Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Nghiên cứu đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý một số vùng đất ngập nước nội địa ở tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

HÀ SAO LINH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HỢP LÝ MỘT SỐ
VÙNG ĐẤT NGẬP NƢỚC NỘI ĐỊA Ở TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội – Năm 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

HÀ SAO LINH

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HỢP LÝ MỘT SỐ
VÙNG ĐẤT NGẬP NƢỚC NỘI ĐỊA Ở TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành : KHOA HỌC MÔI TRƢỜNG
Mã số

: 60440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:



PGS.TS NGUYỄN XUÂN CỰ

Hà Nội – Năm 2016


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................3
1.1.Tổng quan về đất ngập nƣớc .............................................................................3
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh ................................12
CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................21
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu .....................................................................................21
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................21
3.1. Một số đặc điểm chung của ĐNN nội địa ở Quảng Ninh ..............................23
3.2. Phân tích các dịch vụ hệ sinh thái ĐNN nội địa ở Quảng Ninh .....................41
3.3. Đề xuất các giải pháp quản lý và sử dụng hợp lý một số vùng ĐNN nội địa ở
tỉnh Quảng Ninh ....................................................................................................49
KẾT LUẬN ...............................................................................................................63
KIẾN NGHỊ ..............................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................65
PHỤ LỤC ..................................................................................................................67


MỞ ĐẦU
Đất ngập nƣớc (ĐNN) có mặt khắp mọi nơi trên thế giới, từ vùng ẩm nhiệt đới

đến các vùng ôn đới và chiếm diện tích khoảng 6% bề mặt trái đất, nghĩa là khoảng
8,6 triệu km2. ĐNN có vai trò quan trọng đối với đời sống của các cộng đồng dân
cƣ. Hiện nay, khoảng 70% dân số thế giới ở các vùng cửa sông ven biển và xung
quanh các thủy vực nội địa. ĐNN còn là nơi sinh sống của một số lƣợng lớn các
loài động và thực vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm.
Ở Việt Nam, ĐNN rất đa dạng với diện tích xấp xỉ 5.810.000 ha, chiếm khoảng
8% diện tích toàn bộ các vùng ĐNN của Châu Á. ĐNN Việt Nam gồm 2 nhóm:
ĐNN nội địa và ĐNN ven biển. ĐNN ven biển phân bố rộng khắp chiều dài bờ biển
Việt Nam bao gồm rừng ngập mặn (RNM), ĐNN cửa sông, bãi triều, đầm phá và
vùng biển có độ nƣớc sâu không quá 6 m khi triều kiệt. Tuy nhiên, ĐNN của thế
giới cũng nhƣ tại Việt Nam đang bị suy giảm khá mạnh cả về chất và lƣợng do
nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có nguyên nhân do các tác động của các
hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của con ngƣời cũng nhƣ ảnh hƣởng của các yếu
tố tự nhiên.
ĐNN thƣờng rất nhạy cảm với các hoạt động của con ngƣời và các tác động của
thiên nhiên. Do đó, việc quản lý ĐNN một cách hợp lý, sao cho vừa sử dụng những
tài nguyên của ĐNN để phục vụ cuộc sống của ngƣời dân và cho xã hội nhƣng vẫn
duy trì đƣợc các chức năng và thuộc tính của ĐNN đang trở thành mối quan tâm
của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và ban hành các quyết định liên
quan đến ĐNN.
Quảng Ninh là một tỉnh ở vùng Đông Bắc Việt Nam , với diện tích đất tự nhiên
trên 609.000 ha và dân số hơn 1,1 triệu ngƣời. Quảng Ninh có đƣờng biên giới giáp
với Trung Quốc dài 112 km , đƣờng bờ biển dài 250 km nên giữ một vị trí đặc biệt
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội , quốc phòng , an ninh của đất nƣớc.
Với vị trí nhƣ trên , Quảng Ninh là một trong những địa bàn trọng điểm trong chiến
lƣợc phát triển kinh tế - xã hội vùng vịnh Bắc Bộ và vùng KTTĐ Bắc Bộ đến năm
2020.
Là một tỉnh giàu tiềm năng phát triển kinh tế xã hội , có Vịnh Hạ Long - Di sản
thiên nhiên thế giới và có trữ lƣợng các mỏ than lớn ; Quảng Ninh có các hoạt động
kinh tế sôi động đặc biệt là công nghiệp , du lịch và thƣơng mại. Đây là những điều

kiện cho tỉnh Quảng Ninh có quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, quá trình đô
thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Đây vừa là động lực phát triển nhƣng đồng thời cũng là
những nguyên nhân gây ra những tác động mạnh đến môi trƣờng ở Quảng Ninh nói

1


chung và môi trƣờng nƣớc nói riêng. Trên thực tế hiện nay, Quảng Ninh đang phải
đối mặt với nguy cơ suy thoái môi trƣờng nƣớc mặt do tác động của quá trình phát
triển, đặc biệt là các hoạt động khai thác khoáng sản, đô thị hóa và dịch vụ du lịch.
Quảng Ninh là là một tỉnh ven biển với các hệ sinh thái ĐNN rất đa dạng và
phong phú. Đây là nguồn sinh kế chủ yếu của phần lớn ngƣời dân Quảng Ninh ,đặc
biệt là các cộng dân cƣ nông thôn .Với hệ thống sông , hồ dầy đặc và đƣờng bờ biển
kéo dài , các hệ sinh thái ĐNN Quảng Ninh đóng góp quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh .
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của ĐNN , đề tài “ Nghiên cứu đề xuất giải
pháp sử dụng hợp lý một số vùng đất ngập nước nội địa ở tỉnh Quảng Ninh’’ đƣợc
đặt ra nhằm nghiên cứu , phân tích và đánh giá hiện trạng đất ngập nƣớc nội địa ở
tỉnh Quảng Ninh. Đây là những thông tin quan trọng góp phần quản lý khai thác
hợp lý và bền vững các vùng đất ngập nƣớc nội địa ở Quảng Ninh, góp phần vào
nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn về sử dụng hợp lý ĐNN nội địa , các yếu tố
ảnh hƣởng đến chất lƣợng và hiệu quả quản lý, bảo tồn, khai thác và sử dụng tài
nguyên ĐNN nội địa ở tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp sử
dụng hợp lý một số vùng ĐNN nội địa ở tỉnh Quảng Ninh
Các giải pháp sử dụng hợp lý một số vùng ĐNN nội địa có thể sử dụng là tài liệu
tham khảo cho các nhà quản lý địa phuơng, góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt
động quản lý ,bảo tồn và sử dụng hợp lý ĐNN ở tỉnh Quảng Ninh.

