Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài tập tội phạm học Phân tích nội dung của thuyết “ Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của tâm lý học nhân văn”. Rút ra bài học thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.98 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
NỘI DUNG............................................................................................................2
I.

Khái quát chung về phòng ngừa tội phạm.................................................2
1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm.............................................................2
2.

II.

Đặc trưng của phòng ngừa tâm lý..........................................................3
Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lý học nhân văn.................4

1.

Nguyên nhân của tội phạm theo tâm lý học nhân văn...........................5

2.

Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của tâm lý học nhân văn...............8

III. Bài học thực tiễn .....................................................................................10
KẾT LUẬN..........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................12

1


MỞ ĐẦU


Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực của xã hội và hiện nay tình hình tội
phạm đang có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp hơn. Quan điểm của
các nhà hành pháp và tư pháp đều đồng tình: cốt lõi của phòng chống tội phạm là
phòng ngừa, chứ không phải lả để xảy ra rồi mới xử lý . Phòng ngừa tội phạm là
một đường đua dài, bền bỉ và kiên trì của cả xã hội. Đã có rất nhiều học thuyết
tâm lý về phòng ngừa tội phạm ra đời, trong đó có thuyết tâm lý học nhân văn
với hai nhà đại diện là Abrham Maslow (1908 – 1970) và C. Roger. Trường phái
tâm lý này ra đời như là một khuynh hướng đối lập với Phân tâm học và Tâm lý
học hành vi. Để có thể hiểu rõ hơn về quan điểm phòng ngừa tội phạm của
thuyết tâm lý học nhân văn trong phạm vi bài viết này em xin làm rõ vấn đề: “
Phân tích nội dung của thuyết “ Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của tâm
lý học nhân văn”. Rút ra bài học thực tiễn” làm bài tập cuối kì của mình.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về phòng ngừa tội phạm
1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm
Mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục, thủ tiêu các
nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm
giảm từng bước tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội và phòng
ngừa tội phạm là việc của các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công
dân trong toàn xã hội .
Phòng ngừa tội phạm nói chung được hiểu là: hệ thống các quy định, các
biện pháp, các hành động của các nhân, tổ chức nhằm hạn chế, ngăn chặn tội
phạm xảy ra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các tội phạm xảy ra và giáo
dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội”
2


Dưới góc độ tâm lý học thì phòng ngừa tội phạm còn được hiểu là hệ
thống các biện pháp, các quy định, các hành vi của cá nhân, tổ chức:

-

Hình thành ở con người những phẩm chất tâm lý tích cực, những thói

quen hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội;
- Ngăn chặn sự hình thành, loại bỏ, hạn chế những phẩm chất tâm lý tiêu
cực, nhưng thói quen hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội, giải
tỏa khuynh hướng gây hấn, xâm kích
- Đảm bảo cho các nhân không phạm tội trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Như vậy, có thể nói phòng ngừa tội phạm bằng cách phòng ngừa tâm lý là
một biện pháp phòng ngừa vĩ mô, ta có thể chúng minh bởi chính những đặc
trưng sau đây của phòng ngừa tâm lý biện pháp đã mang lại không ít tác động
tích cực trong công tác phòng ngừa tội phạm.
2. Đặc trưng của phòng ngừa tâm lý
- Thứ nhất: Phòng ngừa tâm lý thực chất là hệ thống các biện pháp tác
động lên tâm lý con người đó là sự tác động lên nhận thức, cảm xúc, ý chí, lĩnh
vực ý thức, lĩnh vực vô thức và còn đồng thời tác động lên nhiều lĩnh vực.
Những tác động đó có thể đưa đến những thay đổi lâu dài hoặc tạm thời.
- Thứ hai: Cơ sở của phòng ngừa tâm lý là mối quan hệ giữa tâm lý và
hành vi: tâm lý là tiến trình âm trí ở con người: tình cảm, ý chí, nhận thức và
hành vi là những phản ứng, xử sự của con người trong tình huống cụ thể. Bởi
vậy tâm lý “ điều hành” hành vi và ngược lại hành vi “ tạo ra” tâm lý.

