động
viên và tạo điêu kiện để mọi ngưòi dù xuất thân từ
những "người nô lệ, bị áp bức", "người cùng khổ", những
công nhân, nông dân, trí thức và các thành phần khác
vươn lên trở thành những anh hùng, dũng sĩ, những
ngưòi lao động giỏi những "thánh hiền ngày nay"^ Theo
Hồ Chí Minh, phát triển năng lực, nâng cao trình độ
thẩm mỹ của con người Việt Nam là để họ hiểu biết ngày
càng sâu hơn mối quan hệ thẩm mỹ giữa con người vói
hiện thực, "để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là không đẹp"
trong cuộc sốhg. Từ đó, không ngừng phấn đấu vươn tới
cái hay, cái đẹp, cái cao cả nhằm từng bước hoàn thiện
bản thân, đồng thòi góp sức mình xây dựng những quan
hệ xã hội mối tốt đẹp và kiên quyết đấu tranh chống lại
những thói hư, tật xấu, những việc làm phản nhân văn,
đi ngược lại sự tiến bộ của xã hội, làm băng hoại nhân
cách con người. Hơn th ế nữa, vối những hiểu biết ngày
càng cao các tri thức về mỹ học, mỗi ngưòi có thể thẩm
định, đánh giá đúng đắn các công trình, tác phẩm nghệ
thuật trong và ngoài nước, góp phần bảo tồn, nâng cao
những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc và biết tiếp

1. Hồ Chí Minh:

Toàn tập, Sđd, 1.12, tr. 558.


103


thu những cái hay, cái đẹp, cái cao cả của di sản văn hoá
nhân loại để làm giàu cho nhận thức của bản thân và
nền văn hoá mới Việt Nam. Cũng có thể, bản thân họ trỏ
thành những người sáng tạo ra những tác phẩm hội họa,
thi ca... có giá trị để phục vụ đông đảo công chúng yêu
nghệ thuật. Thực tiễn công cuộc xây dựng xã hội mới ở
Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Để phát triển và nâng cao trình độ, năng lực thẩm mỹ
của con người toàn diện Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng
cần phải quan tâm giải quyết những vấn đê chủ yếu sau:
-

Xây dựng định hướng thẩm mỹ đ ú n g đắn cho con

người toàn diện Việt N am :

Trong lịch sử, định hướng thẩm mỹ bao giờ cũng gắn
vối lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức của xã hội. Lý
tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức của con người Việt
Nam trong thòi đại Hồ Chí Minh mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc: "xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"' ; rèn
luyện con người Việt Nam: "cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư"; một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quô"c.
Lý tương đó chi phối quan điểm thẩm mỹ của con người

cũng như định hưống cho mọi hoạt động văn hoá, nghệ

1. Hồ Chí Minh:

104

Toàn tập, Sđd, t . l 2 , tr. 512.


thuật ỏ Việt Nam. Định hướng thẩm mỹ của nhân dân ta,
của nền nghệ thuật cách mạng mà Hồ Chí Minh luôn
khẳng định là "dân tộc, khoa học và đại chúng"; "nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, ngày càng phát triển
mạnh mẽ"'; là "phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân"^;
không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật mà nghệ thuật
phải phục vụ công, nông, binh; "đi sâu vào đời sống của
nhân dân. Như thế, mới bày tỏ được cái tinh thần anh dũng
và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát
triển và nâng cao tinh thần ấy"^. Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ
trên định hướng thẩm mỹ đúng đắn đó, con người Việt
Nam mới có những nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái tốt,
cái đúng, cái cao cả, cái anh hùng..., qua đó nâng cao trình
độ thẩm mỹ và năng lực sáng tạo trong việc xây dựng
những quan hệ xã hội mói giàu tính nhân văn cũng như tạo
ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị phục vụ đông đảo
nhân dân.
-

Bồi dưỡng kiến thức về mỹ học, nâng cao trinh độ


thẩm mỹ của con người Việt N am :

Khoa học mỹ học nghiên cứu và cung cấp cho con
người những tri thức về các quan hệ thẩm mỹ giữa con
người với tự nhiên, xã hội, giữa con ngưòi với đồng loại
thông qua hàng loạt khái niệm, phạm trù, trong đó cái đẹp

1. HỒ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 224.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 325.
3. Hồ Chí Minh; Toàn tập, Sđdy t.6, tr. 368.