2



CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.1.Tổng quan về đất ngập nƣớc
1.1.1.Khái niệm đất ngập nƣớc
Đất ngập nƣớc rất đa dạng, có mặt ở khắp mọi nơi và là cấu thành quan trọng
của cảnh quan trên mọi miền trên thế giới. Hàng thế kỷ nay, con ngƣời và các nền
văn hóa nhân loại đƣợc hình thành và phát triển dọc theo các triền sông hoặc ngay
trên các vùng đất ngập nƣớc (ĐNN). ĐNN đã và đang bị suy thoái và mất đi ở mức
báo động, mặc dù ngày nay ngƣời ta đã nhận biết đƣợc các chức năng và giá trị to
lớn của chúng (Mitsch và Gosselink, 1986&1993; Dugan, 1990; Keddy, 2000).
Một điểm chung của ĐNN thuộc các loại hình khác nhau, đó là chúng đều có
nƣớc nông hoặc đất bão hòa nƣớc, tồn trữ các chất hữu cơ thực vật phân hủy chậm,
và nuôi dƣỡng rất nhiều loài động vật, thực vật thích ứng với điều kiện bão hòa
nƣớc. Tuy nhiên, tùy thuộc vào loại hình, sự phân bố cùng với những mục đích sử
dụng khác nhau mà có nhiều định nghĩa về ĐNN. Trên thế giới hiện nay có khoảng
trên 50 định nghĩa, khái niệm khác nhau về ĐNN.
Theo công ƣớc RAMSAR (Công ƣớc về các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc
tế, đặc biệt nhƣ là nơi cƣ trú của các loài chim nƣớc – Convention on wetland of
international importance, especially as waterfowl habitat), ĐNN đƣợc xác định là:
“Các vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nƣớc tự nhiên hay nhân tạo, có nƣớc
thƣờng xuyên hay tạm thời, nƣớc đứng hay nƣớc chảy, nƣớc ngọt, nƣớc lợ hay nƣớc
mặn, kể cả các vùng nƣớc ven biển có độ sâu không quá 6m khi thủy triều thấp đều
là các vùng ĐNN” (Điều 1.1. Công ƣớc Ramsar, 1971 và có hiệu lực ngày 21 tháng
12 năm 1975 )
1.1.2. Phân loại đất ngập nƣớc
Cũng nhƣ cách định nghĩa ĐNN, hiện nay cũng có rất nhiều cách phân chia các
loại ĐNN tùy thuộc vào từng mục đích sử dụng mà ở mỗi quốc gia lại có những
cách phân chia khác nhau.
Ở Việt Nam, việc phân loại ĐNN đã đƣợc nghiên cứu và áp dụng từ năm 1989
(D.Scott, Lê Diên Dực, Mai Đình Yên, 2002). Đến nay, đã có một số công trình

nghiên cứu về phân loại ĐNN của Việt Nam (Phan Nguyên Hồng và cs , 1997; Lê
Diên Dực, 1998; Nguyễn Chu Hồi và cs, 1999; Nguyễn Ngọc Anh và cs, 1999; Bộ
KHCN&MT, 2001; Nguyễn Chí Thành và cs, 1999, 2002; Vũ Trung Tạng, 2004,

3


Hoàng Văn Thắng, 2005). Các công trình này dựa chủ yếu vào hệ thống phân loại
của Công ƣớc Ramsar và chỉ dừng lại ở mức nêu ra những vùng ĐNN mà chƣa
hoặc ít đƣa ra các yếu tố để “xác định ranh giới” cũng nhƣ “phân biệt” giữa các loại
hình ĐNN (Nguyễn Chí Thành và cs., 2002). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn (2004) cũng đã đƣa ra hệ thống phân loại tiêu chuẩn ngành với 2 hệ thống, 6
hệ thống phụ, 12 lớp, và 69 lớp phụ.
Công ƣớc Ramsar và phân loại đất ngập nƣớc của Việt Nam / Cục Bảo vệ Môi
trƣờng
Theo dự thảo Chiến lƣợc Đất ngập nƣớc Việt Nam của Cục Môi trƣờng (Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trƣờng), các kiểu ĐNN đƣợc liệt kê và mô tả bao gồm:
1) Các vịnh nông và các eo biển có độ sâu 6m khi triều thấp
2) Các vùng cửa sông, châu thổ, bãi triều
3) Những vùng bờ biển có đá, vách đá, bãi cát hay bãi sỏi
4) Vùng đầm lầy ngập mặn, rừng ngập mặn
5) Những đầm phá ven biển dù là nƣớc mặn hay nƣớc lợ
6) Ruộng muối (nhân tạo)
7) Ao nuôi trồng thủy sản
8) Sông suối và hệ thống thoát nƣớc nội địa
9) Đầm lầy ven sông, đầm lầy nƣớc ngọt
10) Hồ chứa nƣớc tự nhiên, hồ chứa nƣớc nhân tạo
11) Rừng ngập nƣớc theo mùa (nhƣ rừng Tràm)
12) Đất cấy ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu
13) Bãi than bùn


4


Phân loại/ Kiểm kê đất ngập nƣớc theo Lê Diên Dực (1989)
Lê Diên Dực (1989) dựa trên hệ thống phân loại ĐNN của Công ƣớc Ramsar
(1971), chia ĐNN ở Việt Nam thành 20 loại ĐNN nhƣ sau:
1) Các vịnh nông từ 6m trở lại khi triều thấp
2) Các vùng cửa sông, châu thổ
3) Những đảo nhỏ xa bờ
4) Những vùng bờ biển có đá, vách đá ven biển
5) Những bãi biển dù là cát hay sỏi
6) Những bãi biển dù là bùn hay là cát
7) Vùng đầm lầy có rừng ngập mặn
8) Những đầm phá ven biển dù là nƣớc lợ hay nƣớc mặn
9) Những ruộng muối
10) Ao tôm, cá
11) Sông suối chảy chậm dƣới mức trung bình
12) Sông suối chảy nhanh trên mức trung bình
13) Đầm lầy ven sông
14) Hồ nƣớc ngọt
15) Ao nƣớc ngọt (< 8 ha), đầm lầy nƣớc ngọt
16) Ao nƣớc mặn, những hệ thống thoát nƣớc nội địa
17) Đập chứa nƣớc; 18) Rừng ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu
19) Đất cày cấy ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu
20) Bãi than bùn
Theo Nguyễn Chu Hồi và các tác giả khác (1999), những vùng ĐNN và hệ sinh
thái ĐNN ven biển thực chất là những đơn vị cấu trúc tự nhiên tồn tại độc lập nhƣng
phát triển trong mối quan hệ gắn bó với các hệ lân cận… Vì vậy đòi hỏi phải có


5


phƣơng thức khai thác, sử dụng và quản lý phù hợp. Với mục đích nhƣ vậy và dựa
vào hệ thống phân loại ĐNN của Cowardin.L.M (1979) cùng những kết quả áp
dụng cho các vùng ven biển SriLanka (1994), Nguyễn Chu Hồi đã chia ĐNN ven
biển thành ba nhóm lớn: các vùng đất thấp ven biển; vùng ĐNN triều và các đảo
hoang nhỏ. Trong mỗi nhóm này, căn cứ vào mức độ phủ thực vật, không phủ thực
vật và đặc điểm nền đáy để chia thành các kiểu ĐNN khác nhau. Nhìn chung các
tiêu chí và cơ sở phân loại của hệ thống phân loại ĐNN của Nguyễn Chu Hồi phù
hợp cho sử dụng và khai thác ĐNN.
Vũ Trung Tạng (2004) đồng tình với định nghĩa về ĐNN của Ramsar để sử dụng
trong phân loại ĐNN của Việt Nam. Tác giả cũng nhìn nhận ĐNN là hệ sinh thái,
trong đó quần xã sinh vật và các yếu tố môi trƣờng có mối liên hệ tƣơng tác với
nhau. Quần xã sinh vật là sản phẩm đƣợc sinh ra trong một môi trƣờng xác định của
ĐNN, nhƣng quần xã sinh vật lại làm biến đổi các yếu tố môi trƣờng. Tác giả cũng
nhấn mạnh rằng ĐNN là kết quả tổ hợp của 3 yếu tố chính: đất, nƣớc và thảm thực
vật tồn tại trong đó. Từ những quan điểm nhƣ vậy, tác giả cho rằng việc phân loại
ĐNN cần đề cập đến các tiêu chuẩn sau:
Đất và cấu trúc đất
Đặc tính của nƣớc và chế độ ngập nƣớc
Thảm thực vật tồn tại và phát triển trên đó. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh
rằng nƣớc và chế độ ngập nƣớc là yếu tố hàng đầu trong phân loại ĐNN vì chúng
chi phối đến sự biến đổi về cấu trúc và tính chất của đất cũng nhƣ cả hệ thực vật
phát triển trên đó.
Về phân loại ĐNN, Vũ Trung Tạng thiết lập cấu trúc bảng phân loại gồm 4 bậc:
Hệ (system); Phân hệ (sub-system); Lớp (class); và Dạng (type), ngoài ra có 2 Phân
lớp riêng cho Lớp ĐNN châu thổ. Khái niệm ĐNN thƣờng xuyên và ĐNN không
thƣờng xuyên đƣợc gắn với khái niệm phân loại ĐNN của Ramsar. Theo phân loại
này thì ĐNN không thƣờng xuyên trong sản xuất nông nghiệp đƣợc đồng nhất với