- Thứ ba: Phòng ngừa tâm lý có tính đa dạng, có rất nhiều hoạt động được
thực hiện như vận động, tuyên truyền, thuyết phục, bắt buộc, cưỡng chế, thống
qua lý trí hoặc ngấm ngầm….
3


- Thứ tư: Phòng ngừa tâm lý còn mang tính phức tạp xuất phát từ chính sự

phức tạp, nhiều biến động của đời sống tâm lý, của các yếu tố quy định hành vi.
- Thứ năm , Tính hiệu quả của phòng ngừa tâm lý chỉ mang tính tương đối
bởi bản chất của phòng ngừa tâm lý là hệ thống các biện pháp ảnh hưởng đến
tâm lý để từ đó đưa đến những thay đổi về hành vi và bởi tất cả những gì tồn tại
ở mức độ tư tưởng, tinh thần thì chỉ ở dạng tiềm năng cho nên không thể đòi hởi
hiệu quả tuyệt đối của phòng ngừa tâm lý. Hơn nữa, một biện pháp phòng ngừa
có thể tỏ ra hiệu quả trong tình huống này nhưng lại có thể không đem đến một
kết quả tương tự trong tình huống khác.
Từ những phân tích trên ta thấy tội phạm là một loại hành vi bất bình
thường, hành vi sai lệch của con người. Muốn phòng ngừa tội phạm hiệu quả thì
các biện pháp phòng ngừa phải xuất phát từ nguyên nhân, từ các yếu tố đích thực
quy định hành vi của con người
II. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của Tâm lý học nhân văn.
Tâm lý học nhân văn được biết đến với hai nhà đại diện là Abrham
Maslow (1908 – 1970) và C. Roger. Trường phái tâm lý này ra đời như là một
khuynh hướng đối lập với Phân tâm học và Tâm lý học hành vi. Nếu phân tâm
học lấy điều kiện bên trong. Tâm lý học hành vi lấy điều kiện bên ngoài làm
nguyên tắc quyết định cho tâm lý con người thì Tâm lý học nhân văn là sự tổng
hợp của nhiều khuynh hướng mới và nhiều trường phái khác nhau. Nhưng các
nhà tâm lý học nhân văn đều có chung tư tưởng tôn trọng con người, tôn trọng
giá trị sáng tạo và trách nhiệm cũng như tôn trọng các phẩm giá cá nhân của một
người.
Vậy ,để phòng ngừa tội phạm ta cần tìm ra căn nguyên của tội phạm và
nếu xuất phát từ thuyết tâm lý học nhân văn thì “ Bản tính con người là tốt, con
4


người là hiện thân của các đẹp, sinh ra con người đã có sẵn một khuynh hướng
phát triển và khuynh hướng này không mâu thuẫn với xã hội, nếu gặp điều kiện
thuận lợi khuynh hướng này sẽ được phát huy. Và con người không xấu, tuy

nhiên họ có thể có hành vi xấu, có thể phạm tội”
1. Nguyên nhân của tội phạm theo tâm lý học nhân văn
Theo học thuyết về hệ thống bậc thang nhu cầu của con người mà A.
Maslow đưa ra vào năm 1943 thì nhu cầu của con người phát sinh theo một hệ
thống trật tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì
các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước. Và hành vi phạm tội
xuất hiện khi các nhu cầu này không được thỏa mãn .
- Nhu cầu cơ bản: Đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của
con người , các nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể, hoặc nhu cầu
sinh lý, nó bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ, nghỉ ,
vui chơi, các nhu cầu làm cho con người thấy thoải mái… Những nhu cầu cao
hơn sẽ không xuất hiện từ khi những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và
những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một người hành động
khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Như vậy, nguyên nhân của tội phạm có thể xuất phát từ chính sự thiếu
thốn nhu cầu cơ bản này ví dụ : do đói nghèo dẫn đến trộm cướp , …
- Nhu cầu về an toàn: Nhu cầu an toàn xuất hiện sau khi con người đã
được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức là các nhu cầu này không còn điều khiển
suy nghĩ và hành động của họ nữa thì các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ được
kích hoạt cả về thể chất lẫn tinh thần. Con người muốn có sự bảo vệ cho sự sống
còn của mình khỏi các nguy hiểm, muốn có sự ổn định trong cuộc sống, muốn
được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật…Nhiều
5


người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng do nhu cầu an
toàn này, đây chính việc tìm kiếm an toàn về mặt tinh thần..
Như vậy nếu nhu cầu này không được đáp ứng thì con người sẽ luôn cảm
thấy lo sợ, luôn cảm thấy bị đe doạ về mặt tinh thần và thể xác, não người
không thể hoạt động một cách tỉnh táo điều này cũng có thể dẫn đến hành vi

phạm tội vì như đã đề cập ở trên “ tâm lý điều hành hành vi”. Một tâm lý bất ổn,
sẽ kéo theo hành vi bất ổn. Ví dụ: một người luôn cảm thấy mình đang bị theo
dõi , và có cảm giác sợ bị người khác hãm hại mình thì với một tác động nhỏ từ
bên ngoài thì dễ dẫn đến hành vị giết người để tự vệ …
-

