Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1
PHẦN I
KHÁI QUÁT KINH TẾ-XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1986...............2
PHẦN II
KINH TẾ-XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1986 ĐẾN
NAY............................................................................................................................. 6
PHẦN III SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI KỲ THỐNG
NHẤT 1975 ĐẾN NAY............................................................................................13
I. VĂN HÓA VẬT CHẤT.................................................................................13
1. Văn hóa ẩm thực.........................................................................................13
2. Văn hóa trang phục.....................................................................................20
3. Văn hóa cư trú.............................................................................................27
4. Văn hóa giao thông.....................................................................................28
IV. VĂN HÓA TINH THẦN.............................................................................33
1. Phong tục....................................................................................................33
1.1 Phong tục hôn nhân............................................................................33
1.2 Phong tục tang ma..............................................................................37
2. Tín ngưỡng..................................................................................................38
3. Tôn giáo......................................................................................................40
4. Lễ Tết và Lễ hội..........................................................................................42
4.1 Lễ Tết.................................................................................................42
4.2 Lễ hội..................................................................................................46
5. Văn hóa nghệ thuật......................................................................................50
5.1 Nghệ thuật ngôn từ.............................................................................50
5.2 Nghệ thuật diễn xướng........................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
56
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1975-1986 hay còn gọi là “Thời Kỳ Bao
Cấp” là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống
nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này. Thời bao
cấp, với cách gọi nôm na trong người dân là “thời đặt gạch xếp hàng”, diễn ra từ năm
1957 tại miền Bắc, tới sau 4/1975 thì triển khai trên toàn quốc, mãi tới 4/1989 mới
thực sự kết thúc. Đây là một giai đoạn mà hầu hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền
kinh tế kế hoạch hóa do nhà nước kiểm soát, một đặc điểm của nền kinh tế theo Xã hội
chủ nghĩa (XHCN), không chấp nhận kinh doanh tự do.
Trải qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình
kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần
thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Chính sự biến động của lịch sử trong suốt hơn 40 năm qua mà văn hóa của đất
nước Việt Nam đã không ngừng thay đổi, một phần bị mai một, mặt khác lại đang hòa
nhập với văn hóa trên toàn tế giới phù hợp với bối cảnh kính tế-xã hội.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, nhóm chúng tôi không tránh khỏi nhứng sai
sót. Rất mong nhận được sự góp ý từ Giảng viên hướng dẫn và các bạn.
Chân thành cảm ơn!
NHÓM 11
1
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
PHẦN I
KHÁI QUÁT KINH TẾ-XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1986
I. NỀN KINH TẾ BAO CẤP
Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975) và đất nước
thống nhất (năm 1976), bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều
không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %)
trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra
gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá
cả tăng hàng năm 20%, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn
đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu
trầm
trọng.
Bởi vì lúc đó cả nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, nền kinh tế bị kiệt quệ với rất
nhiều cơ sở vật chất bị tàn phá. Từ đường xá giao thông đến các nhà máy xí nghiệp ở
phía Bắc đến đồng ruộng phía Nam rất nhiều nơi không canh tác được. Bom đạn và cả
chất độc hóa học đã trút xuống rất nhiều trong cuộc chiến.
Nền kinh tế Việt Nam vốn dựa vào nông nghiệp và ngay bản thân nền nông
nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Sau năm 1975 thì cả hai miền tuy nhập
lại cùng một nước nhưng hệ thống kinh tế thì khác nhau và xuất hiện những rối loạn
ban đầu sau chiến tranh.
Sau năm 1975, thì các nước phương Tây theo chính sách của Mỹ cấm vận Việt
Nam cho nên rất dè dặt trong chuyện phát triển quan hệ với Việt Nam. Song, hệ thống
kinh tế theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũ từ miền Bắc đưa vào đã đẩy nền
kinh tế rơi vào cuộc khủng hoảng rất nặng nề vào những năm 70 và đầu những năm
80.
Toàn bộ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống đều
thông qua chế độ tiêu chuẩn tem phiếu có định mức cho từng đối tượng. Điểm đặc biệt
là định mức này chỉ đáp ứng một phần cực nhỏ nhu cầu sinh tồn của một con người,
cho nên mới tạo thành cái đói dai dẳng và trường kỳ tháng này qua năm khác. Tất cả
mọi hình thức kinh doanh đều được quản lý theo mô hình “XHCN”, hoàn toàn do
nhà nước nắm giữ.