đất sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại, ĐNN Việt Nam đƣợc chia thành 2 nhóm chính: ĐNN nội địa và ĐNN
ven biển. Trong đó, các kiểu ĐNN nội địa gồm: châu thổ ngập nƣớc thƣờng xuyên;
lạch nƣớc; sông suối chảy thƣờng xuyên, tạm thời; hồ nƣớc ngọt; than bùn; đầm
lầy; hồ nƣớc mặn; ĐNN trên núi; ĐNN địa nhiệt; đầm nuôi thủy sản; ao lớn hơn 8
ha, đầm lầy….ĐNN ven biển gồm ĐNN cửa sông, bãi triều, ĐNN đầm phá và vùng

6


nƣớc biển có độ sâu nhỏ hơn 6m khi triều kiệt; rừng ngập mặn và bãi sình lầy tập
trung ở các vùng châu thổ, vùng cửa sông và vùng triều; các đầm phá; các rạn san
hô và hệ rong tảo, trong đó có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng và ĐNN châu thổ đồng bằng sông Cửu Long.
1.1.3. Vai trò của đất ngập nƣớc
Đất ngập nƣớc là loại hình rất phổ biến trên Trái Đất và có vai trò quan trọng đối
với đời sống của loài ngƣời. Hiện nay, khoảng 70% dân số thế giới sống ở các vùng
cửa sông ven biển và xung quanh các thủy vực nƣớc ngọt nội địa (Dugan, 1990).
ĐNN còn là nơi sinh sống của một số lƣợng lớn các loài động vật và thực vật, trong
đó có nhiều loài quý hiếm.
Ở Việt Nam, ĐNN rất đa dạng với diện tích xấp xỉ 5,81 triệu ha, chiếm khoảng
8% toàn bộ các vùng ĐNN của Châu Á (Lê Diên Dực, 1989; Scott, 1989). Trong
đó, ĐNN nƣớc ngọt chiếm khoảng 10% diện tích của các vùng ĐNN toàn quốc.
Trong số các vùng ĐNN của Việt Nam thì 68 vùng (khoảng 341.833 ha) là có tầm
quan trọng về đa dạng sinh học và môi trƣờng thuộc nhiều loại hình ĐNN khác
nhau, phân bố khắp trong cả nƣớc (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng, 2001).
Hiện nay, ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới, ĐNN đang bị giảm diện tích và suy
thoái ở mức độ nghiêm trọng.
Đất ngập nƣớc ở Việt Nam có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng, không chỉ cung
cấp tài nguyên thiên nhiên, các giá trị về môi trƣờng mà còn là nơi sản xuất lƣơng

thực thực phẩm chủ yếu cho đất nƣớc. Đây cũng là nơi sản sinh ra các nền văn hóa
đặc thù “nền văn minh lúa nƣớc ở đồng bằng sông Hồng”. Có thể thấy đƣợc vai trò
quan trọng của các vùng ĐNN ở nƣớc ta nhƣ sau:
a)Cung cấp nước cho sinh hoạt
Hiện tại, dân số nƣớc ta khoảng 90 triệu dân và ƣớc tính sẽ là 126 triệu dân vào
năm 2040. Nhu cầu sử dụng nƣớc ở Việt Nam là rất lớn và tăng nhanh theo thời
gian, năm 1990 khoảng 64,8 tỷ m3, dự tính sẽ tăng 121,5 tỷ m3 vào năm 2010 và
240 tỷ m3 năm 2040. Nhƣ vậy sau nửa thế kỷ nhu cầu sử dụng nƣớc đã tăng lên 4
lần. ĐNN là những dòng sông, suối, các ao hồ chứa nƣớc, các thủy vực nƣớc ngọt
chính là nguồn cung cấp nƣớc cho nhu cầu sinh hoạt của con ngƣời. Tuy nhiên tài
nguyên nƣớc hiện đang là vấn đề cần đƣợc quan tâm và quản lý tốt trên phạm vi
toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng.

7


Nƣớc ta có hệ thống sông ngòi phong phú, nhƣng tài nguyên nƣớc mặt lại phân
bố không đồng đều trên phạm vi lãnh thổ, 70 – 80% lƣợng nƣớc mƣa tập trung
trong mùa lũ (khoảng tháng 4 đến tháng 10), còn những tháng mùa khô (thƣờng từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau) thì lƣợng nƣớc chỉ có khoảng 20 – 30%, làm cho
tình trạng thiếu nƣớc ngọt trở nên gay gắt trong khi dân số ngày càng tăng và khi độ
che phủ rừng ngày càng giảm do tình trạng rừng đầu nguồn bị tàn phá. Chƣa có
công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam tính đến giá trị kinh tế của ĐNN trong chức
năng cung cấp nƣớc ngọt cho sinh hoạt của ngƣời dân, nhƣng nƣớc đối với cuộc
sống của con ngƣời chính là sự tồn tại và phát triển, sẽ trở nên vô cùng quý giá, có
thể không đƣợc tính bằng tiền.
b)Nơi sinh sống lâu đời của các cộng đồng dân cư nông thôn
Đất ngập nƣớc và các cộng đồng dân cƣ nông thôn đã gắn bó với nhau từ hàng
ngàn năm.Từ xa xƣa các cộng đồng nông dân Việt Nam đã sống với nhau thành
những môi trƣờng xã hội nhƣ làng, liên làng và làng nƣớc.Làng đã trở thành một

cộng đồng về phong tục tập quán, về tín ngƣỡng, về tiếng nói.Làng xã với diện mạo
vật thể và phi vật thể là nơi gắn bó suốt đời, mang tính kế thừa trong cuộc sống của
ngƣời nông dân cùng ĐNN châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Các cộng đồng
dân cƣ này đã đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau để khai thác tài nguyên đất, tài
nguyên nƣớc và các tài nguyên khác của ĐNN, cùng nhau phân công lao động để
chinh phục thiên nhiên và cùng nhau khắc phục thiên tai. Nền nông nghiệp lúa nƣớc
đã tạo ra sự gắn kết giữa các gia đình, giữa các cộng đồng làng xã để cùng nhau
sinh sống và tồn tại trên các vùng ĐNN.
c)Đất ngập nước là những vùng sản xuất nông nghiệp và thủy sản quan trọng
Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp lúa nƣớc lâu đời.Ngƣời nông dân
Việt Nam đã sinh sống và phát triển trên các vùng ĐNN để trồng lúa nƣớc và canh
tác nông nghiệp. Các vùng ĐNN nhƣ đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu
Long là những vựa lúa của cả nƣớc, góp phần rất quan trọng trong việc đảm bảo an
ninh lƣơng thực quốc gia. Bên cạnh đó việc chăn nuôi cũng rất phát triển trên các
vùng ĐNN, cung cấp một lƣợng lớn các sản phẩm thịt (thịt vịt, các loại thủy hải sản
nhƣ tôm, cua, cá…) đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong cả nƣớc cũng nhƣ tạo ra tiềm
năng trên thị trƣờng tiêu thụ thực phẩm trên thế giới, đem lại nguồn lợi lớn cho đất
nƣớc. Tài nguyên nƣớc và việc sử dụng hợp lý ĐNN đã góp phần làm cho nền nông
nghiệp nƣớc ta đạt đƣợc những thành tựu to lớn, từ việc ta phải nhập khẩu gần 1
triệu tấn lƣơng thực mỗi năm trong thời kỳ 1976 – 1988. Thì nay Việt Nam đã trở

8


thành quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới và đứng đầu trong khu vực về xuất khẩu
gạo, và là một trong những quốc gia đứng đầu trong việc xuất khẩu thủy hải sản.
d)Chắn sóng, chống xói lở, ổn định bờ biển; lưu trữ, chứa và chống ngập úng
Nƣớc ta có đƣờng bờ biển dài, là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế biển, nhƣng những thách thức về môi trƣờng cũng cần đƣợc quan tâm, trong đó
có việc chống xói lở bờ biển gây thiệt hại đáng kể về môi trƣờng, kinh tế và xã hội.