105


là trung tâm, được biểu hiện tập trung nhất ở các hình
tượng nghệ thuật.
Tri thức mỹ học đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa
quyết định tính nhân văn trong nhận thức và hành động
của con người, là thước đo "phẩm chất người" trong các
hoạt động của mỗi cá nhân. Vì vậy, phát triển, nâng cao
năng lực thẩm mỹ của con người không thể không bồi
dưỡng cho họ sự hiểu biết về cái đẹp, cái tốt, cái đúng, cái
cao cả, cái anh hùng, cái bi, cái hài trong đòi sông hiện
thực cũng như trong nghệ thuật. Xuất phát từ điều kiện
lịch sử - cụ thể Việt Nam, trình độ dân trí còn thấp, Hồ
Chí Minh đã chủ trương bồi dưỡng và nâng cao sự hiểu
biết thẩm mỹ cho con người không phải bằng khái niệm,
phạm trù, thuật ngữ trừu tượng, khó hiểu, mang tính bác
học mà bằng việc phân tích, đánh giá, chỉ ra cho mỗi người
Việt Nam thấy được cái hay, cái đẹp, cái tô"t trong truyền

thống văn hoá Việt Nam, trong nghệ thuật dân tộc, cũng
như trong những tinh hoa văn hoá nhân loại để nhân dân
ta dễ tiếp thu. Ví dụ, chỉ rõ những cái hay, cái đẹp trong
văn hoá truyền thống Việt Nam mà chúng ta cần kế thừa,
Hồ Chí Minh viết: "Những câu tục ngữ, những câu vè, ca
dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng
tác ấy rất hay mà lại ngắn... Những sáng tác ấy là những
hòn ngọc quý"’; "tiếng Việt ta rất phong phú, ta phải làm

1. Hồ Chí Minh:

106

Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 250.


giàu thêm cho tiếng của ta"'; "Nhân dân ta có truyền
thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải
học cách kể chuyện của nhân dân, nên kèm theo nhiều
tranh vẽ dễ hiểu mà đẹp"^.
Người ca ngỢi và chỉ ra vẻ đẹp giàu tính nhân văn
cũng như khát vọng lớn lao của nhân loại đưỢc thể hiện
sinh động ở hình tượng con chim bồ câu hoà bình do danh
họa Picatxô vẽ: "biểu hiện một cách rực rõ lòng tin mãnh
liệt... vào sự vươn tối hoà bình không gì có thể ngăn cản
nổi của nhân dân các dân tộc"^ Hơn nữa, Người còn khẳng
định phải ca ngỢi, đề cao, cổ vũ những tập th ể, cá nhân
anh hùng trong chiến đấu và sản xuất; những điển hình
tiên tiến, những "ngưòi tốt, việc tốt" trong đời sông của xã
hội ta hôm nay. Hồ Chí Minh cho rằng đó là những bông

hoa rất đẹp trong vườn hoa chung của dân tộc, từ đó
Người yêu cầu phải "Miêu tả cho hav, cho chân thật và cho
hùng hồn những người, những việc ấy, bằng văn, bằng
thô, bằng vẽ và bằng các nghệ thuật khác, v.v.."“'; "ca tụng
chân thật những người mói, việc mới chẳng những để làm
gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con
cháu ta đòi sau"®. Theo Người, đó là một trong những cách
tôt nhất để giáo dục thẩm mỹ cho quần chúng, nâng cao
sự hiểu biết của mỗi người Việt Nam về cái hay, cái đúng,
cái tốt, cái đẹp, cái anh hùng, qua đó định hướng, cổ vũ họ

1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 551-552, 553.
3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 388, 561, 646.

