MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1...............................................................................................................................5
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT
NAM - LIÊN BANG NGA......................................................................................................5
1.1. Khái niệm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện...........................................................5
1.2.Tình hình thế giới và tình hình hai nước Việt Nam và Liên bang Nga những năm đầu
thế kỉ XXI...............................................................................................................................7
1.3. Khái quát quan hệ Việt - Nga trước năm 2012 và Quan hệ Việt - Nga trong chính
sách đối ngoại của mỗi nước...............................................................................................20
CHƯƠNG 2.............................................................................................................................27
THỰC TRẠNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT NAM LIÊN BANG NGA TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2015........................................................27
2.1. Trên lĩnh vực chính trị..................................................................................................27
2.2. Trên lĩnh vực an ninh - quân sự...................................................................................33
2.3. Trên lĩnh vực kinh tế.....................................................................................................35
2.4. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội và khoa học - công nghệ.............................................45
CHƯƠNG 3.............................................................................................................................57
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT NAM LIÊN BANG NGA ĐẾN NĂM 2020 VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................57
3.1. Triển vọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang
Nga đến năm 2020...............................................................................................................57
3.2. Một số khuyến nghị nhằm tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt
Nam - Liên bang Nga...........................................................................................................62
KẾT LUẬN.............................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................75
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mối quan hệ gắn bó Việt Nam và Liên bang Nga ngày nay là kết quả và
sự tiếp nối của quá trình xây dựng lâu dài và bền bỉ quan hệ truyền thống hữu
nghị Việt - Xô. Trong những điều kiện lịch sử thay đổi với những biến chuyển
sâu sắc của tình hình thế giới, xuất phát từ lợi ích hai bên, quan hệ Việt - Nga
đã nhanh chóng vượt qua những khó khăn để duy trì và thúc đẩy mối quan hệ
truyền thống đáng quý, đặc biệt là từ năm 1991 khi Liên Xô tan rã.
Bước sang thế kỉ XXI, những thành tựu đạt được trong thời kì cải cách
và đổi mới ở Nga và Việt Nam, cùng với nhu cầu phát triển mối quan hệ giữa
hai nước, Việt Nam và Liên bang Nga đã kí Tuyên bố chung về quan hệ đối
tác chiến lược, trong chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của Tổng
thống Nga V. Putin (3-2001). Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong quan
hệ hai nước cũng như trên phương diện quan hệ quốc tế, đóng góp vào xu thế
hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.
Năm 2012 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt – Nga
khi hai nước nâng cấp quan hệ từ Đối tác chiến lược lên quan hệ Đối tác chiến
lược toàn diện. Điều này thể hiện hai nước thực sự coi trọng và có nhu cầu
hợp tác trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với tình hình mới.
Do tính chất quan trọng của mối quan hệ trên, việc nghiên cứu một
cách sâu sắc và toàn diện về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam Liên bang Nga có ý nghĩa cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn đối với nước ta.
Những kết luận khoa học rút ra từ quá trình nghiên cứu sẽ góp phần thiết thực
phục vụ việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta. Chính vì lí do trên tác giả chọn đề tài: “Quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga” làm luận văn tốt nghiệp đại học
chuyên ngành Thông tin đối ngoại.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga là đề
tài được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Đã xuất hiện những
bài viết về quan hệ truyền thống này trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học - kĩ thuật và quân sự đăng tải trên sách, báo như: “Xuất khẩu
lao động hướng tới đảm bảo an sinh xã hội của Việt Nam: Hiện trạng và giải
pháp”, Bùi Văn Huyên, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 3 - 2013; “Tình hình
nghiên cứu, phê bình, dịch thuật văn học Nga tại Việt Nam những năm gần
đây”, Đỗ Thị Hường, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 10 - 2012; “Hợp tác
chiến lược Việt - Nga: Thực trạng và triẻn vọng”, Vũ Đình Hòe, tạp chí Lý
luận chính, số 9-2006; “Quan hệ Việt - Nga 50 năm một chặng đường lớn”,
Bùi Khắc Bút, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (Bộ ngoại giao), số 32 (02-2000);
Quá trình hình thành và phát triển cộng đồng người Việt ở Liên bang Nga,
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (Bộ ngoại giao), số 80 (03-2010); tác phẩm
“Quan hệ Việt - Nga trong bối cảnh quốc tế mới”, Võ Đại Lược và Lê Bộ
Lĩnh, NXB Thế giới mới, Hà Nội 2005...
