Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

Tiểu thuyết của ma văn kháng dưới góc nhìn thể loại (qua bóng đêm, bên bờ, người thợ mộc và tấm ván thiên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 194 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THỊ VÂN DƯƠNG

TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG DƯỚI
GÓC NHÌN THỂ LOẠI
(QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THỊ VÂN DƯƠNG

TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG DƯỚI
GÓC NHÌN THỂ LOẠI
(QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN)

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích



THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể
loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bích. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất
cứ một công trình nào khác.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Lý Thị Vân Dương

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bích, người đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân,
đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp
tôi hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Lý Thị Vân Dương

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................... iv MỞ
ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 8
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ................................................................. 9
5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................
9
6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 10
7. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 10
1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết ..........................................................................
10
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết........................................................................................ 11
1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết ...........................................................................
12
1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng ...................................................................................... 21
1.2.1. Tiểu sử và cuộc đời ........................................................................................... 21

1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng ............................................. 21
1.2.3. Vị trí của Ma Văn Kháng trong văn xuôi Việt Nam đương đại ....................... 23
Chương 2: NHÂN VẬT VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA
VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC
VÀ TẤM VÁN THIÊN) ............................................................................................. 26
2.1. Nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................................... 26
2.1.1. Thế giới nhân vật .............................................................................................. 26
2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ..........................................................................
33
iii
iii


2.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ...................................... 46
2.2.1. Người kể chuyện với điểm nhìn bên ngoài....................................................... 47

iv
iv


2.2.2. Người kể chuyện với điểm nhìn bên trong ....................................................... 49
Chương 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA
MA VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN
THIÊN).......................................................................... 57
3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................. 57
3.1.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, giàu sức sống.................................................. 57
3.1.2. Ngôn ngữ trữ tình, đậm chất thơ....................................................................... 68
3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ............................... 71
3.2.1. Giọng điệu triết lý, triết luận............................................................................. 72
3.2.2. Giọng điệu thương cảm, trữ tình, thiết tha sâu lắng .........................................

74
3.2.3. Giọng điệu trào lộng, mỉa mai, châm biếm ...................................................... 78
3.2.4. Giọng điệu lạnh lùng, “vô âm sắc” ................................................................... 83
3.2.5. Giọng điệu đời thường, suồng sã, thông tục .....................................................
86
KẾT LUẬN................................................................................................................
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93
PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐNBN

:

Điểm nhìn bên ngoài

ĐNBT

:

Điểm nhìn bên trong

NKC

:


Người kể chuyện NT1

:

Ngôi thứ nhất

NT2

:

Ngôi thứ hai

NT3

:

Ngôi thứ ba

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


1.1. Trong loại hình tự sự, tiểu thuyết là một thể loại chiếm vị trí quan trọng
được coi là “cỗ máy cái” của nền văn học. Tiểu thuyết là thể loại luôn luôn thay đổi,
biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn

thành” (M. Bakhtin). Tiểu thuyết là một trong những dấu hiệu đánh dấu sự trưởng
thành của một nền văn học. Tuy sinh sau đẻ muộn, tiểu thuyết Việt Nam cũng đã
trải qua một hành trình nhọc nhằn với những cuộc cách tân đầy ý thức của các nhà
văn. đặc biệt là sau 1986 và đã trở thành thể loại trung tâm, có vị trí xứng đáng
trong nền văn học dân tộc. Tiểu thuyết đã và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới
nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả.
Nhìn chung, văn học
Việt Nam sau đổi mới đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết;
từ
cảm hứng lịch sử cộng đồng, dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Đây là điều kiện
thuận lợi để tiểu thuyết tồn tại và phát triển. Tiểu thuyết từ 1986 trở về sau là một
thế giới sáng tạo mới mẻ, nó quan tâm nhiều hơn đến số phận cá nhân và khám phá
chiều sâu thế giới nội tâm phức tạp của con người. Đây là thể loại có khả năng miêu
tả cuộc sống bề bộn, phức tạp. Đó cũng là nơi mà nhà văn có thể thể hiện các yếu tố
kỹ thuật, nghệ thuật cùng với không khí dân chủ của môi trường sáng tạo. Tiểu
thuyết giúp nhà văn ý thức sâu sắc hơn về tư cách một nghệ sĩ, vượt lên trên những
quy định, khuôn khổ truyền thống đã thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu
nay. Sự vận động của tiểu thuyết đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình đổi mới văn
học. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về thể loại tiểu thuyết mà đặc biệt là tiểu
thuyết hiện đại thời kì đổi mới là một việc làm quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc.
1.2. Tiểu thuyết là một thể loại tự sự mang trong mình những nét đặc trưng
riêng so với các thể loại khác về thi pháp như: kết cấu, cốt truyện, nhân vật, người kể
chuyện (NKC), điểm nhìn, giọng điệu... Vì vậy, nghiên cứu tiểu thuyết từ góc nhìn thể
loại sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn thấu đáo về phương thức xây dựng tác phẩm,
về những đặc sắc trong việc kể chuyện, những nội dung hiện thực được phản ánh và
những nét riêng biệt của nhà văn. Từ đó, có thể khẳng định những đóng góp của nhà
văn trong nền văn học dân tộc.
2



1.3. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng đã có nhiều đóng
góp lớn, đặc biệt là với sự nghiệp đổi mới văn học nước nhà. Nhà văn đã thổi vào
nền văn học Việt Nam sau 1975 một luồng gió mới với những sáng tác “nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật”. Trong đời văn của mình, Ma Văn Kháng theo đuổi hai
mảng đề tài lớn là miền núi và thành thị. Ông đã dâng cho đời 18 tiểu thuyết, hơn
200 truyện ngắn, hai tập bút ký phê bình và rất nhiều những bài báo, trả lời phỏng
vấn, phát biểu hội thảo… Các tác phẩm của ông đã trở thành "tài sản" quý giá của
văn chương Việt Nam.
Với khối lượng sáng tác đồ sộ cùng nhiều đóng góp nỗ lực, Ma Văn Kháng đã được
nhận nhiều giải thưởng cao quý cho cả thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết như: Giải
B Hội Nhà văn Việt Nam 1986 (cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn); Tặng
thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 (cho tập truyện ngắn
Trăng soi sân nhỏ); Giải thưởng Văn học Đông Nam Á 1998; Giải thưởng Nhà nước
về Văn học
- Nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2009 (tiểu thuyết Một
mình một ngựa); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho
các tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn.
1.4. Hơn năm mươi năm cặm cụi với cây bút, hơn 80 năm cuộc đời, nhà văn
Ma Văn Kháng đã để lại tên tuổi và dấu ấn trên văn đàn như một cây bút văn xuôi
“lực lưỡng”, một đời văn cần mẫn, sáng tạo. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công
trình nghiên cứu về tiểu thuyết, truyện ngắn của ông.
Với mong muốn đóng góp thêm tiếng nói và khẳng định những giá trị trong
sáng tác của Ma Văn Kháng đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi lựa chọn vấn
đề Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ,
Người thợ mộc và tấm ván thiên) để làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Như đã nói ở trên, trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là
nhà văn có nhiều đóng góp lớn. Vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về
tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đặc biệt là về tiểu thuyết sau 1975. Nhiều công

3


trình nghiên cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo
sư Phong Lê,

4


Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu, Mai Thị Nhung, Nguyễn
Ngọc Thiện, Nguyễn Thị Bích... đã được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí.
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về tác phẩm của Ma Văn Kháng
Tác giả Minh Nhật trong bài viết “Nhà văn Ma Văn Kháng: Chắt chiu những vị
đời”, có trích dẫn nhận xét của GS. Phong Lê về vẻ đẹp văn chương trong các tác
phẩm của Ma Văn Kháng: “Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết trên một
hành trình dài, dẫu có lúc ngôn ngữ chính luận tràn lấn, nhưng vẫn không làm thay
đổi, biến dạng tiếng nói nghệ thuật đích thực trong tác phẩm của Ma Văn Kháng.
Một tiếng nói nghệ thuật từ chính cuộc đời trần trụi, xù xì, thô nhám, đa sự cất lên;
và lắm khi tác giả cũng không cần phải đóng vai trò khách quan “để sự thật tự nó
nói lên” theo kiểu Balzac, Tolstoi, mà cứ đàng hoàng cất lên tiếng nói riêng để khơi
gợi ở bạn đọc sự đồng tình hay tranh luận” [62].
Tác giả Mai Thị Nhung, trong bài “Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng
trong tiểu thuyết thời kì đổi mới” [63], đã thống kê được hơn 40 bài báo và 5 công
trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới đồng thời chỉ ra cái
nhìn đa chiều đa diện vào chiều sâu nhân bản và khẳng định những đóng góp không
nhỏ của Ma Văn Kháng vào sự vận động phát triển của Văn học Việt Nam. Bài viết
“Nghệ thuật sử dụng thành ngữ tục ngữ của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ
đổi mới” [64], cho thấy những thành công của nhà văn trong việc sử dụng những
thành ngữ tục ngữ để phản ánh hiện thực cuộc sống và khắc họa tính cách nhân vật.
Vốn từ ngữ phong phú đã góp phần làm nên “thương hiệu” Ma Văn Kháng.

Tác giả Nguyễn Thị Bích, trong bài viết “Giọng điệu trần thuật của Ma Văn
Kháng trong truyện ngắn sau 1975”, đã chỉ ra một số giọng điệu trần thuật như
giọng khẳng định ngợi ca, giọng điệu trào lộng, châm biếm, mỉa mai, giọng điệu xót
xa thương cảm, giọng điệu suy ngẫm triết lí. Từ đó khẳng định “Đọc truyện ngắn của
Ma Văn Kháng sau 1975 ta cảm nhận được những suy tư, trăn trở của một trái tim
giàu yêu thương, giàu lòng trắc ẩn với cuộc đời và con người” [5].
Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ của các tác giả cũng
nghiên cứu về vấn đề này như: Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới
trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986, Qua bốn tác giả: Nguyễn Minh
5


Châu, Nguyễn

6


Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn; Lê Thanh Ngọc (2004), Nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006), Nghệ
thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng; Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết
Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 1980 - 1989); Đỗ Thị Thanh
Quỳnh (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng;
Lê Minh Chung (2007), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; Dương Thị Hồng
Liên (2008), Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới; Trần Thị Phi
Nga (2008), Đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng; Nguyễn Thị Vân Anh
(2011), Diễn biến của thời gian tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng; Đỗ Thanh
Hương (2011), Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế
kỉ XXI; Nguyễn Thị Mai (2011), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới dưới góc
nhìn tự sự; Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng);

Đoàn Tiến
Dũng (2016), Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi của Ma Văn Kháng...
Với số lượng đông đảo những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết
về Ma Văn Kháng kể trên cho chúng tôi thấy được sức hấp dẫn và sự ảnh hưởng của
nhà văn trong nền văn học nước nhà. Chúng tôi cũng nhận thấy, các công trình trên
đã nghiên cứu về những khía cạnh như: những dấu hiệu đổi mới, nghệ thuật tự sự,
nghệ thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng còn vấn đề nhìn nhận tiểu thuyết của ông từ góc nhìn thể loại vẫn ít nhiều
chưa được đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại trong đề tài của mình.
2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ
mộc và tấm ván thiên
Ngay từ khi ra mắt bạn đọc, ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ
mộc
và tấm ván thiên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của bạn đọc và của các nhà
phê bình, nghiên cứu văn học.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện với bài "Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp
mới của Ma Văn Kháng” [78], đã có những nhận xét xác đáng về tiểu thuyết Bóng
7


đêm. Một là, tiểu thuyết Bóng đêm thuộc loại tiểu thuyết luận đề. Hai là,
tiểu thuyết Bóng đêm là sự huy động tổng hợp của một vốn sống phong phú,
những suy

8


nghiệm tâm huyết được tích lũy trong nhiều năm của nhà văn Ma Văn Kháng về đề
tài an ninh xã hội, về cuộc chiến cam go của cái Thiện chống lại cái Ác; của Ánh sáng

xua tan Bóng đêm. Ba là, kết cấu của tiểu thuyết tập trung vào hai tuyến nhân vật
chính một bên là các cán bộ, chiến sĩ công an mưu lược, dũng cảm, khoan dung,
nhân ái, xả thân vì nhiệm vụ được giao như ông Tầm, các trinh sát viên Trừng,
Nhâm còn một bên là bọn tội phạm giết người, cướp của, hiếp dâm, buôn lậu ma
túy, lưu manh côn đồ như tên Thuyên, Kình, Phỉ… Bốn là, nhìn về tổng thể,
tiểu thuyết Bóng
đêm cho ta thấy được cái nhìn đa chiều, đa diện nghiêm nhặt mà hiền minh, gợi
mở và đối thoại, tranh luận của Ma Văn Kháng về mảng hiện thực an ninh xã hội.
Nhà văn đã hé mở cho người đọc nhận ra tất cả sự phức tạp, rối rắm, oái oăm cùng
những ngẫu nhiên và bí ẩn khôn cùng của nó. Đồng thời, với Bóng đêm, Ma Văn
Kháng đã thực hiện “một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự” và tác phẩm ghi
nhận những nỗ lực dẻo dai, bền bỉ, một thành tựu vượt trội, xứng đáng là tập đại
thành của cây bút văn xuôi lão thực Ma Văn Kháng sau nhiều năm gắn bó tâm
huyết với đề tài an ninh xã hội.
Tác giả Hà Linh trong bài “Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống còn để mang thương
tích”, có viết: “Tôi đã đọc một mạch Bóng đêm, và run theo mạch xúc cảm của nhà
văn. Những chất liệu ngồn ngộn của đời sống mà ông kể từ những chuyến đi thực tế
của 20 năm trước, vẫn còn nóng hổi hơi thở của đời sống đương đại. Và chính nhà
văn Ma Văn Kháng cũng bị dẫn dụ vào thế giới của riêng mình, trong thế giới của sự
thăng hoa sáng tạo, ông đã khám phá ra chính mình, khám phá đời sống trong
những tàng ẩn sâu kín của tâm linh, của nội cảm” [49].
Đỗ Thanh Hương với bài “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết "Bóng đêm" của
Ma Văn Kháng”, đăng trên báo Văn nghệ công an online, ,
năm 2012, nhận xét: “với những đặc trưng riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật, nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ, qua "Bóng đêm", Ma Văn Kháng đã thành
công trong việc "thực hiện một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự". Nó thể
hiện sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi của một nhà văn đã suốt đời gắn bó và nỗ
lực đổi mới văn xuôi hiện đại Việt Nam”.
9



Tác giả Bình Minh trong bài “Hành trình đi tìm cái thiện trong tiểu thuyết Bóng
đêm”, có viết: “Đọc tiểu thuyết Bóng đêm ta thấy một vốn sống phong phú và sự
trải

10


nghiệm được tích lũy trong nhiều năm cầm bút của Ma Văn Kháng về đề tài an ninh
xã hội, về cuộc chiến cam go của cái thiện chống lại cái ác; của ánh sáng xua tan
bóng tối. Bóng đêm đã tái hiện bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất
linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những
chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác
giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm.” [57]
Tác giả Đoàn Trọng Huy với bài “Vẻ đẹp bộ tiểu thuyết cặp đôi Bóng đêm và
Bến bờ của Ma Văn Kháng”, có nhận xét như sau: “Bóng đêm và Bến bờ là loại
truyện hình sự nhưng khái quát lại là tiểu thuyết luận đề mới. Nó hàm chứa những
vấn đề về đạo đức, về triết lý nhân sinh, những thông điệp tinh thần mới” [30] .
Nhà lí luận phê bình Nguyễn Hoà cho rằng: “Không thể viết được như Ma
văn Kháng nếu chỉ lấy tài liệu ở mấy bài báo. Bóng đêm và Bến bờ là tiểu thuyết
luận đề, Ma Văn Kháng là nhà văn có tiếp xúc nhiều với thực tiễn sinh động” (dẫn
theo [89, tr.4]).
Ở một khía cạnh khác, nhà văn Phùng Thiên Tân nhận thấy: “Thông thường
các cuốn tiểu thuyết về đề tài hình sự mở đầu là những vụ án xảy ra, kết thúc là tìm
ra hung thủ hay tên biệt kích. Ma Văn Kháng không viết thế. Cách viết mới này là
hướng dẫn cho các nhà văn trẻ trong ngành” (dẫn theo [89, tr.4]).
Ý kiến của Nhà thơ Hữu Việt: “Bóng đêm, thể hiện tinh thần nhập cuộc của
nhà văn Ma Văn Kháng. Nó thể hiện sức viết dẻo dai bền bỉ của một cây bút tuổi đã
cao và đã có nhiều thành tựu. Ông đã đem chất thơ và các khát vọng vào tác phẩm
của mình. Hành động, chi tiết trong chuyện chỉ là bề nổi, phía sau tất cả là ý nghĩa

nhân sinh của cuộc đời…” (dẫn theo [89, tr.4]).
Trong các công trình nghiên cứu, chúng tôi đã rà soát có hai luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về cặp đôi tiểu thuyết này đó là Nguyễn Thị Hằng (2012), Nghệ thuật tự
sự trong hai tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng. Luận văn đã đề cập
đến những thành công về nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm được ghi dấu trên ba
phương diện: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và nghệ
thuật sử dụng giọng điệu. Đặng Hồng Vân (2013), Yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết
11


của Ma

12


Văn Kháng qua tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ đã đưa ra một cái nhìn khái lược về
văn học trinh thám, nhận diện yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết Bóng đêm và Bến
bờ của Ma Văn Kháng nói riêng và tiểu thuyết của ông nói chung. Luận văn cũng cho
thấy yếu tố trinh thám được thể hiện hết sức đa dạng qua đề tài, cốt truyện, ngôn
ngữ, đặc biệt là hình tượng nhân vật trung tâm người chiến sĩ công an.
Người thợ mộc và tấm ván thiên là tiểu thuyết được nhà văn viết trong
khoảng ba năm (từ 2012 tới 2014), tác phẩm được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm
2015. Tác giả Lam Thu trong bài “Ma Văn Kháng ra mắt tiểu thuyết ở tuổi 79”, có
viết: “Người thợ mộc và tấm ván thiên kể câu chuyện với những nhân vật gắn với
hoàn cảnh, biến cố thời cuộc một cách hấp dẫn. Bên cạnh đó, thông qua nhân vật
Quang Tình, tiểu thuyết đưa ra một nhân sinh quan về cuộc đời, con người và sự
hướng thiện” [86].
Trong bài “Khát vọng chân - thiện - mỹ trong Người thợ mộc và tấm ván thiên
của Ma Văn Kháng”, tác giả Mộc Miên đã bình luận một đoạn trong tác phẩm như
sau: “Và thật bất ngờ, nhân cách trí thức của thầy đã khiến những cái mầm thiên

