Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

tu tuong ho chi minh ve phat trien con nguoi toan dien p1 1786

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 20 trang )

TS. NGUYỄN HỮU CÔNG

W TựỞNG
HỔ CHÍ MINH


PHÁT TRIỀN CON N6VÒI

NHÀ XUẤT BẦN CHÍNH TRI QUốC GIA



Tư TựỞNG
HỒ CHÍ MINH
VỀ

PHÁT TRIỂN CON NGVỜI
TOÀN DIỆN


... M ã so:

3K 5H 6
2010


TS. NGUYỄN HỮU CÔNG

Tư TỰỞNG
HỒ CHÍ MINH



PHÁT TRIỂN CON NGVỜI
TOAN DIEN

NHÀ XUẤT BẦN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HÀ NÔI -2 0 1 0



LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Năm 1987, Tổ chức Ván hoá, giáo dục và khoa học của Liên
hợp quốc (UNESCO) đã quyết định tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất”.
Người đã công hiến trọn đòi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đâu tranh chung
của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ soi đưòng,
chỉ lôi cho cách mạng Việt Nam trong các thòi kỳ đã qua mà còn
là ngọn đuô"c dẫn dắt dân tộc ta đi tói mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ những di sản to
lớn, vô giá mà Người đã để lại cho dân tộc ta và nhân loại. Có
thể nói, mỗi chặng đưòng mà cách mạng Việt Nam.đã trải qua
đều gắn liền với sự nghiệp và sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tháng 6-1991, tại Đại hội lần thứ VII, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định; Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho

hành động của Đảng và dân tộc to.
Trong hệ thông quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh thì tư

tưởng về phát triển con ngưòi toàn diện là một nội dung quan
trọng có ý nghĩa ]ý luận và thực tiễn sâu sắc. Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng, đào tạo, rèn luyện con ngưòi trên cả hai mặt


đạo đức và tài nàng. Con ngưòi phát triển cao về trí tuệ, có đạo
đức trong sáng, có lý tưỏng, quan điểm sông đúng đắn, tích cực,
có sức khoẻ dồi dào... là nhấn tố quyết định sự thành bại của một
quôc gia, dân tộc.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang được đắy
mạnh, khi những chuyển biến trên thế giới ngày càng nhanh
chóng và phức tạp, những vấn đề mới đặt ra trong đòi sông xã
hội ngày càng nhiều, đòi hỏi con người phải sáng suốt, có bản
lĩnh để vượt qua, thì việc nghiên cứu, bảo vệ, vận dụng và phat
triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người toàn diện nói riêng vào thực tế cuộc sông
trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác chính
trị, tư tương, lý luận của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Để thiết thực kỷ niệm 65 nàm Cách mạng Tháng Tám
thành công và Quốc khánh 2-9, Nhà xuất bản Chính trị quôc gia
xu ất bản cuôn sách T ư tưởng H ồ Chí M inh về phát triển con
người toàn diện của TS. Nguyễn Hữu Công. Cuốn sách đã đi sâu
phân tích cơ sở lý luận; những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con ngưòi toàn diện. Đồng thòi, cuôn
sách còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xin trân trọng giới thiệu cuôn sách cùng bạn đọc.
T háng 7 năm 2 0 lồ

NHÀ XUẤT BẨN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA


6


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho
tàng lịch sử tư tưởng Việt Nam, Đó là tư tưởng của
người “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà vãn hoá kiệt
xuất", người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng
dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và
cách mạng Việt Nam.
Cùng

VỐ I

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.
Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn nữa tính cách mạng
và tính khoa học cũng như giá trị to lốn, nhiều mặt của tư
tưởng Hồ Chí Minh đô: với cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới đã, đang và sẽ được tiếp tục nghiên cứu.
Lương tâm, trách nhiệm, lòng kính yêu lãnh tụ và
tinh thần khoa học đã và đang cuốn hút nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước say mê nghiên cứu tư tưởng
HỒ Chí Minh.
Trong di sản tư tưởng phong phú và vô giá của Hồ
Chí Minh có tư tưởng phát triển con ngưòi toàn diện 7