Nhìn chung, các công trình, bài viết về chủ đề quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện Việt - Nga đã xem xét mối quan hệ trong sự kế thừa và tiếp nối
mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt - Xô và quan hệ Việt - Nga từ khi
thiết lập đến nay. Nhiều công trình, bài viết phân tích, đánh giá về Quan hệ
đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga trên nhiều khía cạnh, tuy nhiên vẫn
còn thiếu những công trình chuyên sâu, khảo sát một cách toàn diện thực
trạng các lĩnh vực hợp tác và triển vọng của sự hợp tác giữa hai nước. Do vậy,
việc nghiên cứu tổng thể về mối quan hệ Việt - Nga trong khuôn khổ quan hệ
đối tác chiến lược toàn diện là cần thiết để thấy rõ những thuận lợi, khó khăn
và những vấn đề đặt ra, nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
2
Đề tài sẽ làm rõ thực trạng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt
Nam - Liên bang Nga trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và
khoa học - công nghệ từ năm 2012 đến năm 2015 và dự báo mối quan hệ này
đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ:
- Phân tích cơ sở hình thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam Liên bang Nga
- Phân tích thực trạng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên
bang Nga từ năm 2012 đến năm 2015
- Phân tích triển vọng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên
bang Nga đến năm 2020 và đưa ra một số khuyến nghị
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Quan hệ đối tác đối tác chiến lược toàn diện
Việt Nam - Liên bang Nga.
Phạm vi nghiên cứu là quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam Liên bang Nga trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Thời gian nghiên cứu từ năm 2012 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lí luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quan hệ Việt
Nam - Liên bang Nga.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, logic,
dự báo...
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài cung cấp những thực trạng trong quan hệ Việt - Nga từ khi thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện đến nay, triển vọng của mối quan hệ
3
hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đến năm 2020 và một số khuyến
nghị đóng góp cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, gồm 3 chương và
9 tiết:
Chương 1: Cơ sở hình thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam Liên bang Nga
Chương 2: Thực trạng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên
bang Nga từ năm 2012 đến năm 2015
Chương 3: Triển vọng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên
bang Nga đến năm 2020 và Một số khuyến nghị
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN
DIỆN VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA
1.1. Khái niệm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện
Tư duy về đối tác của ngoại giao Việt Nam đã có từ rất sớm. Trong lời
kêu gọi gửi Liên hợp quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “đối
với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp
tác trên mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người tuyên bố “Việt Nam sẽ hợp tác với
mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam”, “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với ai”.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Việt Nam chủ trương xây dựng
chính sách đối ngoại trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”. Đại hội VII nêu rõ
“Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển” và chủ trương này tiếp tục được khẳng định
qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X. Đến Đại hội XI, đường lối đối ngoại đã phát
triển lên tầm cao mới “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Việc thiết lập khuôn khổ quan hệ đối
tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam với các đối tác hiện nay đã
tuân thủ những nguyên tắc đối ngoại bất di bất dịch này nhằm đẩy mạnh chủ
trương hợp tác vì phát triển, vì hòa bình của Việt Nam.
Với việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nga năm 2001, đến
năm 2012, hai nước đã nâng quan hệ lên tầm đối tác chiến lược toàn diện.
Để hiểu đúng về quan hệ đối tác chiến lược, cần làm rõ các khái niệm
như sau:
5
Đối tác (Partnership) là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác - hợp tác
nhưng ở mức độ cao hơn và cụ thể hơn. Các nhà nghiên cứu định nghĩa: “Đối
tác bao gồm hai hay nhiều bên hành động cùng nhau để nâng cao hợp tác
bằng việc thực hiện những mục tiêu chung. Xây dựng những kênh/cơ chế giải
quyết các bất đồng/tranh chấp, biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác và phương
pháp đánh giá tiến bộ cũng như chia sẻ những thành tựu hợp tác”. Hành động
cùng nhau chung mục tiêu và chung lợi ích là những tiêu chí của quan hệ đối
tác. Một mối quan hệ đối tác bao gồm sự gần gũi, bình đẳng, có đi có lại, và
thỏa thuận về những mục tiêu chung. [1]
Chiến lược (Strategic), theo nghĩa rộng là sự quan trọng có tính toàn
cục, then chốt và có giá trị tương đối lâu dài về mặt thời gian, đặc biệt, trong
các bối cảnh liên quan đến việc sử dụng sức mạnh quân sự. “Chiến lược”
dùng để chỉ tính tổng thể, để tạo sự khác biệt với những chi tiết (chiến thuật);
nghệ thuật sử dụng nguồn lực, kết hợp với các giá trị về đạo đức, để đạt được
những mục tiêu. Trong nhiều tình huống, từ “chiến lược” thường liên quan
đến các lĩnh vực an ninh - quân sự mặc dù không hoàn toàn là một thuật ngữ
chỉ dùng trong lĩnh vực an ninh - quân sự.[2]
Đối tác chiến lược (Strategic Partnership) chỉ một mối quan hệ hợp tác
quan trọng (nhưng không nhất thiết chỉ tập trung trong lĩnh vực an ninh - quân
sự) vừa có tính hướng vào mục tiêu cụ thể, vừa có hàm ý mong muốn quan hệ
lâu dài (quan hệ “win - win” cùng có lợi). Đặc điểm của quan hệ đối tác chiến
lược là không có giới hạn về không gian, thời gian; không hạn chế về đối
tượng áp dụng; không hạn chế về lĩnh vực hợp tác, và không nhất thiết phải
mang nội dung an ninh - quân sự. Đối tác chiến lược là một dạng quan hệ hợp
tác phong phú, trong đó thành phần, nội dung, hình thức, mức độ… hoàn toàn
tùy thuộc vào sáng kiến của các bên. Các nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng,
6
hạn chế duy nhất đối với mối quan hệ đối tác chiến lược là “sức tưởng tượng
của các bên tham gia”. [3]1
Từ những khái niệm trên, ta có thể hiểu quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện là mối quan hệ hợp tác quan quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống
như chính trị, kinh tế, văn hóa..., vừa có tính hướng vào mục tiêu cụ thể, vừa
có hàm ý mong muốn quan hệ lâu dài.