107


không ngừng vươn tới những giá trị cao cả của chân,
thiện, mỹ. Hồ Chí Minh viết: "Lấy gương tốt trong quần
chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau
còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần
chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn"‘; "làm
thế thì văn nghệ sĩ... có lực lượng mà giúp đỡ nhân dân
tiến bộ hơn nữa"^ trong nhận thức "đối với cái thiện, cái
mỹ, với hoà bình nhân loại".
-

Khuyến khích động viên, tạo điều kiện cho mỗi người

hướng tới cái tốt, cái đẹp, cái cao cả, đồng thời đấu tranh

không khoan nhượng với cái xấu xa, lạc hậu, ph ả n tiến bộ,
phi nhân văn:

Đôì với Hồ Chí Minh, xây dựng định hưống thẩm mỹ
đúng đắn cũng như bồi dưõng, nâng cao không ngừng
kiến thức mỹ học cho con người Việt Nam đều nhằm một
mục đích là hưống nhận thức và hành động của con người
Việt Nam tối cái hay, cái đẹp, cái đúng, cái cao cả, đồng
thòi kiên quyết đấu tranh chống lại những thói hư tật
xấu, những đồi phong, bại tục, những việc làm thấp hèn,
phản văn hoá, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của cách
mạng. Thông qua cuộc đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái tôt,
cái đẹp, chống lại cái sai, cái xấu, những việc làm thiếu
văn hoá, phi nhân tính để xây dựng môì quan hệ tôt đẹp

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l2, tr. 551,
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 325.

108


có giá trị thẩm mỹ cao trong quan hệ giữa con ngưòi với
con người, giữa cá nhân với cộng đồng trong xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này Hồ Chí Minh khẳng
định các báo chí phải khuyến khích ngưồi tôt, việc tối và
thẳng thắn phê bình những điểu xấu như; Lưòi biếng,
tham ô, lâng phí, quan liêu; "Đôi với những thói xấu đó,
văn nghệ cũng cần phải ph ê bỉnh rất nghiêm khắc, nhằm
làm cho xã hội ta ngày càng lành mạnh tôt đẹp hơn"\
Theo Hồ Chí Minh, ca ngợi, đề cao những việc làm giàu
tính thẩm mỹ hay phê phán nghiêm khắc những hành

động phản nhân văn suy cho cùng đều nhằm "làm cho
phần tốt trong mỗi con ngưòi nảy nở như hoa mùa xuân"^
và "tạo ra những cái mối mẻ, tôt tưdi"^ trong đòi sông mỗi
người và trong toàn xã hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng
để kh uyên k h ích , động viên, tạo điều k iện cho con ngưòi

hướng tới những giá trị cao đẹp của "chân", "thiện", "mỹ"
thì khi khen hay chê phải "chân thật", đúng mức mới có
tác dụng. Nếu "Khen quá lòi thì ngưòi được khen cũng hổ
ngươi. Mà chê quá đáng thì ngưòi bị chê cũng khó tiếp
thụ’'^ Theo Ngưòi, một tác phẩm thực sự có ý nghĩa thúc
đẩy con ngưòi vươn lên trong cuộc sông để tìm đến chân
lý, tìm đến cái đẹp, cái hay, cái cao cả, phải vừa quan

1. Hồ Chí Minh; Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 646.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t .] 2, tr. 558, 505.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10. tr. 646.

109


tâm đến "những mối lo âu suy nghĩ của nhân dân"', vừa
phải có nội dung phong phú, tư tưởng tôt và giá trị nghệ
thuật cao. Hồ Chí Minh viết: "Quần chúng mong muôn
những tác phẩm có nội d u n g chân thật và phong phú, có
hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muôn

xem, xem rồi thì có b ổ ích"^.
Có thể nói, phát triển, nâng cao trình độ và năng lực
thẩm mỹ của con ngưòi toàn diện Việt Nam là vấn đề mà

Hồ Chí Minh rất quan tâm. Với những tư tưởng, quan
điểm đúng đắn và biện pháp tích cực, Hồ Chí Minh đã góp
phần to lớn trong việc xây dựng cho con người toàn diện
Việt Nam những định hưống thẩm mỹ đúng đắn, phù hỢp,
cũng như những hiểu biết phong phú về cái hay, cái đẹp,
cái tôt, cái cao cả... Thông qua việc định hướng giá trị và
giáo dục thẩm mỹ đó, con người toàn diện Việt Nam đã có
nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái đúng, cái sai,
cái cao cả, cái thấp hèn... Từ đó nỗ lực vươn tới những giá
trị cao quý của chân, thiện, mỹ, góp phần hoàn thiện và
phát triển nhân cách của bản thân, đóng góp tích cực cho
sự phát triển của xã hội mới.

4. Phát triển về mặt đạo đức


«

Xây dựng và phát triển đạo đức là nhu cầu tất yếu,
k h á c h q u a n c ủ a bất cứ xã hội nào bởi đ â y là v ấ n để có ý

1. Hồ Chí Minh: Văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận, Nxb. Ván
học, 1981, tr. 515.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 646-647.