Vì thế đai rừng ngập mặn ven biển đóng vai trò rất lớn trong việc làm giảm động
lực sóng biển của thủy chiều, hạn chế việc xói lở bờ biển. Có thể nói rằng không có
công trình nào bảo vệ bờ biển chống xói lở tốt nhƣ đai rừng ngập mặn. Chức năng
phòng hộ ven biển của rừng ngập mặn, một thành phần chủ yếu trong hệ sinh thái
ĐNN đã góp phần lớn làm ổn định bờ biển, đồng thời tạo ra những môi trƣờng
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội vùng ven biển.
Bên cạnh đó rừng ngập mặn còn đóng vai trò rừng phòng hộ, giảm thiểu tác
động của gió, bão, lốc xoáy, lũ lụt… bảo vệ tính mạng cũng nhƣ đảm bảo đƣợc tài
sản của ngƣời dân.
Ngoài ra, vùng ĐNN đƣợc coi nhƣ “bể lọc” tự nhiên, có tác dụng giữ lại các chất
lắng đọng và chất độc (chất thải sinh hoạt và công nghiệp).Làm sạch nguồn nƣớc,
đảm bảo môi trƣờng và môi sinh.
e)Là nơi lưu trữ các giá trị về đa dạng sinh học
Theo số liệu thống kê, ở Việt Nam đã ghi nhận có khoảng 12.000 loại thực vật
có mạch, về động vật thì có khoảng 275 loài thú, 180 loài bò sát, 80 ếch nhái, 547
loài cá nƣớc ngọt, 2033 loài cá biển và 12.000 loài côn trùng. Trong số này có nhiều
loài đặc hữu: khoảng 40% số loài thực vật, 78 loài thú, hơn 100 loài chim, 7 loài
linh trƣởng, đặc biệt là các loài chim đặc hữu hẹp ở Việt Nam. Hiện nay, phần lớn
tập trung ở các vƣờn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của nƣớc ta (Đặc hữu là
hiện trạng trong sinh thái học khi một loài vật chỉ sinh sống tự nhiên ở một nơi. Địa
điểm đó có phân định địa lý rõ ràng nhƣ một hòn đảo, hay một hệ sinh thái).
Theo số liệu của Cục Kiểm Lâm, tính đến tháng 2/2003, cả nƣớc có 126 khu
ĐNN, rừng đặc dụng với diện tích là 2.541.675 ha, trong đó có 27 vƣờn quốc gia,
60 khu bảo tồn thiên nhiên có một phần diện tích là ĐNN.
Các vùng ĐNN của nƣớc ta có tính đa dạng sinh học cao. ĐNN ở vùng cửa sông
là nơi có đa dạng về các loài chim định cƣ và chim di cƣ, nơi phân bố của rừng
ngập mặn, đầm lầy nƣớc mặn, cỏ biển và tảo. ĐNN vùng đầm phá là nơi cƣ trú của

9



nhiều loài cá, nơi dừng chân của nhiều loài chim di cƣ.Các vùng đầm phá ven biển
miền Trung còn mang những nét độc đáo về sinh cảnh tự nhiên và chứa đựng giá trị
đa dạng sinh học rất lớn của khu hệ sinh vật thủy sinh.
Các vùng ĐNN nội địa nhƣ Đồng Tháp Mƣời, U Minh và hệ thống các sông,
suối, ao, hồ là những nơi chứa đựng nhiều loài động, thực vật đặc hữu hoặc những
loài có tầm quan trọng về đa dạng sinh học toàn cầu.
Rừng ngập mặn các thảm cỏ biển và các rạn san hô của Việt Nam gần những khu
có giá trị sinh học cao nhất là ở vùng biển Ấn Độ - Tây Thái Bình Dƣơng và giao
lƣu với nhiều vùng biển xung quanh biển Đông.Các hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ
biển và rạn san hô là nơi cƣ trú của nhiều loài sinh vật.
f)Có khả năng ổn định và mở rộng đất đai, bồi tụ và tạo vùng đất mới
Đất ngập nƣớc ven biển tạo ra môi trƣờng thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa,
góp phần ổn định và mở rộng bãi bồi. Sự phát triển của rừng ngập mặn và mở rộng
diện tích đất bồi là hai quá trình luôn đi kèm với nhau.Ở những vùng đất mới có độ
mặn cao chúng ta dễ dàng nhìn thấy các thực vật tiên phong thuộc chi mắm, bần ổi,
tại những vùng cửa sông có độ mặn thấp hơn thì có bần chua.
Ví dụ: Trong vòng 60 năm gần đây, vùng bán đảo Cà Mau bồi thêm đƣợc 8.300
ha với tốc độ lấn biển khá mạnh. Cụ thể: 1930 – 1965 diện tích tăng 3.442 ha, 1965
– 1985 diện tích tăng 1.466 ha, 1985 – 1991 diện tích tăng 1.466 ha. Trong vòng 30
năm (1964 – 1994) đã hình thành hai hòn đảo nhỏ ở cửa sông Ông Trang là Cồn
Trong và Cồn Ngoài thuộc địa phận tỉnh Cà Mau, Cồn Trong có gần nhƣ đầy đủ các
loài cây ngập mặn, còn Cồn Ngoài đƣợc mắm trắng phủ kín đảo.
g)Giao thông thủy, cảnh quan đẹp, phát triển du lịch, giải trí
Có thể nói Việt Nam là một đất nƣớc có cảnh quan tự nhiên đẹp, trong đó hầu
hết các vùng ĐNN là những nơi có cảnh quan tự nhiên đẹp nhất. Có những vùng
ĐNN đã nổi tiếng không chỉ trong nƣớc mà cả trên thế giới, là điểm đến của nhiều
khách du lịch nhƣ Vịnh Hạ Long, Cát Bà, Phú Quốc, khu bảo tồn thiên nhiên ĐNN
Vân Long,… Ở những vùng ĐNN này thiên nhiên, con ngƣời và văn hóa bản địa là
những tài nguyên du lịch rất hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nƣớc.Ngành

du lịch Việt Nam đã coi các vùng ĐNN này là những trọng điểm để phát triển du
lịch nhằm mang lại những lợi ích kinh tế và xã hội vô cùng to lớn cho đất nƣớc.Bên
cạnh đó ĐNN đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển, giao thƣơng trên
đƣờng thủy.