1.2. Tình hình thế giới và tình hình hai nước Việt Nam và Liên bang Nga
những năm đầu thế kỉ XXI
1.2.1. Tình hình thế giới
Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga được hình thành và vận
động trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động rất nhanh chóng
và phức tạp, nhất là sau sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố ngày
11/9/2001. Bởi vậy, quan hệ Việt - Nga luôn chịu sự chi phối mạnh mẽ từ bối
cảnh đó, đồng thời cả hai nước cũng cần thiết phải có những điều chỉnh chính
sách đối ngoại thích hợp, xác định đúng những lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ
với nhau nhằm phát triển hợp tác lên ngang tầm của khuôn khổ quan hệ đối
tác chiến lược toàn diện trong điều kiện lịch sử mới.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật và dễ nhận thấy nhất trong bối cảnh quốc tế
những năm đầu thế kỉ XXI đó là tính phức tạp của quá trình hình thành trật tự
thế giới mới do những biến đổi sâu sắc về tương quan lực lượng thế giới. Sau
gần nửa thế kỉ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, trật tự thế giới
hai cực trong vai trò là hình thái biểu hiện của cuộc đối đầu Đông - Tây khốc
liệt đã chấm dứt khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ,
khiến cho tương quan lực lượng thế giới nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ
nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển hàng đầu. Quá trình hình
thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố khó đoán định, trong đó nổi
1
[1], [2], [3] PGS, TS. Đinh Công Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu châu Âu:
“Vài nét về quan hệ đối tác chiến lược”, website Tạp chí Cộng sản, 1/8/2013.
7
lên hai khuynh hướng đối nghịch: Mỹ chủ trương một thế giới đơn cực, trong
khi các trung tâm quyền lực khác như Nga, Trung Quốc, EU, Nhật Bản lại
đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực mà ở đó vị trí bá quyền của Mỹ được
kiềm chế, quyền lãnh đạo thế giới được chia sẻ cho các nước lớn. Việc các
nước Pháp, Đức, Nga kiên quyết chống lại việc Mỹ phát động chiến tranh
chống Irắc (3/2003) là một trong những minh chứng khá rõ nét cho hai
khuynh hướng nêu trên. [4]
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục có bước tiến
nhảy vọt tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ
quốc tế. Nó đã khiến cho sự phát triển kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nhân
tố tri thức - trí tuệ, tạo ra bước ngoặt mang ý nghĩa lịch sử hình thành nền
kinh tế tri thức. Bất kì quốc gia nào nếu không thực sự chú trọng lĩnh vực này,
sẽ không thể có cơ may tham gia đầy đủ vào nền kinh tế thế giới và sẽ bị đẩy
tới nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về mọi phương diện. Do vậy, trong thập niên
đầu thế kỉ XXI, xu thế phát triển kinh tế tri thức ngày càng lôi cuốn và tác
động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc tạo ra những thay đổi căn bản
không chỉ trong đời sống kinh tế - xã hội mà cả trong so sánh lực lượng của
mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Mức độ phát triển kinh tế tri thức đang trở
thành một tiêu chí, thước đo hàng đầu của trình độ phát triển của mỗi quốc gia
hiện nay. Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam và Liên bang Nga đang
phải chạy đua để gia tăng phát triển khoa học - công nghệ. Đối với một nước
quyết tâm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để rút ngắn
khoảng cách với các nước phát triển như Việt Nam, việc phát triển quan hệ
với Nga có một vị trí khá quan trọng, bởi tiềm năng to lớn của Nga về nhiều
mặt, nhất là trên lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. [5]
Thứ ba, toàn cầu hóa kinh tế trở thành một xu thế khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia. Tuy nhiên xu thế này đang bị một số nước
phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có
8
đấu tranh. Toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế,
mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều
sâu. Tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường trên toàn cầu diễn ra phổ biến.
Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến
cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước tăng lên. Toàn cầu hóa thúc đẩy
hợp tác, phân công quốc tế sâu rộng, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các hình
thức hợp tác, liên kết kinh tế trở nên phong phú về nội dung. Mặt khác, những
lợi ích và bất lợi do toàn cầu hóa tạo ra không được chia sẻ một cách đồng
đều, làm trầm trọng thêm khoảng cách phát triển giữa các quốc gia và trong
từng quốc gia. Đứng trước xu thế này, cả Việt Nam và Liên bang Nga đều
phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội, tìm
kiếm vị trí có lợi nhất cho mình, đồng thời hạn chế thấp nhất những nguy cơ,
thách thức. Phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga giúp hai
nước có thể bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình tham gia toàn cầu hóa. [6]
Thứ tư, vấn đề độc lập dân tộc và bình đẳng hóa các mối quan hệ quốc
tế đang tiếp tục là những vấn đề lớn và cấp thiết nhất trong giai đoạn hiện nay
của thời đại. Các dân tộc nhỏ yếu, chậm phát triển không những phải gánh
chịu những thua thiệt về nhiều mặt, mà còn có nguy cơ bị đẩy ra bên lề cuộc
sống hiện đại. Hố ngăn cách giữa “khu vực trung tâm” và “khu vực ngoại vi”
của thế giới tư bản ngày một sâu rộng thêm. Các thế lực đế quốc tiếp tục sử
dụng chính sách xâm lược, chia để trị, can thiệp trắng trợn vào công việc nội
bộ của nhiều nước đang phát triển. Trong so sánh lực lượng thế giới nghiêng
về phía có lợi cho các nước tư bản đế quốc, những nguy cơ đối với chủ quyền
quốc gia, dân tộc và tiến trình bình đẳng hóa các quan hệ quốc tế luôn hiện
hữu tiềm tàng và thách thức nhiều nước, mà cả Việt Nam và Liên bang Nga
cũng không là ngoại lệ. Đây là cơ sở khách quan thúc đẩy sự hợp tác, phối
hợp hoạt động giữa hai nước trong việc tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế
có liên quan. [7]
9
Thứ năm, các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố
cực kì quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới. Trong số 200 quốc gia
thì có một số cường quốc có sức chi phối lớn đối với chính trị, kinh tế thế giới
và quan hệ quốc tế đương đại. Căn cứ vào sức mạnh tổng hợp, ảnh hưởng
thực tế, đặc biệt về kinh tế, khoa học - công nghệ và sức mạnh quân sự, những
quốc gia sau đây được cộng đồng quốc tế coi là nước lớn: Mỹ, Nga, Anh,
Pháp, Đức, Italia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Braxin và Nam Phi, trong
đó Mỹ có ưu thế khá nổi trội, tỏ rõ tham vọng “lãnh đạo thế giới”. Các nước
lớn không phải một khối thống nhất mà là một tập hợp đầy mâu thuẫn. Thời
gian gần đây, quan hệ giữa các nước này diễn ra theo chiều hướng vừa đấu
tranh vừa thỏa hiệp, vì lợi ích của mình mà tránh đối đầu với Mỹ. Tuy không
còn địa vị siêu cường như Liên Xô trước đây, nhưng Nga vẫn là cường quốc
hàng đầu về quân sự và vẫn cố gắng duy trì những khu vực ảnh hưởng truyền
thống quan trọng. Dưới thời Tổng thống V. Putin, vị trí của Nga trên trường
quốc tế đang được cải thiện rõ nét. Quan hệ của Nga cũng như của Việt Nam
với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc có ảnh hưởng quan trọng
đến sự phát triển quan hệ Việt - Nga. [8]
Thứ sáu, một trong những vấn đề đáng lo ngại ở thế kỉ XXI đối với thế
giới là môi trường an ninh toàn cầu luôn bất ổn. Xung đột vũ trang, chiến
tranh cục bộ, những xung đột do mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố ngày càng gia tăng, có thể kể đến
vụ khủng bổ 11/9/2001, chiến tranh Irắc năm 2003...bên cạnh đó, vấn đề tranh
chấp biển đảo giữa các quốc gia thuộc khu vực Đông Á cũng là điểm nóng
của thế giới. [9]
Thứ bảy, ngoài những bất ổn về an ninh, thế giới còn phải đối mặt với
những vấn đề toàn cầu hết sức bức thiết mà không một quốc gia riêng lