Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Khái niệm về đô thị hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.62 KB, 4 trang )

Khái niệm về đô thị hóa
Đô thị hoá theo hàm nghĩa chung nhất, là quá trình song song với sự phát triển
công nghiệp hoá và cách mạng khoa học công nghệ, dân số và sức lao động
phân tán của nông thôn và hoạt động kinh tế phi nông nghiệp không ngừng tiến
hành tụ hội trên không gian mà dần dần chuyển hoá thành yếu tố kinh tế của đô
thị. Vì vậy, đô thị hoá bao gồm 4 mặt nội dung:
– Dân số nông thôn tập trung lên đô thị, dân số đô thị và số lượng đô thị ngày
càng gia tăng, tỷ trọng của dân số đô thị trong tổng số dân số ngày càng nâng
cao;
– Phương thức sinh hoạt, phương thức tựu nghiệp và phương thức tư duy của
dân cư từng bước đô thị hoá;
– Quan hệ giứa thành thị và nông thôn không ngừng biến đổi, đô thị trở thành
trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá, là động lực chủ yếu của sự phát triển đi
lên;


Khu vực phi đô thị dần chuyển hoá thành trạng thái khu vực có tính đô thị.

Tập trung vứi mật độ cao là đặc trưng chủ yếu về kinh tế và cảnh quan của khu
vực đô thị.
Đô thị hoá không phải là kết quả, mà là một quá trình. Quá trình đô thị hoá có
ba hàm nghĩa quan trọng sau:
Thứ nhất: đô thị hoá là một phạm trù lịch sử, ở các quốc gia và khu vực khác
nhau, do điều kiện kinh tế, địa lý, văn hoá và xã hội của chúng khác nhau, mà
cùng một thời kỳ có thể có có sự khác biệt tương đối lớn về trình độ dô thị hoá,
ngay ở các thời kỳ khác nhau của cùng một đô thị, đô thị hoá vẫn có những đắc
điểm riêng biệt.
Thứ hai: đô thị hoá luôn luôn gắn chặt với công nghiệp hóa như bóng và hình.
Đây là hai quá trình không thể tách rời. Trong đó công nghiêp hoá là động lực
của đô thị hoá, đô thị hoá là điều kiện để gia tăng nhịp độ và hiệu quả của công
nghiệp hoá. Trên một ý nghĩa nào đó mà nói, đô thị hoá là người đông hành của


công nghiệp hoá.
Thứ ba: đô thị hoá không chỉ biểu hiện phương hướng phát triển kinh tế khu vực
trong một thời kỳ nhất định, mà còn trong một giai đoạn cụ thể của quá trình đô
thị hoá, nên dùng chỉ tiêu tĩnh tại tương đối ổn định để đánh giá, vì vậy, người ta
thường dùng tỷ trọng dân số đô thị trong tổng sô dân số và tỷ trọng mức tựu


nghiệp trong tổng mức tựu nghiệp làm chỉ tiêu cơ bản để đánh giá trình độ đô
thị hoá, mặc dù các chỉ tiêu này đều có tính hạn chế tương đối lớn trong việc
phản ánh chất và lượng của đô thị hoá.
Nhiều nhà kinh tế học đô thị, địa lý học đô thị và xã hội học đô thị cho rằng đô
thị hoá trong đời sống hiện thực có hai hình thức khu vực:
Hình thức thứ nhất: Đô thị hoá diễn ra! tại khu vực trưức đây không phải là đô
thị, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp hoặc cơ năng đô thị không ngừng mở
rộng, hoạt động sản xuất và điểm dân cư ngày càng tập trung, khu vực đô thị
hoá và dân số đô thị không ngừng gia tăng, tỷ trọng không ngừng nâng cao.
Hình thức này được gọi là: “đô thị hoá loại hình quảng canh”, tức đô thị hoá
theo chiều rộng.
Hình thức thứ hai: Đô thị hoá diễn ra tại khu vực đô thị trước đây đã là đô thị,
mật độ dân số và hoạt động kinh tế nâng cao, phương thức tựu nghiệp và hoạt
động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học công nghệ ngày càng tăng
cường, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường ngày càng cao.
Sự chuyển hoá tính chênh lệch trong nội bộ khu vực đô thị này về thời gian và
không gian đều tiếp cận với sự chuyển dịch từ khu vực nông thôn lên khu vực
dô thị, do đó trở thành một bộ phận của đô thị hoá. Hình thức này gọi là “đô thị
hoá loại hình thâm canh”, tức đô thị hoá theo chiều sâu.
Nếu lý giải từ ý nghĩa chung của đô thị hoá, cần phân biệt một cách căn bản hai
hình thức chuyển dịch khu vực này. Vì vậy, có thể sử dụng thuật ngữ hiện đại
hoá để xác định khái niệm của khu vực nội bộ đô thị. Hiện đại hoá là quá trình
trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tựu nghiệp và hoạt động kinh

tế dần dần đa dạng hoá và hợp lý hoá, chức năng quản lý đô thị ngày càng tăng
cường, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xá hội, hiệu quả- môi trường và đời sống nhân
dân ngày càng nâng cao. Nói một cách khác, hiện đại hoá đô thị là hiện đại hoá
công nghiệp, hiện đại hoá khoa học công nghệ, hiện đại hoá quản lý kinh tế – xã
hội, hiện đại hoá dịch vụ và phương thức sinh hoạt, phương thức tư duy của dân
cư đô thị.
Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt
động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp.
Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp sống và làm
việc theo kiểu thành thị.
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền
lãnh thổ, một tỉnh, một huyện, một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện.