110


nghĩa vô cùng quan trọng trong đòi sốhg xã hội cũng như đòi
sông của mỗi cá nhân. Nó thể hiện một cách sâu sắc nhất

tính nhân văn, nhân đạo, nhân bản của mỗi xã hội và mỗi
con ngưòi. Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi con người được soi
sáng bởi một lý tưởng đạo đức tiến bộ, khi sự hiểu biết về cái
thiện, cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ
của họ càng được nâng cao thì hoạt động của họ càng hưống
tối phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng, qua đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển xã hội. Vì vậy, từ xưa tới nay, các giai
cấp, các dân tộc, các thủ lĩnh, các lãnh tụ... ở các thời đại đều
hết sức quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mỗi thành
viên trong cộng đồng, hưống họ tới những việc làm có ích cho
sự tồn tại và phát triển xã hội. Tuy nhiên, coi trọng đạo đức
đến đâu, chú trọng đến những nội dung nào của đạo đức, đề
cao những phạm trù nào, đặt đạo đức trên cơ sở thế giới
quan nào thì lại tuỳ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể và
lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn trong xã hội.
Tiếp nốì truyền thông coi trọng đạo đức của dân tộc
Việt Nam và tiếp thu những tinh hoa đạo đức nhân loại,
đồng thời căn cứ vào thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ Chí
Minh hết sức chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mối - đạo
đức cách mạng cho con người Việt Nam, nhằm phát triển
họ vể mặt đạo đức. Để thực hiện điều này, Người đã đề ra
và thực thi những chủ trương, biện pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao s ự hiểu biết về
đạo đức cách m ạng cho con người toàn diện.

Khi để cập đến đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường
111


sử dụng các thuật ngữ sau: "Đạo đức mới"’, "đạo đức cách

mạng"^; "đạo đức cộng sản"^; "đạo đức tập the"“*; "đạo đức
cách m ạng của giai cấp vô sản"®; "đạo đức vô sản"®.

Theo Hồ Chí Minh, gọi là "đạo đức mới" bởi vì "đạo đức
đó không phải là đạo đức thủ cựu"’, nó chưa hề xuất hiện
trong lịch sử mà chỉ hình thành và phát triển cùng vối
tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đạo đức mối khác hẳn vối
đạo đức cũ:
"Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên tròi. Đạo đức mới như ngưòi hai chân đứng vững
được dưối đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày
xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giò
làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyển lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm,
chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo
để lợi cho nước cho dân"®.
Gọi là "đạo đức cách mạng" vì đó là đạo đức phục
vụ cách mạng, đạo đức mà ngưòi cách mạng cần phải
có. Đó là đạo đức được nảy sinh và phát triển trong
cuộc đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ và
hy sinh của nhân dân ta. Đạo đức cách mạng "là tuyệt

1,
3,
5,
8.

112


2, 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.252.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr.679, 306.
6. Hồ Chí Minh; Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 375.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 320 - 321.


đôi tru n g thành với Đ ảng, với nhân dân''^\ "đặt lợi ích

của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết,
trước h êt"^ "có tinh thần hy sinh cho cách mạng, có
tinh thần trách nhiệm để vượt mọi khó k h ăn "^ trong
mọi công tác, xung phong đi trước làm trưốc để lôi kéo
quần chúng chứ không xa ròi quần chúng; "bất kỳ ở
cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sỢ
khó, không sỢ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích
chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích
xây dựng chủ nghĩa xã hội"^ Đạo đức cách m ạng là
"cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là "khiêm tôn,
cần cù, hăng hái, dũng cảm". Nói tóm tắ t, theo Ngưòi
đạo đức cách mạng là quyết tâm suô"t đòi đấu tran h cho
Đảng, cho cách mạng. Đôi vối Hồ Chí Minh, đạo đức
cách mạng là "đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người". Vì vậy, Ngưòi cho
rằn g bất kỳ ở cương vị nào, làm công việc gì đều phải
trau dồi đạo đức cách mạng; "có gì sung sưóng vẻ vang
hđii là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng
đáỉig vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải
phóng loài người".