10


h)Cung cấp năng lượng
Than bùn là một nguồn nhiên liệu quan trọng (rừng tràm có khoảng 305 triệu tấn
than bùn) cung cấp nguồn năng lƣợng lớn.Lớp than bùn này còn đƣợc dùng làm
phân bón và ngăn cản quá trình xì phèn. Các đập, thác nƣớc cũng là nguồn cung cấp
năng lƣợng (tiềm năng thủy điện cao),…
Tóm lại, ĐNN là nơi dung nạp và điều tiết nƣớc ngầm, cung cấp nƣớc ngọt, điều
hòa sinh thái và khí hậu, hạn chế lũ lụt, chắn sóng và gió bão, chống xói lở và ổn
định bờ biển, duy trì tính đa dạng sinh học, tạo môi trƣờng hoạt động cho nhiều
ngành kinh tế nhƣ: công nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải, du lịch,… Vùng ĐNN
là nguồn sống của phần lớn ngƣời dân Việt Nam, đồng thời mang lại lợi ích và giá
trị to lớn về kinh tế - xã hội - môi trƣờng.ĐNN cũng là nơi cƣ trú của nhiều loài
động thực vật quý hiếm của Việt Nam và thế giới.
1.1.4. Các dịch vụ hệ sinh thái
Dịch vụ hệ sinh thái là “ những lợi ích con ngƣời đạt đƣợc từ các hệ sinh thái,
bao gồm dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết, dịch vụ hỗ trợ, và dịch vụ văn hóa ” (
Đánh giá Hệ sinh thái thiên niên kỷ, 2005).
Dịch vụ cung cấp (cung cấp nƣớc cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, thực
phẩm, các loài thủy hải sản…)
Đất ngập nƣớc cung cấp các sản phẩm và sinh kế bền vững cho 61.800.000
ngƣời trên thế giới phụ thuộc trực tiếp đánh bắt cá và thủy sản để kiếm sống. Ở Việt
Nam, giai đoạn sau năm 1989, các vùng ĐNN góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, Việt Nam từ một nƣớc phải nhập khẩu 1 triệu tấn gạo/năm (giai

đoạn 1976-1988) đã trở thành nƣớc không chỉ cung cấp đủ gạo ăn mà xuất khẩu 3,4
triệu tấn gạo/năm (năm 2003); kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản liên tục
tăng, thúc đẩy sự phát triển một số ngành nhƣ công nghiệp chế biến thủy, hải sản.
Năm 2002 khai thác ven bờ đạt 1.434.800 tấn, đƣa ngành thủy sản đạt kim ngạch
xuất khẩu 2 tỷ USD.
Dịch vụ điều tiết( hạn chế lũ lụt; xói mòn, rửa trôi; bảo vệ nguồn nƣớc; nạp và
điều tiết nƣớc ngầm, điều hòa khí hậu …)
Cây trong vùng đất ngập nƣớc có thể giúp hấp thụ phân bón và thuốc trừ sâu độc
hại, cũng nhƣ các kim loại nặng và các chất độc từ ngành công nghiệp. Một phần
nƣớc thải sinh hoạt thành phố Kolkata của Ấn Độ (dân số đô thị hơn 14 triệu USD)
đƣợc xử lý hiệu quả nhờ các đầm lầy Đông Kolkata.

11


Hay lợi ích điều hòa khí hậu toàn cầu từ dƣ lƣợng cacbon lƣu trữ ở khu đất ngập
nƣớc là 1.343,801 tỷ VND/năm ($60,3 triệu).
Dịch vụ văn hóa (các giá trị du lịch, giải trí, nghỉ dƣỡng, lịch sử, tôn giáo, nghệ
thuật và các lợi ích phi vật chất khác…)
Dịch vụ hỗ trợ (hình thành đất, duy trì các chu trình dinh dƣỡng, chu trình sinh
địa hóa, dòng năng lƣợng, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn đa dạng sinh học…)
Đất ngập nƣớc là nhà của hơn 100.000 loài nƣớc ngọt nổi tiếng và con số này ngày
càng tăng mỗi năm. Chỉ trong 10 năm, 272 loài cá nƣớc ngọt mới đã đƣợc phát hiện
ở Amazon.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng giữa hệ sinh thái/dịch vụ hệ sinh thái với phúc
lợi của con ngƣời có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Con ngƣời, một mặt, sống nhờ
vào hệ sinh thái thông qua các dịch vụ của nó, mặt khác, con ngƣời lại tác động vào
hệ sinh thái thông qua các hoạt động sinh kế trực tiếp (nguyên nhân trực tiếp) và các
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội (nguyên nhân sâu xa/cơ bản) - tác động chính
làm suy thoái các hệ sinh thái và đa dạng sinh học.

Các hoạt động của con ngƣời có thể có những ảnh hƣởng đến việc duy trì cấu
trúc và các chức năng của các hệ sinh thái. Trên thế giới, các hệ sinh thái đang chịu
những ảnh hƣởng do con ngƣời gây ra, nhƣ khai thác quá mức rừng, chuyển đổi đất
sang các hoạt động phát triển khác, phát triển cơ sở hạ tầng, đốt nhiên liệu hóa
thạch, suy thoái đất, xáo trộn các chế độ dòng chảy và ô nhiễm nguồn nƣớc, làm
tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển. Những ảnh hƣởng này thƣờng tác
động sâu sắc đến sức khoẻ và phúc lợi của con ngƣời cũng nhƣ phát triển kinh tế tại
địa phƣơng.
1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý và địa hình:
Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam, có dáng một hình chữ
nhật lệch nằm chếch theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam. Phía Tây tựa lƣng vào núi
rừng trùng điệp, phía Đông nghiêng xuống Vịnh Bắc Bộ với bờ biển khúc khuỷu
nhiều cửa sông.
Tỉnh có tọa độ địa lý từ 20º40’ đến 21º40’ vĩ độ Bắc và từ 106º26’ đến
108º31’kinh độ Đông. Chiều ngang từ Đông sang Tây, nơi rộng nhất là 195 km.

12


Chiều dọc từ Bắc xuống Nam khoảng 102 km. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc
thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam là đảo Hạ Mai
thuộc xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình
Dƣơng và xã Nguyên Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi
Gót ở đông bắc xã Trà Cổ, thị xã Móng Cái. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Tây nƣớc
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; phía Tây Bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang;
phía Đông và Nam giáp vịnh Bắc Bộ và thành phố Hải Phòng ; phía Tây và Tây
Nam giáp tỉnh Hải Dƣơng và thành phố
Hải Phòng.(Hình 1).


13


Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Ninh

14


Theo số liệu năm 2015, Quảng Ninh có diện tích đất tự nhiên là 610.235 ha trong
đó đất nông nghiệp 450.582 ha; đất phi nông nghiệp 113.331 ha và còn lại là 46.322
ha đất chƣa sử dụng. Ngoài ra là một tỉnh ven biển nên Quảng Ninh có bờ biển khá
dài (250 km), với hàng ngàn đảo lớn nhỏ với diện tích khoảng 98 nghìn ha.
Về đơn vị hành chính, Quảng Ninh có 4 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện (trong đó
có 2 huyện đảo) với tổng số 186 xã, phƣờng, thị trấn. Thành phố Hạ Long là trung
tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của tỉnh nằm cách Hà Nội 170 km về phía tây theo
quốc lộ 18A và cách thành phố cảng Hải Phòng 70 km về phía Nam theo quốc lộ
10.
Xét về vị trí địa lý cho thấy tỉnh Quảng Ninh có điều kiện rất thuận lợi để phát
triển kinh tế, giao lƣu vận chuyển hàng hóa và du lịch. Quảng Ninh nằm trong vùng
tam giác kinh tế trọng điểm (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) nằm ở phía Đông
Bắc của Tổ quốc, tiếp giáp với các đô thị lớn và cửa khẩu quốc tế quan trọng, có thế
mạnh cả về giao thông đƣờng thủy lẫn đƣờng bộ, lại vừa tiếp giáp với khu kinh tế
năng động phía Đông Nam Trung Quốc.
Về địa hình, Quảng Ninh bao gồm cả vùng trung du, miền núi, ven biển. Hơn
80% đất đai là đồi núi. Phía Bắc là vùng đồi thấp, tiếp đó là dãy núi cao thuộc cánh
cung Đông Triều - Móng Cái, phía Nam cánh cung này là vùng đồng bằng ven biển,
cuối cùng là hàng ngàn đảo lớn nhỏ của Vịnh Bắc Bộ. Địa hình Quảng Ninh bị chia
cắt mạnh và nghiêng dần theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam tạo ra hai vùng hoàn
toàn khác biệt: miền Tây và miền Đông.