Nhu cầu về xã hội: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn

thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó hoặc nhu cầu về tình cảm, tình
thương. Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn,
tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi
picnic, tham gia câu lạc bộ, làm việc nhóm…Nhu cầu này là một dấu vết của bản
chất sống theo bầy đàn của loài người chúng ta từ buổi bình minh của nhân loại.
Mặc dù nhu cầu này được xếp sau 2 nhu cầu phía trên, nhưng nếu như nhu
cầu này không được thỏa mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về
tinh thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy những người sống
độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần kinh, hô hấp hơn những
người sống với gia đình. Chúng ta biết rõ rằng: sự cô đơn có thể dễ dàng giết
chết con người. Những đứa trẻ khi không thể hòa nhập với xã hội trở nên trầm
cảm, lạnh lùng và ít nói, chúng cảm thấy bị bỏ rơi và cả xã hội không ai cần
chúng, chúng sống tách biệt, cô lập, thậm chí là lang bạt, nhiễm thói hư tật xấu
và thù hằn với xã hội, chúng có thể gây ra bất kì tội phạm gì để trả thù xã hội.
Nhưng người không được đáp ứng nhu cầu về xã hội, họ sống khép kín và có cái
6


nhìn phiến diện, tiêu cực về cuộc sống, điều này là một trong những nguyên
nhân rất phổ biến của tội phạm.
- Nhu cầu về sự tôn trọng bản thân: nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu
tự trọng. Nó được thể hiện dưới 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể

trọng thông qua các thành quả của bản thân và nhu cầu cảm nhận, quý trọng
chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, tự tin vào khả năng của
bản thân. Sự đáp ứng nhu cầu này có thể thay đổi thành tích của một con người,
thậm chí có thể lập ra kì tích đối với thành quả lao động của một người khi họ
được khích lệ, tưởng thưởng.
Vậy nên khi cảm thấy bị đối xử bất bình đẳng, không được quan tâm và
chia sẻ sẽ kéo theo một chuỗi tâm lý như chán nản, tự ti, mất niềm tin vào cuộc
sống, sống một cách phó mặc và không ý nghĩa, sẵn sàng vất bỏ lòng tự trọng,
dẫn đến những hành động bẩn thỉu và trở thành tội phạm là điều rất có thể. Nhu
vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng , nếu đi ngược lại nhu cầu này thì hậu quả sẽ
là hành vi phạm tội sẽ xảy ra .
- Nhu cầu bản ngã ( nhu cầu được thể hiện mình) : Phải hiểu đây là một
nhu cầu tích cực và được sắp đặt ở mức cao nhất chứ không phải là sự thể hiện
bằng cách khoe khoang tiền của, hút chích, nhuộm tóc, chơi bời, nói năng khệnh
khạng… Nhu cầu này là nhu cầu mong muốn được là chính mình, được làm
những cái mà mình “ sinh ra để làm”, mong muốn được sử dụng hết khả năng,
tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để làm việc và đạt thành quả trong
xã hội. Đây là nhu cầu ở bậc cao nhất là sự hướng đến của xã hội hiện đại.
Nhưng để đạt được nhu cầu này trước hết con người ta không còn phải ưu tư về
cái ăn cái mặc nữa, họ không còn phải quan tâm đến sự an nguy cũng như những
nhu cầu tình cảm.
7


Và sở dĩ chúng ta có những vấn nạn xã hội xảy ra vì chúng ta có quá ít
những con người đạt được nhu cầu thể hiện, con số này chỉ là 2% trong chúng ta,
không phải vì chúng ta có nhiều người xấu mà thực tế là chúng ta còn có quá
nhiều những con người phải quan tâm đến nhu cầu vật chất, nhưng nhu cầu cơ
bản nhất. Đặc biệt là trong xã hội mà sự phân hóa giầu nghèo ngày càng rõ rệt
như hiện nay.

2. Phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của tâm lý học nhân văn
Bốn nhu cầu đầu tiên mà trong học thuyết bậc thang nhu cầu của A.
Maslow được coi là những nhu cầu thiết yếu cho sự sinh tồn, nếu không được
thỏa mãn những nhu cầu đó, một cá nhân sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt, mất cân
bằng. Đặc biệt nhu cầu tình cảm và được tôn trọng là rất cần thiết để duy trì một
cơ thể lành mạnh.
Tất cả những nhu cầu này được cài đặt sẵn bên trong qua ngả di truyền
học giống như bản năng vậy. Nói theo mô hình phát triển, chúng ta trải qua từng
cấp độ nhu cầu tương tự như chúng ta trải qua những giai đoạn phát triển. Khi
còn là trẻ sơ sinh chúng ra cần đế n nhu cầu sinh lý qua những chăm sóc từ bên
cha mẹ. Rồi sau đó các em bé cần có nhu cầu được an toàn. Rồi lớn hơn một
chút ta muốn được người khác chú ý và quan tâm. Lớn hơn nữa, ta có nhu cầu
cần được tôn trọng và tự trọng. Những nhu cầu này có thể phát triển trước khi
trẻ biết nói. Dưới những điều kiện đầy áp lực, hoặc khi những nhu cầu sinh tồn
bị đe dọa chúng ta có thể có xu hướng quay ngược lại với quá khứ với các nấc
nhu cầu thấp hơn. Nếu một cá nhân có vấn đề khó xử hoặc không có những điều
kiện phát triển thuận lợi - nhất là trong những lúc cô đơn, bị hắt hủi, bị lạm dụng
và ngược đãi, đói khát, lo lắng, sợ hãi, cha mẹ li dị, chứng kiến cảnh người thân
chết...những điều này làm cho một cá nhân bị khựng lại trong một nhu cầu suốt
cả cuộc đời mình.
8


Vậy, để phòng ngừa tội phạm chúng ta cần có những giải pháp tích cực
như:
Thứ nhất: chúng ta phải chung tay loại bỏ đói ngèo, xây dựng một môi
trường sống trong sạch và lành mạnh, hướng tới một xã hội không còn những
mảnh đời thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu ngủ, trẻ em được đến trường, được sống
trong vòng tay của gia đình bè bạn. Chúng ta chỉ biết đến My Sói – một nữ
quái ,Lê Văn Luyện - một sát thủ giết người không ghê tay , nhưng mấy người

biết đằng sau đó họ là những người thiếu đi sự quan tâm của nhà trường , gia
đình … dẫn đến một kết cục đen tối
Thứ hai: Để phòng ngừa tội phạm cần tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá
nhân phát triển mọi tiềm năng của mình, đó là sự tôn trọng giá trị của con người,
tạo điều kiện để cá nhân được thể hiện và tìm được chỗ đứng trong xã hội. Phát
triển nhiều hoạt động tập thể, thúc đẩy tinh thần làm việc theo nhóm, theo đoàn
thể. Một số khoa học đã chứng minh được rằng, giáo dục Việt Nam quá nặng về
mặt lý thuyết, 1/3 kiến thức lý thuyết cần được cắt bớt và cần thay vào đó những
hoạt động ngoại khóa, những buổi dã ngoại hay những buổi học về tâm lý.
Thứ ba: Chúng ta cần một xây dựng một xã hội công bằng, có tình yêu
thương quan tâm trong mối quan hệ giữa người với người, sự thờ ơ, lãnh cảm
trước khó khăn hoạn nạn của người khác sẽ là chất xúc tác cho tội phạm nảy
sinh. Một xã hội nếu chứa đầy những bất công, bị chèn ép thì sẽ dẫn đến hiện
tượng “ con giun xéo lắm cũng quằn”. Vụ án Đoàn Văn Vươn là một ví dụ điển
hình cho tình trạng này.
Thứ tư: Trong giáo dục người phạm tội, cần hiểu, gần gũi, quan tâm để
cảm hóa họ. Đưa một người từ vũng bùn lên không phải là một điều đơn giản.
Nó là sự phối hợp của rất nhiều biện pháp và từ nhiều phía. Cán bộ trại giam,
9


gia đình, xã hội cần đặt mình vào vị trí của người phạm tội, nắm bắt những khó
khăn và gỡ bỏ những rào cản tâm lý cho người phạm tội, đưa họ trở lại hòa nhập
cùng xã hội. Giúp họ tìm việc làm và tái tạo niềm tin cho họ vào cuộc sống.
III.