một tư tưởng nhân văn rất đặc sắc. Đây là sự tiếp nôi và
nâng cao những giá trị tinh tuý nhâ't tư tưởng nhân văn
của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây cũng là sự
kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng con người của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh đã góp phần to lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt
Nam những người con ưu tú, đủ sức đưa dân tộc Việt Nam
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo, liên
tục giành được những thắng lợi ngày càng to lớn, làm thay
đổi tận gốic địa vị của dân tộc Việt Nam trên chính trường
thế giới.
Thực tế vinh quang đó đến nay đang được nghiên cứu
và tổng kết.
Hồ Chí Minh là bậc "Đại trí, đại nhân, đại dũng", là
điển hình của con người phát triển toàn diện về thể lực,
đạo đức, trí tuệ, tài năng, là hình mẫu sinh động con
người của hiện tại và của tương lai. Cho nên, nghiên cứu,
giói thiệu, phổ biến tư tưởng phát triển con người toàn
diện của Hồ Chí Minh không chỉ cần thiết về lý luận mà
còn nhằm làm cho mọi ngưòi hiểu và tiếp thu tư tưởng
quan trọng này của Người, trên cơ sở đó noi gương Người,
phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản thân mình, tạo tiền để
cho sự phát triển xã hội.
Hiện nay, việc giải quyết mổì quan hệ giữa vấn đề dạy
"chữ", dạy "nghề", dạy "người" trong giáo dục ở nhà
trường, gia đình, xã hội đang có sự lệch lạc khá lốn. Hầu
8



hết chỉ ehú trọng đến trang bị kiến thức khoa học, chuyên
môn nghề nghiệp mà coi nhẹ việc giáo dục đạo lý làm
ngưòi, trách nhiệm công dân. Điều này đang làm méo mó
sự phát triển toàn diện nhân cách của một bộ phận không
nhỏ thanh, thiếu mên cũng như cán bộ, đảng viên và nhân
dân, ảnh hưởng không tôt đến sự phát triển xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu tư tưởng phát triển con ngưòi toàn diện
của Hồ Chí Minh là cần thiết để tìm ra những định hưóng
đúng đắn cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, phát triển con
người Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện hoá
đất nước.
Sự nghiệp đôi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam đang đi vào chiều sâu. Nhiều vấn đề về lý
luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi các nhà
khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau phải nghiên cứu
và giải quyết, trong đó có vấn để thiết kế và xây dựng
chiến lược về con ngưòi th ậ t sự khoa học, phù hỢp với

hoàn cảnh nưốc ta, nhằm phục vụ cho việc phát triển
nhanh và bền vững của đất nưóc. Đây là công việc rất
khó khăn, phức tạp, muôn hoàn thành được, trưóc hết
phải có những định hướng đúng. Trong thực tế, tư tưởng
phát tnển con ngưòi toàn diện của Hồ Chí Minh đã, đang
và sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu, sáng suôt để
xây dựng thành công chiến lược con ngưòi trong điều
kiện mới, nhằm đào tạo cho đât nước những con ngươi
mới, có đủ tài năng, đạo đức, sức khoẻ, đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội.

9


Vì vậy, nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị khoa học và ý
nghĩa của tư tưởng phát triển con ngưòi toàn diện của Hồ
Chí Minh, tìm ra những cách thức, biện pháp đúng đắn để
thực hiện tôt hơn tư tưởng đó trong thực tiễn là vấn đề có
ý nghía thòi sự câ"p bách.

10


CHUONG I

Off S0 LÝ LUẬN CỦA TưrưỞNG HO CHf MINH
VỂ PHÁT TRIỂN CON NGƯỬITOÀN DIỆN
m

I- TƯTƯỞNG G1Á0 DỤC, ĐÀO TẠO,
PHÁT TRIỂN CON NGƯÒ1 CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM CỘ1 NGUỖN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỂ PHÁT TRIỂN (X)N NGƯỜI TOÀN DIỆN
Trong những dòng chảy hỢp thành của lịch sử tư
tưởng Việt Nam, tư tưởng đào tạo phát triển con người là
một bộ phận quan trọng, góp phần làm nên giá trị to lớn,
nhiều mặt của tư tưởng truyền thông Việt Nam. Có thể
nói, từ rất sốm, cha ông ta đã hết sức quan tâm đến vấn
đề sống còn này của đất nước. Trải qua bao thăng trầm
của lịch sử, bao sự hưng vong của các triều đại, tư tưởng
về đào tạo, rèn đức con người của dân tộc Việt Nam đã để
lại những giá trị to lớn, đồng thời cũng bộc lộ những hạn

chế của nó cần phải khắc phục.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở cửa ngõ Đông Nam
châu Á, khí hậu khắc nghiệt, nóng lắm, mưu nhiều, bão
lớn, Đó là một môi trường sông khó khăn, thiên tai thường
11