2
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Nhà nước phân phối vài chục mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống như gạo, thực
phẩm, chất đốt, vải vóc, pin, cho đến các tiêu chuẩn phân phối được mua bổ sung như
xà phòng giặt, giấy dầu, xi măng, khung, săm, lốp xe đạp…
Có thể mua các phụ tùng xe đạp bằng tấm phiếu này.
Đại hội IV Đảng Cộng sản VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với
mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu đề ra
quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985) nền kinh tế thiếu cân đối và
lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực.
Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối
năm 1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7
%. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Sau đợt đổi tiền năm 1986, lạm phát thực sự trở thành nỗi ám ảnh của toàn xã hội.
Đây không phảỉ là năm đầu tiên có lạm phát nhưng nó đã tồn tại và âm ỉ từ nhiều
năm trước. Quan niệm sai lầm về đổi tiền đã làm cỗ xe kinh tế chệch bánh. Các nhà
hoạch định kinh tế XHCN đã
xem phương án đổi tiền như
một vũ khí mạnh mẽ nhằm
chống lại lạm phát và căn cứ
trên lập luận rằng sức mua của
đồng tiến mới sẽ bằng 10 lần
sức mua của đồng tiền cũ
khiến cho giá trị đồng bạc Việt
Nam ngày càng tuột dốc thảm hại. Sau đổi tiền, lạm phát tăng đến mức không còn đếm
3
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
được là bao nhiêu phần trăm cho chính xác. Chỉ số CPI lên tới 92% và nhanh chóng
chiếm lĩnh con số 775% trong suốt hai năm sau đó.
Đối phó với tình trạng này là một ý tưởng hết sức duy ý chí được đưa ra. Cụm từ
Giá-Lương-Tiền hình thành từ đấy đã mau chóng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam rơi
sâu hơn nữa vào cơn khủng hoảng.
Đối với miền Nam, kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu
mất cân đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân,
cắt giảm viện trợ, nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Nhiệm vụ khôi
phục và phát triển một nền kinh tế vốn mang tính lệ thuộc cao như vậy trở nên hết sức
khó khăn. Đó là chưa kể đến khó khăn ở những vùng bị tàn phá bởi chiến tranh, bị hủy
diệt bởi chất độc hóa học. Sau giải phóng, miền Nam còn có sự phức tạp về mặt xã
hội.Chiến tranh và quá trình cưỡng bức đô thị hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong phân
bố lực lượng lao động. Nông thôn nông nghiệp thiếu lao động. Các vùng đô thị, mật độ
dân số quá đông, không tương xứng với sự phát triển về kinh tế.Người dân miền Nam
không thể làm quen với chế độ tem phiếu nên ngay sau khi đợt đổi tiền lần thứ nhất
xảy ra cả miền Nam sống trong tâm trạng ngột ngạt chưa từng có, vốn quen với nền
kinh tế tự do, chưa quen với cái “đói” trường kỳ của nền kinh tế bao cấp như ngoài
Bắc, bỗng đột ngột chịu “đói” đến hoảng hốt.
II. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ BAO CẤP
Thế hệ trẻ thời nay sẽ không
thể tưởng tượng nổi cảnh thìa nhôm
ở cửa hàng mậu dịch ngày xưa của
ông cha mình phải bị đục lỗ, và đĩa
nhôm ở cửa hàng cũng phải bắt vít
chết xuống bàn chứ không thể để tự
do. Ở thời đó, người ta đã phải chấp
nhận một nghịch cảnh của xã hội là: Cái đói dai dẳng, thật tàn nhẫn, đã gặm nhấm mất
lương tri của nhiều người. Nạn ăn cắp vặt trở nên phổ biến toàn dân, nên các cửa hàng
mậu dịch chỉ còn cách đó để tránh bị mất mát đồ đạc.
Căn bệnh ganh tỵ và kèn cựa cũng trở nên trầm kha hơn ở các cơ quan đoàn thể vì
sống theo chế độ tập thể khiến ai cũng coi sự công bằng tuyệt đối là một chân lý, họ bị
méo mó tính cách vì tin vào điều đó.