1. Hồ Chí Minh:

Toàntập, Sđd, t. 9, tr. 285.

2. Hồ Chí Minh:

Toàntập, Sđd, t. 12, tr. 439.

3. Hổ Chí Minh:

Toàntập, Sđd, t.7, tr. 233.

4. Hồ Chí Minh:

Toàntập, Sđd, t. 10, tr. 306.

113


Theo Hồ Chí Minh, để nâng cao sự hiểu biết cho con
ngưòi toàn diện về đạo đức cách mạng, trưóc hết cần phải
làm cho họ hiểu sâu sắc vai trò cực kỳ quan trọng của đạo
đức trong nhân cách cũng như trong hoạt động thực tiễn

của người cách mạng. Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh
Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định đạo đức là
"gốc" là cái "căn bản" của ngưòi cách mạng, bởi theo Người:
"Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mói
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm
vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài,

gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách m ạng làm nền tảng,
mói hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"\
"Cũng như sông thì có nguồn mối c6 nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gôc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân. Vì muôn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài
người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì
còn làm nổi việc gì?"^.
Hồ Chí Minh cho rằng, việc nhận thức đúng đắn và
đầy đủ vai trò to lón của đạo đức trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách cũng như ý nghĩa sâu sắc

1. Hồ Chí Minh; Toàn Tập, Sđd, t.9, tr. 283.
2. Hồ Chí Minh: Toán tập, Sđd, t. 5, tr. 252-253.

114


của nó trong việc định hướng giá trị cho hoạt động của con
người Việt Nam trong thòi đại cách mạng mối là tiền để cơ
bản để mỗi người Việt Nam tự giác học tập, rèn luyện, tu
dưỡng và không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng nhằm
công hiến ngày càng nhiều hơn sức lực, trí tuệ cho sự phát
triển của đất nước và thắng lợi của cách mạng nước ta.
Gíóo dục, bồi dưỡng tri thức đạo đức cách mạng cho con
người là biện pháp vô cùng quan trọng mà Hồ Chí Minh rất


quan tâm để phát triển con người về đạo đức. Nội dung đạo
đức cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh có nhiều vấn
đề với những tri thức rất phong phú. Để không ngừng nâng
cao sự hiểu biết và phát triển nhận thức của con người Việt
Nam về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh tập trung bồi dưõng
những kiến thức về thiện - ác; trung - hiếu; về cần kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, về đấu tranh chông chủ nghĩa cá nhân...
Thiện và ác là hai phạm trù cơ bản trong đạo đức học
dùng để đánh giá đạo đức và hành vi con người. Thiện là
sự đánh giá khẳng định đôi với hành vi phù hỢp vối
nguyên tắc và quy phạm đạo đức của một xã hội hay một
giai cấp nhất định. Ác là sự đánh giá phủ định đối với
những hành vi trái vối nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của
một xã hội hay một giai cấp nào đó đặt ra. Hồ Chí Minh
cho rằng, con ngưòi ai cũng cần phải hiểu được thế nào là
thiện, là ác để biết hướng tới cái thiện, cái tôt, từ bỏ cái ác,
không làm điểu xấu. Đó là vấn để rất có ý nghĩa trong
nhận thức và hành động của mỗi con người. Vì vậy, sinh
thòi, Người luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao sự
115


hiểu biết cho nhân dân ta về "cái thiện", "cái ác" với một
quan điểm mối, mang tính cách mạng sâu sắc.
Theo Hồ Chí Minh, "Trong xã hội có THIỆN và cũng có
ÁC"^; "trong bản thân và tư tưởng của mỗi một ngưòi cũng có
THIỆN và có ÁC"^; ''thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã
hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân"^; "Nhà nưốc xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân
dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trưốc hết là nhân dân lao

động, ngày càng tiến bộ vể vật chất và tinh thần, làm cho
trong xã hội không có ngưòi bóc lột người. Thế là THIỆN"'';
"Nói về mỗi một người chúng ta, nếu hết lòng hết sức phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thế là THIỆN"®; "Tư bản, đế
quốc và phong kiến chỉ lo bóc lột nhân dân, thậm chí gây
chiến tranh giết hại nhân dân, để làm lợi cho một nhóm ít
người. Thế là ÁC"®; "Nếu chỉ lo cho lợi ích riêng của mình,
không lo đến lợi ích chung của nưốc nhà, của dân tộc, thế là
ÁC"^; "Thực hành chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, thê là
THIỆN. Nếu phạm phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười
biếng, thế là ÁC"®. Người cho rằng: "THIỆN và