Khái niệm về đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển
kinh tế xã hội, hệ thống dân cư mà mỗi nước có quy định riêng tuỳ theo yêu cầu
và khả năng quản lý của mình. Song phần nhiều đều thống nhất lấy hai tiêu
chuẩn cơ bản:


Quy mô và mật độ dân số: Quy mô trên 2000 người sống tập trung, mật
độ trên 3000 người/km2 trong phạm vi nội thị.



Cơ cấu lao động: Trên 65% lao động là phi nông nghiệp.

Như vậy, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ có số dân từ 2000 người

trở lên và trên 65% lao động là phi nông nghiệp.
Việt Nam quy định đô thị là những thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ với tiêu
chuẩn về quy mô dân số cao hơn, nhưng cơ cấu lao động phi nông nghiệp thấp
hơn. Điều đó xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước đông dân, đất không
rộng, đi từ một nước nông nghiệp lên chủ nghĩa xã hội
Khái niệm về đô thị hoá
Đô thị hoá chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, vì vậy có thể nêu khái niệm dưới nhiều góc độ
Trên quan điểm một vùng: Đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các
hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá là một quá trình biến đổi về sự
phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô
thị thành đô thị. Một bước chuyển biến rõ nét trong quy hoạch và xây dựng,
quản lý đô thị tạo tiền đề vững chắc cho phát triển cao hơn vào những năm tiếp
theo.
Khái niệm về đất đô thị
Đất đô thị là đất thuộc khu vực nội thành, nội thị xã, thị trấn được quy hoạch sử
dụng làm nhà ở, trụ sở các cơ quan tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các
cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, quốc phòng an ninh và các mục đích
khác của xã hội. Ngoài ra theo quy định các loại đất ngoại thành, ngoại thị xã đã
có quy hoạch của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để phát triển đô
thị cũng được tính vào đất đô thị.
Sự biến động của đất đô thị trong quá trình trong quá trình đô thị hoá
Do đặc điểm của quá trình đô thị hoá ở nước ta nói riêng và các nước đang phát
triển nói chung là sự tăng nhanh dân số đô thị không hoàn toàn dựa trên sự phát
triển công nghiệp nên quá trình đô thị hoá và qúa trình công nghiệp hoá ở nước
ta mất cân đối. Sự chênh lệch về đời sống giữa nông thôn và thành thị đã thúc


đẩy việc di chuyển dân số từ nông thôn ra thành thị một cách ồ ạt. Hiện tượng

bùng nổ dân số bên cạnh sự phát triển yếu kém của công nghiệp đã đặt ra cho
đô thị hàng loạt các vấn đề cần phải đối mặt: việc làm, nhà ở, giao thông, môi
trường đặc biệt là vấn đề sử dụng hợp lý quỹ đất đô thị hữu hạn cho một khối
lượng nhu cầu sử dụng đất rất lớn hiện nay. Làm sao để với nguồn lực hiện có
về đất được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Mức độ đô thị hoá nước ta năm 2000 là 23,5% nhưng diện tích đất đô thị chỉ
chiếm 0,3% vì thế nhu cầu về đất đô thị vượt xa so với lượng cung về đất. Thị
trường đất đô thị ở nước ta trong khoảng 10 năm trở lại đây là thị trường sôi
động nhất, vì vậy giá nhà đất ngày càng tăng và nằm ngoài tầm kiểm soát của
chính quyền đô thị.
Trong quá trình đô thị hoá hiện nay tình trạng lấn chiếm đất công, đất nông
nghiệp trái phép cho các mục đích xây dựng nhà ở hoặc để sản xuất công nghiệp
đang còn là vấn đề phổ biến, mỗi năm hàng vạn ha đất nông nghiệp bị lấn
chiếm. Những năm gần đây bình quân đất cho nhu cầu ở mỗi năm tăng 15.000
ha hầu hết lấy từ đất nông nghiệp.
Ngoài ra trong các đô thị tình trạng lấn chiếm vỉa hè, đất hành lang an toàn bảo
vệ các công trình công cộng (đê điều, đường điện, giao thông, công sở vào mục
đích kinh doanh, buôn bán nhỏ hay xây dựng nhà ở cũng còn phổ biến, làm ảnh
hưởng đến mỹ quan, trật tự và an toàn giao thông đô thị).
Sở dĩ còn nhiều tồn tại trong quá trình quản lý sử dụng đất đô thị là do trình độ
quản lý của chúng ta còn nhiều yếu kém, đồng thời cũng thiếu một đội ngũ cán
bộ có chuyên môn cao về công tác quy hoạch và sử dụng đất.
Do yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế việc xây dựng của chúng ta vốn đã tự do
không theo một quy hoạch nào mặc dù hiện nay chúng ta bắt đầu quan tâm đến
công tác quy hoạch và phát triển đô thị nhưng hệ thống các quy hoạch tổng thể
và chi tiết cho tất cả các đô thị hầu như chưa hoàn thiện và chưa công bố rộng
rãi vì vậy việc xây dựng hiện nay vẫn chưa được kiểm soát theo đúng quy
hoạch. Mặt khác, cho đến nay các hình thức sử dụng đất và các hình thức sở
hữu nhà đất của chúng ta còn đan xen, các thủ tục hành chính còn nhiều điểm
rườm rà, không cần thiết, cán bộ còn nhũng nhiễu làm cho việc thực hiện cấp

chứng chỉ quy hoạch và cấp phép xây dựng còn chậm do đó đã làm ảnh hưởng
đến công tác kiểm soát việc xây dựng phù hợp với quy hoạch tổng thể sử dụng
đất.



×