4
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Những di hại do chế độ thực dân mới của Mỹ để lại cũng rất nặng nề như tệ nạn
ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm...; số người thất nghiệp, đặc biệt là số người mù
chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
Các con nghiện trong một trại giáo dưỡng ở miền Nam. Nguồn: reds.vn
Mặt khác, nhà nước cũng chú trọng hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.
Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được kịp thời sử dụng vào công tác
thông tin, tuyên truyền, cổ động. Những hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh
ở khắp mọi nơi, đồng thời với việc nghiêm cấm những hoạt động văn hóa phản động,
đồi trụy, bài trừ những tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, mại dâm, ma túy...Cuộc
sống văn hoá mới dần dần được xây dựng. Hệ thống các trường học lần lượt được mở
lại.
Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng. Các địa phương đều phát động phong trào
bình dân học vụ, mở các lớp bổ túc văn hóa ở khắp nơi.
5
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Ngành y tế được xây dựng và đẩy mạnh hoạt động. Nhiều đội y tế lưu động được
phái xuống các thôn, xã tổ chức tiêm phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân, kịp thời
dập tắt những ổ dịch. Công tác vệ sinh phòng bệnh, hoạt động thể dục, thể thao cũng
được chú ý phát động thành phong trào quần chúng.
Tóm lại, tình hình đất nước sau Đại thắng mùa Xuân 1975 có nhiều thuận lợi
đồng thời cũng có rất nhiều khó khăn, phức tạp mà chúng ta chúng ta chưa lường
được hết.
PHẦN II
KINH TẾ-XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1986 ĐẾN NAY
I. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
1.1 Giai đoạn 1986 - 1990:
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế
dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế
hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu
rất quan trọng. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, kiềm chế lạm phát,…
1.2 Giai đoạn 1991 - 1995:
Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được
những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ
6
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều
vượt mức. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá,
nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15
năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để
chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
1.3 Giai đoạn 1996 - 2000:
Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt,
tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá.
1.4 Giai đoạn 2001 - 2005:
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX
của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Từ một nước
thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế
giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về
cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm
sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi
thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước
hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng
lao động, khoa học và công nghệ;…
1.5 Giai đoạn 2006 - 2010:
Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế
tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã
trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
7
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm,
thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung;
quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời
kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng
đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao
khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong
nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công
nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục
hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế
hoạch 05 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên
tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp
và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng
cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
8
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng
xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của
doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng
tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng
góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông
quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh
tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam
đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),...
9
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (thứ 2 từ phải) cùng các
Ngoại trưởng ASEAN trong cuộc họp kết nạp Việt Nam vào ASEAN tại Brunei, 1995.
Ảnh: Chinhphu.vn
Ông Lương Văn Tự và ông Batia - Trưởng đoàn Hoa Kỳ - ký Hiệp định song phương gia
nhập WTO ngày 31/5/2006 tại TP. Hồ Chí Minh. Nguồn: baocongthuong.com.vn
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành
luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư,
kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục
hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước
đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn
tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức
tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2017 ước tính tăng 6,81% so với năm
2016, trong đó quý I tăng 5,15%; quý II tăng 6,28%; quý III tăng 7,46%; quý IV tăng
7,65%. Mức tăng trưởng năm nay vượt mục tiêu đề ra 6,7% và cao hơn mức tăng của
các năm từ 2011-2016.
II. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ 1986 ĐẾN NAY
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 30 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải
kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển
được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người
10
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86
USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như
liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/người/năm , nước
ta đã ra khỏi nhóm nước thu nhập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình
(thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi
năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc
làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt
khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6
triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua
đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia,
tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo
chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ
nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực,
thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm
2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm
một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp
quốc đã đề ra . Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh
nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà
Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm
2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3%
năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học
chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu
sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo
học.
11
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ
khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ
thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có
hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và
khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng
dịch,...và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Công tác tiêm
chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh
toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên
72 tuổi hiện nay.
Tóm lại, sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì,
các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó
có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó
chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động,
khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp
tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp
tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.
Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt
Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam.