Có thể chia thành các loại địa hình sau:
Địa hình quần đảo ven biển bao gồm hàng nghìn đảo lớn nhỏ khác nhau, đƣợc
sắp thành hai hàng nối đuôi nhau chạy từ Mũi Ngọc đến Hòn Gai tạo thành hình
cánh cung song song với cánh cung Đông Triều. Trong số này có những hòn đảo
lớn nhƣ đảo Cái Bầu, đảo Cái Bàn… Độ cao phổ biến của các đảo khoảng trên dƣới
100 m, hiếm thấy những đỉnh cao > 200 m. Đỉnh cao nhất là Núi Hàng trên đảo Cái
Bàn: 445 m, Vạn Hoa trên đảo Cái Bầu: 399 m và một vài đỉnh có độ cao xấp xỉ
300 m trên các đảo khác.
Địa hình đồng bằng duyên hải bao gồm đồng bằng phù sa và đồng bằng xen đồi
thuộc phía Đông các huyện, thị: Móng Cái, Hải Hà, Đầm Hà, Tiên Yên và phía
Nam huyện, thị trấn : Đông Triều, Uông Bí và Yên Hƣng.

15


Địa hình núi thấp bao gồm 2 dải núi Nam Mẫu và Bình Liêu là phức tạp có độ
cao đáng kể nhất của tỉnh Quảng Ninh. Hai dải này đƣợc ngăn cách với nhau bởi
thung lũng sông Ba Chẽ, Phố Cũ và Tiên Yên.
Đây là cánh cung cuối cùng của vùng Đông Bắc và thƣờng đƣợc gọi là cánh
cung Đông Triều. Ban đầu dải cánh này chạy theo hƣớng Tây - Đông sát bờ vịnh
Bắc Bộ ở khu vực Đông Triều - Hòn Gai, sau đó càng lên phía Bắc càng lùi dần vào
phía trong đất liền. Trong đó, phía Đông Bắc có độ cao 500 - 1.000 m chiếm ƣu thế.
Tại đây có một số đỉnh cao > 1000 m cấu tạo bởi đá phun trào ryolit, nhƣ Cao Xiêm
(1.330 m), Châu Lãnh (1.507 m). Phía Tây Nam núi thấp hơn, độ cao ƣu thế 200 500 m, những đỉnh cao 1000 m rất hiếm, đạt tới mức này có Yên Tử (1.063 m), Am
Váp (1.094 m). Còn lại trong vùng là những núi thấp, phổ biến ở độ cao 400 - 600
m. Khu vực giữa hai dải núi Nam Mẫu và Bình Liêu tạo nên cánh cung Đông Triều
là một vùng đồi - núi thấp cao 200 - 300 m đôi khi lên đến 500 m, với những bồn
địa giữa núi rộng lớn.
Điều kiện khí hậu, thủy văn:
Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang đặc điểm

chung của khí hậu Miền Bắc, vừa có nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Các
quần đảo ở huyện Cô Tô và Vân Đồn… có đặc trƣng của khí hậu đại dƣơng. Theo
trung tâm dự báo khí tƣợng, thủy văn Quảng Ninh trong những năm từ 2010 đến
2015 khí hậu Quảng Ninh có những đặc trƣng sau:
Nhiệt độ bình quân hàng năm từ 22ºC - 23ºC, tổng tích ôn trung bình năm từ
7500ºC - 8500ºC. Nhiệt độ trung bình năm ở các vùng biến động theo độ cao: vùng
núi cao nhiệt độ trung bình năm là 19ºC, vùng núi thấp nhiệt độ trung bình 19ºC 21ºC, vùng đồng bằng nhiệt độ trung bình > 21ºC. Độ ẩm tƣơng đối trung bình các
tháng trong năm là 85 - 87%. Do mƣa lớn và tập trung nên thƣờng xảy ra úng lụt
vào tháng 6 và tháng 7. Tháng 4 và tháng 10 thƣờng xảy ra hạn hán ảnh hƣởng đến
sản xuất nông nghiệp.
Quảng Ninh có lƣợng mƣa phân bố không đồng đều, giảm dần từ Móng Cái đến
Đông Triều. Lƣợng mƣa bình quân năm từ 2000 - 2500 mm, năm cao nhất có thể
lên tới 3000 - 3500 mm, năm thấp nhất không dƣới 1500 mm, mùa mƣa từ tháng 5
đến tháng 10. Khoảng 80% lƣợng mƣa tập trung vào từ tháng 6 đến tháng 9.
Vùng có lƣợng mƣa > 2500 mm/năm từ Ba Chẽ - Tiên Yên ra Móng Cái. Mùa
mƣa từ tháng 4 đến tháng 10: lƣợng mƣa > 100 mm/tháng. Tháng 8 thƣờng mƣa lớn

16


nhất. Bốc hơi < Mƣa ở phần lớn các tháng trong năm, ít bị khô hạn, nhiều mƣa
phùn, sƣơng mù.
Vùng có lƣợng mƣa khoảng 1600 - 1800 mm: Yên Hƣng, Uông Bí, Đông Triều
và Bình Liêu: mùa mƣa từ tháng 5 đến tháng 10 với lƣợng mƣa trên 100 mm/tháng;
lƣợng bốc hơi khoảng 1000 mm/năm. Các tháng từ 11 - 12 đến tháng 3 lƣợng bốc
hơi lớn hơn lƣợng mƣa, bị khô hạn.
Toàn tỉnh có trên dƣới 30 con sông dài trên 10 km chảy theo hƣớng Tây Bắc Đông Nam, các sông hầu hết không có trung lƣu, có độ dốc lớn nên tích lũ và thoát
lũ cũng rất nhanh. Do địa hình chia cắt mạnh, hệ thống sông suối ngắn lƣu lƣợng
khu vực thấp, các hiện tƣợng sụt lớn, xói lở thƣờng xảy ra ở vùng đồi núi.
Quảng Ninh có nguồn nƣớc mặt khá phong phú, tổng lƣợng dòng chảy của 13

con sông lớn là 7,57 tỷ m3 nƣớc, nếu tính cả lƣợng dòng chảy phát sinh trên diện
tích còn lại thì lƣu lƣợng dòng chảy năm 2015 đạt tới 8,78 tỷ m3 nƣớc.
Về nƣớc ngầm: nhìn chung Quảng Ninh có trữ lƣợng nƣớc ngầm không lớn, khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp ở một số khu vực, riêng vùng Cẩm Phả, Hòn Gai
tổng lƣợng nƣớc ngầm khoảng 20.700 m3/ngày đêm.
Trong nhiều năm qua tỉnh đã xây dựng đƣợc trên 70 hồ đập lớn nhỏ (trong đó
đáng kể là hệ thống hồ Tràng Vinh (76 triệu m3) nằm trên địa bàn xã Hải Yến - thị
xã Móng Cái) cấp nƣớc sinh hoạt cho khu vực nội thị và nƣớc cho sản xuất nông
nghiệp, đảm bảo tƣới cho gần 70% diện tích cây lƣơng thực, thực phẩm; hệ thống
hồ Yên Lập (130 triệu m3) đàu mối hồ thuộc địa bàn phƣờng Đại Yên, thành phố Hạ
Long mỗi năm cung cấp nƣớc tƣới cho hơn 10 nghìn ha đất nông nghiệp...
Hệ thống thảm thực vật rừng: tính đến năm 2015 Quảng Ninh có 381.596 ha
rừng, chiếm 62,53% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh; trong đó đất rừng sản xuất
235.278 ha chiếm 61,65% diện tích đất có rừng, rừng phòng hộ có 126.646 ha
chiếm 33,19% diện tích rừng, rừng đặc dụng có 25.712 ha chiếm 6,7% diện tích
rừng. Tổng trữ lƣợng các loại rừng của Quảng Ninh khoảng 6 - 7 triệu m3 gỗ và gần
30 - 35 triệu cây tre nứa các loại. Trong đó, rừng tự nhiên có tổng trữ lƣợng khoảng
4 - 5 ngàn m3 gỗ và 2 – 2,5 triệu cây tre nứa, còn lại là rừng trồng.
Rừng Quảng Ninh phong phú về chủng loại, có 1.027 loài thực vật, thuộc 80 họ
và 6 ngành. Một số ngành lớn nhƣ: ngành mộc lan (Magnoliophyta) có 951 loài,
ngành dƣơng xỉ (Polypodiophyta) có 58 loài, ngành thông (Pinophyta) có 11 loài.
Trong đó có các loài quý hiếm cần đƣợc bảo vệ nhƣ: Lim xanh, sến một, vù hƣơng,
sa nhân, ba gạc…

17


Hàng năm có khả năng khai thác trên dƣới 20.000 m3 gỗ tròn phục vụ nhu cầu
xây dựng và công nghiệp. Ngoài ra, rừng còn cung cấp nhiều lâm sản quý cho nhu
cầu tiêu dùng và xuất khẩu.