Ác

là hai cái

mâu thuẫn, luôn luôn đấu tranh gay gắt vối nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phải trưòng kỳ và gian khổ, nhưng cuối cùng thì
ÁC nhất định bại, THIỆN nhất định thắng"®. Đó là định
hưống tư tưởng hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh, giúp
cho mỗi ngưòi Việt Nam hiểu rõ đưẹte cái thiện, cái ác trong
thời đại cách mạng mới, vững tin vào chiến thắng của cái
thiện, cái tốt đổi vối cái ác, cái xấu xa cũng như vào thắng lợi

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Hồ Chí Minh:

116

Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 276, 277.



cuối cùng của sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của
dân tộc. Từ đó tích cực vươn lên rèn luyện, tu dưỡng "làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần
ác"' góp phần hoàn thiện và phát triển đạo đức của con
ngoíời toàn diện Việt Nam.
Cùng với giáo dục tri thức về thiện và ác, Hồ Chí Minh
cũng rất chú trọng bồi dưỡng và nâng cao sự hiểu biết cho
con người Việt Nam về cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công
vô tư. Có thể nói, các thuật ngữ này đối vối mỗi người Việt
Nam không xa lạ vì nó đã tồn tại khá phổ biến ở xã hội
Việt Nam trong suô"t mấy trăm năm qua, song hiểu cho
đùng và làm cho tôt vấn đề này không phải dễ, bởi nó phụ
thuộc rất nhiều vào bản chất chế độ xã hội cũng như lý
tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức của mỗi thành viên
trong cộng đồng - nhất là những ngưòi tham gia bộ máy
chính quyển các cấp.
Hồ Chí Minh cho rằng dưới chê độ phong kiến trước
đây, giai cấp phong kiến nêu ra điều đó "nhưng không bao
giò làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng"^. Còn trong xã hội ta việc nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là "cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân"^.
"Cần, kiệm, liêm, chính" là cụm khái niệm chỉ những
đũc tính cần thiết của những người có trách nhiệm ở các
thời kỳ lịch sử. Ban đầu chúng thuộc phạm trù luân lý,

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 558.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 321.


117


đạo đức của Nho giáo. Qua chiều dài lịch sử, nó đã có chỗ
đứng nhất định trong tư tưởng và tâm lý của nhân dân
Việt Nam. Đến Hồ Chí Minh, Người đã đổi mới, bổ sung
thêm nội dung và mở rộng thêm đối tưỢng thực hiện, dùng
vào việc dạy cán bộ và nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, đây là bốn đức tính căn bản nhất
của đạo đức con người. "Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố
gắng, dẻo dai"; "Cần, tức là tăng năng suất trong công tác,
bất kỳ công tác gì"^; "Chữ cần có hai ý nghĩa: một ý nghĩa
là làm việc phải cần cù siêng năng; chớ lười biếng; chớ ăn
thật làm dốĩ. Một ý nghĩa nữa là phải tìm mọi cách để ít
ngưòi mà làm được nhiều việc"^.
Hồ Chí Minh cũng lưu ý, cần phải đi đôi vối chuyên.
"Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu
một ngày cần mà mười ngày không cần, thì cũng vô ích''®,
cần muốn đạt đưỢc kết quả tôt "phải có k ế hoạch cho mọi
công việc, nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn
gàng"“, "phải phân công cho khéo"®. Hơn nữa, phải hiểu cần
cho đúng "Cần không phải là làm xổi. Nếu làm cố' chết cố
sông trong một ngày, một tuần, hay một tháng đến nỗi sinh
ốm đau, phải bỏ việc. Như vậy không phải là cần"® mà "Phải
biết nuôi dưõng tinh thần và lực lương của mình, để làm việc
cho lâu dài"’.
Kiệm trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là "tiết
kiệm, không xa xỉ, không phung phí, không bừa bãi"®;

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 392.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t . l l , tr. 29.
3. 4, 5, 6, 7, 8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 633, 632,
634, 636.