PHẦN III
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI KỲ THỐNG NHẤT
1975 ĐẾN NAY
I. VĂN HÓA VẬT CHẤT
1. Văn hóa ẩm thực
12
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Thời bao cấp, sổ gạo là thứ quan trọng nhất. Sự thiếu thốn cũng đi kèm chất lượng
“thê thảm”: gạo mốc xanh đen, gạo hẩm, bột mì mốc, rau vàng héo, thịt “bèo nhèo”
(phần thịt “ngon” đã được chia chác cho mậu dịch viên và những “mối quan hệ” quen
thân của mậu dịch viên). Gạo thiếu, gạo mốc đen nên cơm thường xuyên là những bữa
cơm độn mi sợi mốc, bột mì tồn kho (viện trợ từ Liên Xô), sắn khô xắt lát, ngô (bắp),
bo bo (hạt lúa mì) hay gạo vỡ (gạo tấm) Thịt quá ít, có cũng như không, nên thường
đổi thành mỡ, để có cái xào nấu rau ăn dần. (Thời đó không có dầu ăn như bây giờ, thi
thoảng cũng chỉ có chút dầu lạc (dầu đậu phộng) hôi khét).
Sổ mua lương thực hay còn gọi là sổ gạo, thời kỳ
này viên chức Nhà nước chỉ được mua 13,5kg/1
tháng. Thuật ngữ ‘buồn như mất sổ gạo’ xuất hiện
từ đây: Mất sổ gạo còn quan trọng hơn cả việc mất
tiền vì có tiền cũng không mua được gạo, dù là gạo
đỏ, đầy thóc và sạn.
Tuy “phàn nàn” thiếu thốn như vậy, nhưng thời đó nếu để mất tem phiếu sẽ là
thảm họa, so thảm họa này với cảnh thiếu thốn thường nhật thì thiếu thốn vẫn còn là
“thiên đường”. Các thế hệ thời đó sẽ đứng trước nguy cơ nhịn đói cả tháng, đi xin, đi
vay mượn lương thực, hoặc mua chui lại của “phe tem phiếu” (người tích trữ đầu cơ
trái phép tem phiếu). Vì vậy thành ngữ “Mặt như mất sổ gạo” trở nên vô cùng nổi
tiếng thời bấy giờ, dùng để mô tả một khuôn mặt ủ ê não nề không thể đau khổ hơn.
Bởi vì thời đó, mất sổ gạo là cầm chắc nhịn đói! Nhịn đói không phải là một ngày hay
một tháng mà có khi đến vài ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn “bảo bối
quý giá” này khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại sẽ chạy vạy, vay mượn khắp nơi
để sống sót qua ngày đoạn tháng.
Loại bo bo mà dân Việt một thời phải trệu trạo nhai để sinh tồn còn gọi lúa miến
(sorghum), là loại cây chịu hạn rất tốt. Vẻ ngoài của nó rất giống cây bắp, nhưng trổ ra
13
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
chùm nhiều hạt nhỏ như hạt đậu ở phần ngọn. Bo bo có vỏ rất cứng không thể nấu ăn
trực tiếp như kiểu người Việt từng phải ăn. Liên Xô, Ấn Độ cùng một số nước khác
từng viện trợ và bán nợ bo bo cho VN làm lương thực. Ngoài ra cũng có một số thực
hiện theo nghị định thư hàng đổi hàng.
Ngoài bo bo, người dân VN còn ăn độn lúa mì và lúa mạch nguyên hạt chưa xay,
được quen gọi chung là bo bo.
Muốn mua được lương thực
thực phẩm, các thế hệ thời đó
cần đi xếp hàng 3, 4 giờ sáng để
giữ chỗ, phòng khi cửa hàng bán
nửa chừng hết lương thực, thực
phẩm. Người ta dùng những cục
gạch, chiếc dép, mảnh gỗ để ‘xí
chỗ’ khi cửa hàng chưa mở cửa và người
thật sẽ đứng vào hàng khi mở cửa. Thậm
chí nếu xếp hàng đầu, nhưng cũng không
bảo đảm là sẽ được mua trước, bởi vì nếu có những sổ thuộc dạng ‘ưu tiên’ hoặc ‘chen
ngang’ do có móc ngoặc với nhân viên thương nghiệp, hoặc đơn giản là xếp hàng tới
nơi mới biết đã bị ăn cắp tem phiếu hay sổ rồi.
Tem lương thực có thể đổi lấy các loại lương thực như gạo, sắn, ngô, khoai tây, hạt lúa mì với
trọng lượng tương đương ghi trên tem.