Đặc biệt ở Quảng Ninh còn có nhiều loài tre nứa có giá trị vừa làm nguyên liệu
cho công nghiệp sản xuất giấy, công nghiệp xây dựng; vừa làm nguyên liệu cho
xuất khẩu lâm sản.
Hệ thống rừng trồng chủ yếu là các loại cây nhƣ thông, keo tai tƣợng, bạch đàn.
Còn hệ thống cây trồng trong tỉnh rất đa dạng phong phú. Vùng đồi núi có các loại
cây đặc sản, cây ăn quả nhƣ quế, hồi, nhãn vải, cam, quýt, xoài, hồng, mận, mơ, na,
chuối, dứa… Vùng đồng bằng và trung du có các loại cây ngắn ngày nhƣ lúa, ngô,
khoai, đậu đỗ, lạc, mía, sắn và các loại rau màu khác.
1.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Quảng Ninh là tỉnh có dân số trung bình trong cả nƣớc. Giai đoạn 2011 - 2015,
dân số Quảng Ninh tăng 1,18%. Năm 2011, dân số của tỉnh là 1,17 triệu ngƣời, tính
sơ bộ đến hết năm 2015, dân số tăng lên khoảng 1,22 triệu, tăng hơn năm 2011
khoảng 56 nghìn ngƣời. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 57% dân số; trong đó
thành thị có 331 nghìn ngƣời (48,3%), nông thôn có 354,2 nghìn ngƣời (51,7%).
So sánh cơ cấu dân số năm 2011 và 2013: tỷ trọng lao động từ 15 tuổi trở lên
tăng từ 56,6% năm 2011 lên 57% năm 2013; tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 1,78% năm
2011 xuống 1,2% năm 2013. Hiện nay, Quảng Ninh đang trong giai đoạn “cơ cấu
dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào, góp phần thu hút đầu tƣ phát triển kinh tế
xã hội cùng ổn định dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Quảng Ninh gồm 11 dân tộc đang sinh sống đó là: dân tộc Kinh chiếm tuyệt đại
đa số các dân tộc trong tỉnh 85,23%; dân tộc Dao (Mán) chiếm 4,45%; dân tộc Tày
chiếm 2,84%; dân tộc Sán Dìu chiếm 1,85%; dân tộc Sán Chay (còn gọi là Cao Lan
và Sán Chỉ) chiếm 1,1%; dân tộc Hoa chiếm 0,43%.
Còn lại là các dân tộc khác có dân số từ vài chục ngƣời đến vài trăm ngƣời nhƣ:
Nùng, Mƣờng, Thái, Thổ, Khơ Me.
Trong giai đoạn 2011 - 2014, tỷ lệ tăng trƣởng dân số trên toàn tỉnh trung bình từ
1,26 - 1,33%. Riêng giai đoạn 2014 - 2015, tỷ lệ tăng trƣởng dân số toàn tỉnh đạt
0,8% theo tính toán sơ bộ của Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh.
Dân số sống tại thành thị đạt gần 620.200 ngƣời, dân số sống tại nông thôn đạt
557.000 ngƣời. Là tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp du lịch và dịch vụ tăng


18


mạnh nên quá trình di chuyển dân số ở Quảng Ninh diễn ra khá phức tạp. Giai đoạn
2011 - 2015, điểm nổi bật của tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ninh là đã giữ vững
tăng trƣởng kinh tế ở mức cao, bình quân 5 năm đạt 9,2%; năng lực sản xuất và quy
mô kinh tế ngày càng tăng; GDP (tổng sản phẩm nội địa) năm 2015 ƣớc đạt khoảng
100.300 tỷ đồng, gấp 2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu ngƣời năm 2015
ƣớc tính khoảng 3.901 USD gấp hơn 1,5 lần so với năm 2010 (2.560 USD). Thu
ngân sách của tỉnh trong giai đoạn 2011 – 2015 tăng gấp 2,2 lần so với giai đoạn
2006 – 2010, đứng trong nhóm 5 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nƣớc về thu ngân sách.
Giai đoạn 2011 - 2015, Quảng Ninh đã có những bƣớc tiến đáng kể trong phát
triển kinh tế - xã hội, bƣớc đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hƣớng xây
dựng nền kinh tế “xanh”, thoát khỏi sự phụ thuộc vào ngành khai thác than, ƣu tiên
tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ và các ngành công nghiệp phi khai khoáng, đồng
thời đảm bảo hoạt động khai thác than đƣợc sạch hơn và bền vững hơn.
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, phát triển
nhiều sản phẩm mới, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp và xây dựng tăng trƣởng
bình quân 5 năm đạt 7,6%/năm. Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp đã có dịch
chuyển theo hƣớng giảm dần tỷ trọng công nghiệp khai thác mỏ, tăng tỷ trọng các
ngành công nghiệp sạch, bền vững hơn, cụ thể: tỷ trọng ngành khai thác mỏ từ 42%
năm 2010 giảm còn 29,9% năm 2015, ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp
điện từ 7,4% năm 2010 tăng lên 33% năm 2015.
Hoạt động dịch vụ phát triển đa dạng, tăng trƣởng bình quân 5 năm (2011 –
2015) đạt 11,7%/năm. Tổng du khách đến Quảng Ninh 5 năm ƣớc đạt 36,1 triệu
lƣợt khách, tăng bình quân 7,4%/năm; trong đó: khách quốc tế là 12,6 triệu lƣợt,
tăng bình quân 5,5%/năm.
Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, tăng trƣởng bình quân đạt 7,4%/năm.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, Quảng Ninh đã hoàn thành 100% công tác lập quy

hoạch xây dựng xã nông thôn mới và thành công trong việc xây dựng mô hình sản
xuất nông nghiệp gắn với du lịch tại xã Yên Đức, thị xã Đông Triều. Đặc biệt,
chƣơng trình mỗi xã, phƣờng một sản phẩm OCOP (One commune, one product,
viết tắt là OCOP) của tỉnh đã thúc đẩy các doanh nghiệp địa phƣơng hợp tác phát
triển góp phần gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp; qua đó gia tăng thu nhập, giải
quyết việc làm cho lao động địa phƣơng. Đến nay, toàn tỉnh đã có 220 tổ hợp tác
(2.420 thành viên) và 291 hợp tác xã (hơn 180.000 xã viên) đƣợc thành mới theo
hƣớng cộng đồng, liên kết sản xuất.