xuyên đe doạ sự tổn vong của cả cộng đồng cũng như mỗi cá
nhân. Điều này đặt ra nhu cầu khách quan cần phải rèn
luyện thân thể, phát triển thể lực đốì với mọi người cũng
như yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của cả cộng đồng.
Trong quá trinh tồn tại và phát triển của mình, do ở
vị trí trấn giữ con đưồng quan trọng và thuận lợi bậc nhất
vào Đông Nam Á (cả đường bộ và đường biển), lại ỏ cạnh
một quốc gia rộng lốn, luôn có tham vọng bành trướng
xuông phía Nam, dân tộc ta phải luôn luôn đưđng đầu vối
các cuộc xâm lược lổn đến từ phương Bắc và phương Tây.
Đặc điểm đó đòi hỏi con ngưòi Việt Nam phải luôn cảnh
giác, phải quan tâm đến rèn luyện sức khoẻ, võ nghệ, kỹ
năng chiến đấu, đặc biệt là tinh thần sẵn sàng hy sinh để
bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức, nghĩa vụ,
trách nhiệm, đạo làm người được cha ông ta hết sức coi
trọng. Hơn nữa, điểu kiện kinh tế còn thấp kém, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho
chiến đấu còn kém tinh xảo, nên các yếu tố thuộc về năng
lực tinh thần đưỢc đề cao và chiếm vị trí quan trọng bậc
nhất trong nội dung đào tạo và phát triển con người của
cha ông ta. Cũng do nằm ở vỊ trí gặp gỡ, giao thoa của các
nền văn hoá lốn: văn hoá Ân Độ, văn hoá Trung Hoa và
sau này là văn hoá Pháp, nên đời sống tinh thần, tư
tưởng chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo

giáo và Kitô giáo. Trong lĩnh vực đào tạo, phát triển con
ngưòi cho chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo có ưu
thế hơn các tôn giáo khác, bởi nó có một hệ thống phạm
12


trù, khái niệm khá hoàn chỉnh để giáo dục, đào tạo, phát
triển con ngưòi với nội dung khá sâu sắc. Hơn nữa, Nho
giáo còn xây dựng được mẫu ngưòi lý tưởng cho xã hội
phong kiến đó là những ngưòi "quân tử", những "kẻ sĩ",
những "đại trượng phu" mà ở họ các năng lực, phẩm chất
về mặt tinh thần được coi trọng và đề cao. Điều này khá
phù hỢp với điều kiện kinh tế, xã hội cũng như tư tưởng,

tâm lý của dân tộc Việt Nam vôVi đề cao đạo làm ngưòi,
tôn vinh tinh thần xả thân vì Tổ quốc và nhân dân của
các thành viên trong cộng đồng. Nho giáo còn đề ra những
phướng sách cụ thể để đào tạo phát triển con người, trong
đó nhâ^n mạnh yếu tô" tự giác "tu thân" của các cá nhân,
đề cao tính chủ động của con ngưòi trước hoàn cảnh. Đó là
điều đáng ghi nhận trong lý luận giáo dục, đào tạo, phát
triển con ngưòi.
Nảy sinh và phát triển trên mảnh đất hiện thực đó
đồng thòi bị quy định bởi những điều kiện mang tính
khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển
đât nước, tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con ngưòi
của dân tộc Việt Nam đã góp phần quan trọng đào tạo cho
đât nước, cho các triều đại phong kiến Việt Nam không ít
những ngưòi "văn võ song toàn", những ngưòi "hiền tài",
những anh hùng dân tộc, có đóng góp lớn cho sự nghiệp

bảo vệ và phát triển đất nước, làm rạng danh dân tộc,
dòng họ và gia đình, để lại tấm gương muôn đồi vể lòng
yêu nước, thương ngưòi, vê tinh thần kiên cường, bất
khuất, sự mưu trí, dũng cảm. tinh thần quên mình vì dân
13


vì nưốc như: Hai Bà Trưng. Bà Triệu, Ngô Quyển, Đinh
Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Lý Công u ẩ n , Lý Thường Kiệt,
Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu... Họ là niềm tự hào của dân tộc.