14
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Một cửa hàng bán thịt thời bao cấp.
Do tình trạng thiếu gạo trầm trọng, nên cơm độn khoai, mì, sắn... đã trở thành"bạn
đồng hành" của phần lớn các gia đình ở Việt Nam thời kỳ bao cấp. Đến bữa, những hạt
cơm trắng chỉ xới lên dành cho người gia, trẻ nhỏ. Cũng có gia đình xéo chung lẫn lộn
vào nhau, nhưng cũng chỉ mỗi người 1-2 bát nhỏ mà không có nhiều.
Cơm độn khoai, dưa chua xào tóp mỡ, cá diếc kho tương hay cơm cháy thịt kho truyền thống.
Phần cơm cháy ngày nay thường bị bỏ đi sau các bữa cơm gia đình, nhưng vào
thời bao cấp cũng là món ngon khi ăn với mắm. Cơm cháy ăn với tép riu hay cá kho
khô..cũng là món ngon thời đó. Trong mâm cơm thời bao cấp không bao giờ thiếu
được đĩa cà pháo dầm tương. Cà dầm tương ngày nay là món phụ, nhưng ngày xưa
từng là món "chủ lực" giúp đưa cơm trong bữa ăn của nhiều gia đình nông thôn Việt
Nam.
15
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Những món ăn của một thời của quê nghèo, đạm bạc và thiếu thốn nhưng đã nuôi
sống cả một thế hệ khôn lớn, trưởng thành hơn trong cuộc sống nhiều chông gai, biết
trân trọng bản thân, biết quý những giá trị của cuộc sống, nâng niu và giữ gìn...
Nhà nước Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới từ năm 1986,
khi thực hiện chính sách giải thể
hàng loạt doanh nghiệp quốc
doanh làm ăn thua lỗ, công nhân
không có việc làm nên để mưu
sinh, họ phải lao ra đường kiếm
sống, không còn cửa hàng ăn
uống, nhiều người mở quán bán cơm bình dân và từ đó kể từ sau hơn 30 năm cơm mậu
dịch, cơm bình dân xuất hiện trở lại theo đúng quy luật thị trường.
Cơm bình dân là cách gọi của người miền Nam đã thể hiện đúng bản chất của kiểu
quán cơm này, dân giã lại gọi là cơm bụi. Cơm bụi ở Việt Nam cũng như bánh mì kẹp
ở phương Tây là dịch vụ rất phổ biến trong một xã hội với nhịp sống công nghiệp và
lối sống hối hả.
Văn hóa uống bia hơi ở miền Bắc
16
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Ngày nay, trong văn hóa ẩm thực của người Việt có sự đa dạng, phong phú hơn
bởi sự xuất hiện của nhiều nét văn hóa ẩm thực khác nhau được quy tụ tại các thành
phố lớn. Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống trở nên tất bật hơn, trong bữa ăn của
người Việt đã không còn giữ nguyên nét truyền thống, người ta ít có thời gian để nấu
nướng hay cùng quây quần với nhau bên mâm cơm gia đình. Điều này kéo theo một
loạt các thương hiệu “thức ăn nhanh” có mặt tại Việt Nam vào những năm 2000 đã tạo
nên một xu hướng mới trong văn hóa ăn uống.
Ngoài ra, việc các nhà hàng Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,…lần lượt có mặt tại các
đô thị lớn nhỏ đã phần nào ảnh hưởng đến nhận
thức về ẩm thực Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ hiện
nay, khiến cho những món ăn thuần Việt ngày càng
lu mờ. Có thể thấy, thói quen ăn uống của người
Việt ngày nay chính là “ăn ngon” và để thỏa mãn
điều đó, chúng ta không ngừng tiếp thu mọi tinh
hoa ẩm thực của các vùng miền, các quốc gia trên
thế giới.
17
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Ẩm thực Nhật Bản.