19


Tốc độ tăng trƣởng kinh tế của tỉnh tăng nhanh và ổn định, cơ cấu kinh tế thay
đổi đều ở cả 3 lĩnh vực cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu GDP trong nền kinh tế là
phù hợp với định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho tỉnh phát triển
kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa xứng đáng là một trong 3 tỉnh trọng điểm của
tam giác tăng trƣởng kinh tế của Bắc Bộ: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Nhìn chung, tỷ lệ đất trống đồi trọc còn khá nhiều, quá trình lấn biển, phá rừng
ngập mặn nhanh. Chất lƣợng đất suy giảm do xói mòn, rửa trôi. Khai thác than và
vật liệu xây dựng đã làm cho diện tích đất ô nhiễm tăng lên. Tại vùng khai thác
than, đất bị ô nhiễm các kim loại nặng, đất bị xói mòn nặng. Xu hƣớng chất lƣợng
đất tại các khu có hoạt động khai thác than sẽ đƣợc cải thiện nếu công tác hoàn
nguyên và phủ xanh đất trống đƣợc tăng cƣờng. Chất lƣợng đất của tỉnh nói chung
và chất lƣợng đất trong sản xuất nông nghiệp nói riêng đang ngày càng bị suy thoái
và giảm mạnh do sức ép của gia tăng dân số, phát triển kinh tế dẫn đến khai thác
quá mức, mất đất nông nghiệp do chuyển thành cơ sở hạ tầng xây dựng…
Bảng 1. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội ở Quảng Ninh đến năm 2020
STT Loại chỉ tiêu

Năm 2010


Năm 2020

1

Dân số (nghìn ngƣời)

1.124,1

1.237,3

2

GDP (tỷ đồng)

36.341,3

167.405,0

Cơ cấu GDP (%)

100,0

100,0

- Công nghiệp, xây dựng

46,3

48,5


- Dịch vụ

49,7

50,1

- Nông, lâm nghiệp, thủy sản

4,0

1,4

GDP/ngƣời (USD)

1.757,1

6.292,7

3

4

(Nguồn :Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường- Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Quảng Ninh)

20


CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu đƣợc thực hiện với các vùng ĐNN ở Quảng Ninh bao gồm sông Đá
Bạc (Bạch Đằng ), hồ Yên Lập và vùng sản xuất nông nghiệp (vùng trồng lúa nƣớc)
Nội dung chủ yếu của nghiên cứu bao gồm:
- Đánh giá hiện trạng một số vùng sông, hồ, vùng trồng lúa nƣớc ở tỉnh Quảng Ninh
- Đề xuất một số giải giải pháp sử dụng hợp lý các vùng đất ngập nội địa ở tỉnh
Quảng Ninh
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp kế thừa : kế thừa các thông tin, số liệu thống kê về điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội, đa dạng sinh học, hiện trạng sử dụng tài nguyên, các hoạt
động quản lý, bảo tồn nguồn tài nguyên…cũng nhƣ các kết quả nghiên cứu đã đƣợc
công bố.
Phƣơng pháp điều tra, khảo sát thực địa: sử dụng phƣơng pháp đánh giá nhanh
nông thôn (RRA) hay điều tra thông qua bảng câu hỏi mở. Các hộ gia đình điều tra
(15 hộ) đƣợc lựa chọn ngẫu nhiên trong các hộ dân sống xung quanh 3 vùng đất
ngập nƣớc hồ Yên Lập (tp Hạ Long ), sông Đá Bạc, vùng trồng lúa nƣớc ở huyện
Đông Triều.
Nội dung thông tin thu thập tập trung vào các vấn đề liên quan đến vai trò của các
vùng đất ngập nƣớc, các nguồn tài nguyên do đất ngập nƣớc mang lại, các hoạt
động sinh kế liên quan đến các vùng đất ngập nƣớc, các vấn đề về khái thác và bảo
vệ các vùng đất ngập nƣớc ở từng địa phƣơng.
Nghiên cứu tập trung vào các dịch vụ hệ sinh thái dựa trên phƣơng pháp tiếp cận
đánh giá thiên niên kỷ các hệ sinh thái (UNEP, 2005). Theo đó dịch vụ hệ sinh thái
đƣợc chia làm 4 nhóm: dịch vụ cung cấp (thực phẩm, nƣớc ngọt, gỗ và chất đốt…),
dịch vụ hỗ trợ (hình thành đất, sản xuất lƣơng thực, cân bằng khí quyển, chu trình
dinh dƣỡng…), dịch vụ văn hóa (giáo dục, giải trí, du lịch, lịch sử…) và dịch vụ
điều tiết (điều hòa khí hậu, điều tiết lũ, kiểm soát dịch bệnh, lọc nƣớc…)
Phƣơng pháp phân tích, đánh giá tổng hợp dựa trên mô hình DPSIR:
Đây là phƣơng pháp do Tổ chức Môi trƣờng Châu Âu xây dựng năm 1999 để xác
định, phân tích và đánh giá các mối quan hệ phức tạp giữa hệ thống môi trƣờng tự

nhiên và các yếu tố kinh tế, xã hội. Với cách xây dựng mô hình phân tích nhận thức

21


theo dạng chuỗi, công cụ DPSIR bao gồm 5 hợp phần có mối quan hệ tƣơng tác qua
lại theo 2 chiều, chiều tác động và chiều phản hồi. Mô hình này đƣợc sử dụng nhƣ
là một công cụ phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến ĐNN sông, hồ tỉnh
Quảng Ninh.
Đây là phƣơng pháp dùng mô hình nhận thức để xác định, phân tích và đánh giá
các chuỗi quan hệ nguyên nhân- kết quả bao gồm nguyên nhân gây ra các vấn đề
môi trƣờng, hậu quả của chúng và các biện pháp ứng phó cần thiết. Các thông số chỉ
thị bao gồm các thông số về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của vùng nghiên
cứu và đƣợc chia thành 5 hợp phần : Động lực- Áp lực- Hiện trạng - Tác động - Đáp
ứng. Các hợp phần này có mối quan hệ tƣơng tác qua lại theo hai chiều: chiều thuận
và chiều phản hồi. Đây là một công cụ hiệu quả đƣợc đề tài sử dụng để xác định,
phân tích và đánh giá các mối quan hệ rất phức tạp của hệ thống môi trƣờng tự
nhiên và hệ thống kinh tế- xã hội tại vùng núi Đông Bắc nƣớc ta.
Các hoạt động của con ngƣời làm gia tăng hoặc giảm nhẹ áp lực lên môi trƣờng.
Động lực gây tác động đến môi trƣờng đƣợc xem là bắt đầu từ các hoạt động của
con ngƣời, chủ yếu là các động lực từ sự phát triển kinh tế và văn hóa xã hội của
con ngƣời (Hình 2).
Động lực
Hoạt động nhân sinh gây ra các áp
lực: Sản xuất (nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông,…), tiêu dùng,
các hoạt động khác ngoài hệ thống
kinh tế…

Áp lực

Sức ép trực tiếp từ các hoạt động
nhân sinh lên môi trƣờng: phát thải
chất thải, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, sử dụng đất, làm biến
môi trƣờng…

đổi

Sự phản hồi

Trạng thái

Các hoạt động của con ngƣời giải quyết
các vấn đề môi trƣờng: ngăn ngừa ô
nhiễm, giảm hoạt động, giảm thiểu suy
thoái môi trƣờng, sử dụng bền vững tài

Các điều kiện và xu hƣớng biến
đổi môi trƣờng tự nhiên: không
khí, nƣớc, đất, nhiệt độ khí quyển,
các mẫu hình tiến hóa…

nguyên…

Tác động
Các tác động đến con ngƣời do biến đổi
trạng thái môi trƣờng tự nhiên: ảnh hƣởng
xấu đến sức khỏe con ngƣời, thiệt hại về
kinh tế, các quá trình sản xuất, lũ lụt…


Hình 2. Mô hình DPSIR trong phân tích theo chuỗi nhân quả
(Nguồn: ISTAT, C.Costantino, F. Falcitelli, A. Tuolini, OESD – Workshop,
Paris, may 14-16. 2003)

22


×