lương còn sót lại trong con người Văn Chỉ dần dần mọc lên tươi tốt. Có thể nói,
trường đoạn Quang Tình thuyết phục được Văn Chỉ từ bỏ phép ứng xử lấy ác báo ác,
vì oan oan tương báo thì biết bao giờ cho hết nổi đây; (đó) là một trường đoạn hay
và là một bước chuyển tư tưởng nghệ thuật của cây đại bút này. Nhân vật Quang
Tình là một ẩn dụ thành công của nhân cách trí thức, của tư tưởng thẩm mỹ Ma Văn
Kháng...” [56].
GS.TS.NGND Nguyễn Lân Dũng sau khi đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên,
đã có những rung động và cảm nhận sâu sắc: “Tôi viết mấy dòng này với mong muốn
mọi bạn trẻ nên tìm đọc cuốn tiểu thuyết mà theo tôi là quá hay này. Các bạn sẽ hiểu
hơn xã hội chúng ta cả cái thành công và những sai lầm đáng tiếc, hiểu hơn về con
người thật với cái tốt cái xấu đan xen. Từ đó chúng ta tự hướng mình đến con
đường nhân ái, tích cực, tự giác và tránh xa những cạm bẫy không khi nào hết được
quanh ta...” [10].
Tác giả Ngọc Lợi trong bài “Đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn
Kháng: điều còn lại”, có nhận xét: “Đặt trong bối cảnh của những năm bao cấp cùng
13


những chuyển biến xã hội đặc trưng, tiểu thuyết “Người thợ mộc và tấm ván thiên”
của Nhà văn lão làng Ma Văn Kháng cuốn hút người đọc không hẳn về đề tài mà còn

14


bởi lối viết đầy nội lực với nguồn tư liệu dồi dào...” [50].
Nguyễn Nữ Khánh Hương với luận văn thạc sĩ viết vào năm 2016, trường
ĐHSP Hà Nội 2: Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên, đã
đánh giá những đóng góp của nhà văn thông qua hai cuốn tiểu thuyết Một vùng đất
hoang và những cuộc gặp gỡ, Người thợ mộc và tấm ván thiên. Với Người thợ mộc

và tấm ván thiên, tác giả luận văn nhận định đây là tiểu thuyết luận đề với tư tưởng
bao dung hướng thiện và đi vào phân tích một số đặc điểm về nhân vật, cốt
truyện, nghệ thuật trần thuật
(người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu triết lí).
Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn
Kháng nói chung và ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván
thiên nói riêng, chúng tôi nhận thấy vấn đề: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới
góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) còn
nhiều bỏ ngỏ để chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu để hoàn thành luận văn: Tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm
ván thiên) với những mục đích sau:
- Đọc - hiểu và cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới một
cách sâu sắc, chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp của nhà văn
trong tiến trình văn học Việt Nam.
- Nhận rõ tài năng độc đáo của nhà văn từ việc chọn đề tài và những
phương thức phản ánh riêng khi ghi lại những vấn đề xã hội và khẳng định tên tuổi
của nhà văn trong nền văn học nói chung và trong sự phát triển của thể loại tiểu
thuyết nói
riêng.
- Dựa trên những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết, chúng tôi khai thác ba
tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng
15


trên phương diện góc nhìn thể loại. Chúng tôi đi sâu vào khám phá những sáng tạo
của nhà văn và phát hiện những tác động của ba tiểu thuyết đến đời sống văn học.


16


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi cũng xác định nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là:
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về thể loại tiểu thuyết và đôi nét về
cuộc đời, hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng.
- Tìm hiểu nhân vật và người kể chuyện trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến
bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng.
- Tìm hiểu ngôn ngữ và giọng điệu trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ,
Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng.
Từ đó, chúng tôi nhận định đánh giá về những thành công của tiểu thuyết Ma
Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trong ba
tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng
qua các yếu tố như: nhân vật và người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu.
4.2. Phạm vi tư liệu
Đề tài khảo sát chủ yếu ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc
và tấm ván thiên, ngoài ra còn khảo sát các tiểu thuyết khác của nhà văn để đối
chiếu và so sánh như: Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá
thú (1989), Ngược dòng nước lũ (1999).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc
nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên), chúng tôi
vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó

đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của ba tác phẩm mà chúng
tôi quan tâm.
17


×