Ẩm thực Hồng Kông
Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận “văn hóa vỉa hè” đã ăn sâu trong tiềm
thức của người Việt. Trải qua hơn 40 năm kể từ ngày thống nhất, cái văn hóa ấy vẫn
còn tồn tại và ngày càng đổi mới theo nhịp sống hối hả, khi những ngày cuối tuần
không phải đi làm, đi học…thì vỉa hè vẫn là nơi để con người gặp gỡ nhau, tán
chuyện, họp mặt…Cũng từ đó, “văn hóa ăn vặt” ngày nay cũng đã thay đổi rất nhiều
so với thời trước. Người ta có thể nghĩ ra nhiều món ăn chơi vừa thỏa mãn cơn đói vừa
thích hợp với những cuộc trò chuyện…mọc lên như nấm. Đặc biệt là chúng không chỉ
xuất hiện tại các địa phương mà còn có sự giao thoa giữa các vùng miền với nhau như
ở TP.HCM sẽ có bún đậu mắm tôm, “trà chanh chém gió” của miền Bắc, bánh tráng
nướng Đà Lạt, bánh xèo miền Trung….
18
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Bún đậu mắm tôm
Trà chanh chém gió
Phố bánh tráng nướng Cao Thắng rất nhộn nhịp hằng đêm.
2. Văn hóa trang phục
19
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Sau năm 1975, hay đúng hơn là sau công cuộc đổi mới, các quan niệm, tư tưởng
dường như cởi mở hơn cùng với quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa. Đây là giai đoạn
thời trang Việt Nam phân hóa đa dạng và phát triển với tốc độ chóng mặt.
Đa số đàn ông thời kỳ này đều mặc quần Tây, áo sơmi ôm, ve áo và măng sét to
bản. Các loại áo thun, áo ba lỗ cũng bắt đầu trở nên phổ biến và phong phú về màu
sắc, kiểu dáng, chất liệu, họa tiết… Trong khi đó, trang phục của phụ nữ vẫn giữ được
yếu tố truyền thống và gắn liền với đặc điểm vùng miền. Phụ nữ nông thôn miền Bắc
vẫn mặc áo cánh nâu cổ tròn hoặc cổ tim, quần đen bằng vải lụa bóng, đầu vấn khăn
vuông. Những người phụ nữ hoạt động cách mạng và làm cán bộ lại mặc áo sơmi đại
cán, tay thẳng, cổ hình cánh nhạn, chất liệu kaki và thường có màu xanh, xám hoặc be
hồng. Ở miền Nam, trang phục phổ biến vẫn là áo sơmi, áo thun và các loại váy đối
với tiểu thương, trí thức; áo bà ba đối với nông dân.
Tại miền Bắc, dấu ấn thời trang thập niên 1970 thể hiện ở những trang phục rộng
thùng thình, sơ mi cổ bẻ ve, quần lụa ống đứng, quần cạp cao, quần xếp ly dáng thụng
20
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
của cả nam và nữ, song kiểu quần của nam
giới thường ngắn hơn so với quần nữ. Họa tiết
trên trang phục thời kỳ 1976 - 1986 không
được chú trọng, chủ yếu là vải trơn. Bảng màu
trong giai đoạn này thiên về sắc độ trung tính,
nhiều nhất là trắng và đen.
Trang phục thường ngày phổ biến của phụ nữ
miền Bắc năm 1976.
Mùa đông, trang phục phổ biến
nhất là áo đại cán và áo chần bông
được các công ty may địa phương và
các công ty may của quân đội sản xuất.
Mũ nồi hoặc mũ beret là phụ kiện phổ
biến lúc bấy giờ.
Những sản phẩm được cho là thời
trang nhất giai đoạn 1976 - 1986 ra đời ở các làng nghề truyền thống hoặc các gia đình
trong phố cổ Hà Nội với nghề gia
truyền như thêu, đan dệt, may đo. Đó
là áo len đan tay, áo chần bông may tay
và chần tay bằng lụa, gấm, satin, nhung
the... điểm nhấn là những chi tiết cúc
áo tết công phu.
Áo dài được nhiều nữ sinh mặc đến
trường. Áo dài thời kỳ này có tà rộng
nhưng ngắn hơn bây giờ, eo cũng rộng hơn, cổ cao có lót cứng, ống tay hẹp.
21
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Kiểu dép nổi tiếng nhất thời kỳ này là dép lê và dép quai hậu của công ty nhựa
Tiền Phong và công ty nhựa Hải Phòng. Thời bao cấp, đôi dép rất thiếu thốn, chủ yếu
chỉ có dép cao su nên sự xuất hiện của dép nhựa Tiền Phong ngay lập tức chiếm vị trí
độc tôn và tiếp tục giữ vị trí đó trong hơn chục năm. Với ưu điểm dễ hàn, dễ dán, hay
nếu để lâu có đổi màu ố vàng thì ngâm vào nước nóng lại như mới nên dép nhựa Tiền
Phong được chuộng tới mức không ít hợp tác xã nhựa đã bắt đầu làm hàng nhái theo.