118


"là thi đua tiết kiệm, không lãng phí, quý trọng của
công"‘; là "không lãng phí thì giờ, của cải của mình và
của nhân dân"^
Hồ Chí Minh cho rằng, kiệm không phải là bủn xỉn,
mà phải dùng tiền bạc, sức lực, vật tư... cho đúng đắn,
phù hỢp. Những việc đem lợi ích cho dân, cho nước thì dù

tốn kém cũng phải làm và làm cho tốt. Người dạy mọi
người cách nhìn, cách hiểu đúng đắn về tiết kiệm: "Khi
không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu.
Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ
quốc, thì dù bao nhiêu công, tốh bao nhiêu của, cũng vui
lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không
tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm"^. Tiết kiệm phải
gắn với tăng gia sản xuất bởi "Tiết kiệm mà không tăng
gia thì lấy gì mà tiết kiệm? Mục đích tiết kiệm không phải
là bớt án, mà là thêm ăn, làm cho bộ đội no'"*. Muốn tiết
kiệm thòi giờ, tiền bạc, sức lực thì mọi công việc "phải sắp
xếp cho gọn gàng, hỢp lý, mọi người đều có công việc thiết
thực"® và phải luôn gắn với cần cù, siêng năng, bỏi theo
Người "Kiệm mà không

cần


thì cũng vô ích"®. Hơn nữa,

Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, cùng vói việc thực hiện cần,
kiệm phải ra sức đấu tranh chông tham ô, lãng phí, quan

1,
2.
3.
4,
6.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 425.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 392.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 637, 640, 643.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 513, 490.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 549.

119


liêu vì đó "là kẻ thù khá nguy hiểm"; "là bạn đồng m inh
của thực dân và phong kiến"; nó "làm hỏng tinh thần
trong sạch"; "làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến
quốc"; "phá hoại đạo đức cách mạng của ta"’.
Nâng cao hiểu biết về "liêm, chính" cũng là một
nội dung quan trọng trong giáo dục tri thức đạo đức
cách mạng của Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam.
Theo Ịiồ Chí Minh ''Liêm là trong sạch"^; ''Liêm tức là
không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công

và của nhân dân"^ Người cho rằng nếu như dưới chế
độ phong kiến trước đây chữ liêm chỉ được dùng theo
nghĩa hẹp để chỉ "những người làm quan không đục
khoét dân, thì gọi là LIÊM"'’ còn trong chế độ mới của
chúng ta "chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi ngưòi
đều phải LIÊM"®.
Hồ Chí Minh quan niệm vể "chính": "Chính n gh ĩa
là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà"^; "là việc phải
thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh"®;
"người làm việc công, phải có công tâm , công đức. Chớ
đem của công dùng vào việc tư. Chố đem người tư làm
việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực,
không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán"®, c ầ n ,

1,
2,
3,
9.

120

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 490.
4, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh: Toán tập, Sđd, t.5, tr. 637, 640, 643.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 392.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 105.


kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Như một cái cây cần có
gốc rễ lại cần có nhánh, lá, hoa, quả mới hoàn toàn,

một người cần, kiệm, liêm nhưng cũng cần phải có
chính mới là người hoàn toàn. Đó là tư tưởng nhất
quán của Hồ Chí Minh về đạo đức.
Hồ Chí Minh xem "chí công vô tư" là một trong những
nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng, do đó người cách
mạng phải hiểu để thực hiện cho tốt. "Chí công, vô tư" là
"ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị và
công danh phú quý. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"'; "Lòng
mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ
tiến đến chỗ chí công vô tư"^; "phải đặt quyền lợi của dân
trên hết thảy"’; "Phải để công việc nưóc lên trên, trước việc
tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ
được, cho đến nơi đến chốn, không sỢ khó nhọc, không sỢ
nguy hiểm"^
Người cho rằng, một số cán bộ, đảng viên sở dĩ còn
mắc những khuyết điểm, sa vào chủ nghĩa cá nhân là do
chưa nắm vững và thực hiện đúng chí công, vô tư. Hồ Chí
Minh viết: "Trong Đảng ta còn có những ngưồi chưa học
được, chưa làm đưỢc bô"n chữ "chí công vô tư", cho nên
mắc phải chủ nghĩa cá nhân"^. Vì vậy, giáo dục, nâng cao

1. Hồ Chí Minh: Ví' độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự
thật. Hà Nội, 1970, tr. 92.
2. 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 251, 645, 254.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 48.

121




×