1.
Nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người
của cha ông ta trong lịch sử
Nghiên cứu triết lý, nội dung giáo dục, đào tạo, phát
triển con người của ông cha ta trong suốt chiều dài lịch sử,
chúng ta thấy những điểm đáng chú ý sau;
T h ứ nhất, tuy sông tro n g chế độ phong kiến, bị giói

hạn bởi điều kiện kinh tế - xã hội của một nước phương
Đông, của phương thức sản xuất châu Á, đồng thời lại chịu
ảnh hưởng của thế giới quan Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo... Song, cha ông ta cũng có cách nhìn biện chứng - dù
còn ở trình độ chất phác, thô sơ, cảm tính về nguồn gô"c,
bản chất con người cũng như quá trình vận động và phát
triển của nó. Trong Khóa h ư lục, Trần Thái Tông cho rằng
mọi ngưòi đều do tạo hóa sinh thành cũng như muôn vật,
con người có nguồn gốc từ tự nhiên "do mặt trời chiếu mà

thánh chúa giáng sinh, hoặc từ sao vương mà hiền thần
xuâ't hiện". Hải ThưỢng Lãn ông Lê Hữu Trác cũng nêu
rõ: nguồn gốc con người không phải từ thế giới bên ngoài
chúng ta, mà chính là bên trong thế giới, con ngưòi là một
bộ phận của giới tự nhiên. Cũng giống như các sinh vật
khác, con người xuất hiện không phải do thần thánh,
14


tìhượng đế sáng tạo ra. Nó là kết quả tiến hóa tất nhiên từ
thê giới của những "loài vô tình" sang thế giới của những
"loài hữu tình"; "cái vô tình nảy sinh ra cái hữu tình".
Khi bàn về vân đề nguồn gốc, bản chất con người, cha
ông ta thường hay dùng khái niệm "tính người", "bản tính
c>on người" và nhấn mạnh vai trò chủ thể quyết định của
Cion người trong quan hệ vối tự nhiên: "người ta là hoa của
đất"; "một mặt người bằng mưòi mặt của"; "nhân định
tlhắng thiên"; “đức năng thắng sô""...
Nhìn chung, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của truyền
thống văn hóa dân tộc, do gắn ch ặt với thực tiễn chiến
đấu, sản xuất hàng ngày của nhân dân lao động nên
khi nhìn nhận nguồn gốc, bản chất con người, tư duy
củ a cha ông ta trong vấn để này ít duy tâm , thần bí,
c ác yếu tố siêu nhiên cũng không sâu đậm như trong
Nho, Phật, Lão.
Việc nhận thức đúng đắn nguồn gốc và bản chất con
rugưòi là điều kiện, là tiền để hết sức quan trọng để đề ra
nihững nội dung và phương sách thích hỢp, giáo dục, đào
tạo, phát triển con người có hiệu quả nhằm hoàn thiện và
niâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt của mỗi cá

ruhân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển
đĩất nước.
Thứ hai, lý luận vê giáo dục, đào tạo, phát triển con

rngưòi của dân tộc Việt Nam được thể hiện qua triết lý và nội
dlung giáo dục, đào tạo cũng như mẫu người lý tưởng mà giai
C iấ p

phong kiến Việt Nam nêu lên, định hướng cho việc xây
15


dựng và phát triển con ngưòi ở nước ta trong suôt một ngàn
năm qua.
Một trong những nội dung quan trọng của tư tưởng
giáo dục, đào tạo, phát triển con ngưòi mà cha ông ta hết
sức chú trọng đó là giáo dục, bồi dưdng đạo lý làm người.
Con ngưòi với tư cách là chủ thể của xã hội bao giò cũng là
tác nhân quan trọng nhất của mọi sự vận động và biến đổi
xã hội. Hành động của con ngưòi trong xã hội không chỉ bị
chi phôi bởi điều kiện khách quan mà còn chịu sự tác động
rất lốn của nhân tô" chủ quan như lý tưởng, quan điểm
sống, trình độ hiểu biết, năng lực thực tiễn, như cầu, lợi
ích.... Vì vậy, để có những con ngưòi sẵn sàng xả thân vì
quê hương, đâ"t nước, vì cuộc sông yên bình của nhân dân,
vì tương lai tươi sáng của dân tộc, sông trung thực, nhân
nghĩa, thuỷ chung, có ý chí, năng lực làm những việc "ích
quốc, lợi dân" thì gia đình, nhà trường và xã hội phải quan

tâm giáo dục con ngưòi về mọi mặt. Con ngưòi khi đã ý

thức được vai trò, trách nhiệm của mình đốì với cộng đồng,
gia đình, a n h em , bè b ạ n ..., họ sẽ tự nguyện, tự g iác đứng