Trong khi đó, phụ nữ phố cổ Hà Nội thường diện
những đôi guốc mộc được khắc đẽo bằng tay, có quai
nhựa hoặc quai gấm nữ tính vì có điều kiện kinh tế, chịu
ảnh hưởng giao thương buôn bán. Những người có cơ
hội tiếp xúc với văn hóa phương Tây diện thêm giày
cao gót.
Trong ảnh chụp năm 1984, bà Trần Kim Loan (bên phải,
sống ở đường Láng Hạ, Hà Nội) mặc đồ chịu ảnh hưởng lớn
từ xu hướng mốt thập niên 1970, 1980 với cách phối tất cổ
ngắn cùng giày cao gót.
Sau thời kỳ đổi mới (1986), quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế đã giúp cho
thiết kế trang phục người phụ nữ có những bước ngoặt cả về kỹ thuật và kiều dáng.
Trong đó, chú trọng đễn dáng vóc của từng cá nhân, phô diễn vẻ dẹp tự nhiên của
người phụ nữ. Khuynh hướng thiết kế những trang phục tôn vinh vẻ đẹp của người phụ
nữ tiếp tục phát huy và dần tiệm cận với những phong cách thời trang trên thế giới.
Khuynh hướng thiết kế cho những trang phục nam có phần đơn giản nhưng vẫn theo
phong cách thời trang trên thế giới.
22
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
Năm 1989, nữ sinh Việt Nam bắt đầu mặc áo dài đến trường
Một kiểu ăn mặc đời thường của người Sài Gòn xưa
Đến những năm 90, khi đất nước đã bắt đầu mở cửa, tiếp xúc nhiều hơn với sách
vở, phim ảnh nước ngoài, người Sài Gòn lại càng mau chóng bắt nhịp với các trào lưu
thời trang trên thế giới. Từ kiểu áo quây, áo hai dây gợi cảm, quần thụng, váy xếp
ngắn, hay kiểu áo layer kết hợp sơ mi bên ngoài với áo thun bên trong... theo trào lưu
thời trang nổi loạn của những ngôi sao trên thế giới như Spice Girl, Britney Spears,
Backstreetboys, Christina Aguilera, cho đến thời trang Hàn Quốc ảnh hưởng từ các bộ
phim Hàn Quốc đang làm mưa làm gió trên màn ảnh nhỏ trong giai đoạn này. Tại Sài
Gòn thời điểm này, những con phố thời trang cũng đã xuất hiện rất sớm, điển hình
như phố thời trang Nguyễn Trãi. Đây là con phố nhỏ thuộc trung tâm với hơn 300
mét và có gần 50 shop hàng hiệu. Thời điểm kinh doanh thời trang huy hoàng nhất
23
Cơ sở văn hóa Việt Nam – Đề tài 11
Nhóm 11
là vào những năm 1995-1998. Sau đó xuất hiện thêm dần những phố thời trang
khác như Lý Tự Trọng, Lê Thánh Tôn… với gu thời trang "bụi", mới và nhanh đổi
mốt.
Ở miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, vào đầu những năm 90 gu ăn mặc
cũng có nhiều thay đổi. Phong cách thời trang của người dân chịu nhiều ảnh hưởng
của Liên Xô (cũ). Tuy nhiên, thay vì khá giản tiện và ít thay đổi như thời kỳ bao
cấp, xu hướng cũng có nhiều chuyển biến theo hướng xoay vòng có biến tấu.
Những chiếc quần thay đổi kiểu dáng đa dạng từ dạng ống côn, phần đùi rộng, tới
ống loe rồi lại về ống côn ôm sát đùi hơn và sau đó là quần ống vẩy… Mốt áo phổ
biến nhất vẫn là áo nỉ, áo cánh dơi…Váy lúc này cũng rất được phụ nữ miền Bắc
ưa chuộng, từ những chiếc đầm dài vải voan nữ tính cho tới những chiếc jupe óng
bộ với áo vest…
24