Bài học thực tiễn .

Từ vấn đề phòng ngừa tội phạm từ quan điểm của tâm lý học nhân văn ,
để phòng ngừa tội phạm thì theo thuyết tâm lý học nhân văn chúng ta cần tạo ra

được một môi trường sống thiết yếu với các đặc tính cần thiết cho chính cuộc
sống chúng ta để không lầm đường lạc lối . Trong cuộc sống hãy tạo nên cuộc
sống không còn sự giả dối mà thay vào đó là sự thật , tất cả đều là sự thật , hãy
sống với sự chân thật , không có dối trá lọc lừa có như vậy thì cuộc sống mới tốt
đẹp lên được . Hãy đấu tranh tích cực, kiên quyết không lùi bước trước sự giả
dối, sống không lương thiện, vô cảm trước nỗi khổ, khó khăn của nhân dân, làm
giàu trong sự cơ cực của người lao động. Không nản chí, không mất hy vọng,
không mất lòng tin vào cuộc sống bằng giữ được sự lương thiện của mình. Thay
vì sống trong xấu xa dung tục chúng ta hãy tìm đến cái đẹp trong cuộc sống , hãy
đón nhận nó để cho cuộc sống trở nên đẹp đẽ hơn . Hãy tạo ra một môi trường
mà nơi đó không có sự chia rẻ áp lực , tạo ra một cuộc sống với nhiều màu sắc
sống động thay vì một cuộc sống chết choc tù túng hay quá máy móc . mộc cuộc
sống máy móc tù túng máy móc sẽ giết chết tâm hồn chúng ta và khi đó nguy cơ
phạm tội của chsung ta sẽ cao hơn bao giờ hết . Nên có một cuộc sống công
bằng với chính bản thân mình và mọi người thay vì một cuộc sống vô kỉ luật , vô
tổ chức để từ những cái vô kỉ luật dù chỉ là nhỏ nhất cúng khiến cho con người ta
đi đến con đường tội lỗi . Mỗi người chúng ta hãy tự tạo cho mình một cuộc
sống thật phong phú đa dạng , cho dù cuộc sống vật chất có khó khắn nhưng hãy
tạo cho ta một cuộc sống tinh thần thật phong phú đa dạng để chúng ta luôn cảm
nhận được những giá trị đích thực của cuộc sống xung quang , đừng để cuộc
10


sống chúng ta phải thiếu hụt , đau khổ về tinh thần thì cuộc sống mới nhiều ý
nghĩa .
Chúng ta hiểu rằng, mỗi cá nhân tồn tại với tư cách là một “ con người
tổng thể” tham gia vào quá trình phát triển, biến đổi liên tục và đang trở hành
chính bản thân họ. Sở dĩ, một cá nhân nào đó mắc những rối nhiễu hay những
hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiệm những mấu ứng xử sai lệch. Do vậy,
việc tạo một môi trường sống lành mạnh, đáp ứng được các nhu cầu của con

người là rất cần thiết để phòng ngừa tội phạm.
KẾT LUẬN
Phòng ngừa tội phạm là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách trong xã hội
hiện nay , cần có những nhận thức rõ ràng và qua đó có những định hướng đúng
đắn , và biên pháp tích cực để phòng chống tội phạm . Bài viết trên đã một phần
nào giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về. Bên cạnh những đóng góp lớn lao và tích
cực quan điểm phòng ngừa tội phạm của thuyết tâm lý học nhân văn tồn tại
những điểm bất cập và hạn chế nhưng đây vẫn là một học thuyết đã đem đến cho
con người một cách tổng quan về phòng chống tội phạm mà chúng ta có thể áp
dụng trong công cuộc phòng chống tội phạm hiện nay .

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tâm lí học tư pháp, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2009.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tâm lí học đại cương, Nxb. CAND, Hà Nội,
2010
11


3. Tập bài giảng Tâm lí học tội phạm
4.
5.

12



×