ra gánh vác những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ mà Tổ
quốc và nhân dân giao phó, không tính toán "được", "mất",
"thiệt", "hơn" thậm chí cả sự hy sinh của bản thân.
Nội dung giáo dục, bồi dưõng đạo lý làm ngưòi của ông
cha ta là sự kết hỢp những giá trị ván hóa, dân tộc như:
"thương người như thể thương thân", "bầu ơi thương lấy bí
cùng", "lá lành đùm lá rách", "uông nước nhớ nguồn", "ăn
quả nhớ kẻ trồng cây"; là nhân nghĩa, thuỷ chung, son sắt;
16


là tinh thần đoàn kết để vượt qua những khó khăn, thử
thách "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên
hòn núi cao"; là tinh thần kiên cưòng, bất khuất, "chết
vinh còn hơn sông nhục"... với những tư tưởng "từ bi, hỷ
xả", "cứu khổ, cứu nạn" của Phật giáo; "vô vi" của Lão
giáo; "tam cương, ngũ thưòng", "nhân nghĩa", "cần, kiệm,
liêm, chính", "tứ đức"... của Nho giáo. Tất cả hỢp quyện lại

tạo thành những nội dung cơ bản để giáo dục, bồi dưõng lẽ
sông, niểm tin, cách xử thế cho các thê hệ ngưòi Việt Nam.
Trong nội dung giáo dục đạo làm người, cha ông ta hết sức
coi trọng những nội dung sau:
Giáo dục con người giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
trung

hiêu


VỚI

ái quỏc :

"Trung" là khái niệm của Nho giáo, phản ánh một
trong ba môi quan hệ rưòng cột của xã hội phong kiến
(tam cương), đó là quan hệ vua - tôi, quan hệ có tính chất
phụ thuộc, tôi phải phục tùng vua không điều kiện, thậm
chí vua bảo chết cũng không được chôi từ.
Chữ "hiếu" đối vối Nho giáo cũng rất quan trọng. Nó
được coi là nền tảng triết lý, là điều bất khả xâm phạm
trong quan hệ của con cái với cha mẹ. Con có hiếu với cha
mẹ, em kính nể anh chị đ-ược coi là đức tính quý báu, là
tình cảm tâ't yếu, tự nhiên của con ngưòi. Chữ hiếu đi liền
với chữ trung. Chữ tình phải nhẹ hơn chữ hiếu. Mặc dù
đạo hiếu trong xã hội phong kiến rất khắt khe, có phần
độc đoán, song nó củng có điểm đáng trân trọng, giữ gìn,
kế thừa và nâng cao.
17


Trong quá trình dùng Nho giáo làm ý thức hệ tư tưởng
chính trị của xã hội Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã lấy khái niệm "trung", "hiếu" làm trụ cột để xây
dựng mỐì quan hệ "quân - thần", "phụ - tử". Đây cũng là
nội dung quan trọng trong giáo dục, đào tạo dưới chế độ
phong kiến Việt Nam. Dù không còn khắc nghiệt như
trong xã hội phong kiến Trung Hoa, do bị khúc xạ bởi tâm
lý, tư tưởng, truyền thống chính trị của nhân dân Việt

Nam, song, khái niệm "trung", "hiếu" vẫn cột chặt suy
nghĩ và hành động của xã hội, của con ngưòi vối vua chúa,
với đấng sinh thành, tạo nên một tâm lý và phương cách
xử sự có lợi cho việc duy trì, củng cố chế độ phong kiến nói
chung và quyển lực của các vị vua chúa cũng như của
những người đứng đầu trong gia đình nói riêng. Vì thế,
"trung", "hiếu" là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu
mà các triều đại phong kiến nêu ra khi tuyển chọn nhân
tài, tuyển dụng các tầng lốp quan lại cũng là nội dung chủ
yếu để giáo dục, đào tạo các nho sinh. Hội thể đền Đồng
CỔ (4-4 âm lịch) hàng năm của các quan lại thời Lý - Trần
đã ghi; "Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, ai trái lòi thề
thần linh giết chết".
Cùng với việc giáo dục "trung quân", "hiếu nghĩa",
cha ông ta cũng hết sức coi trọng giáo dục, bồi dưdng
lòng yêu nước cho mỗi ngưòi Việt Nam. Có thể nói, yêu

nưốc là giá trị hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của
truyền thống dân tộc Việt Nam. Chưa bao giò trong lịch
sử Việt Nam, những kẻ phản bội Tổ quốc được coi là
18



×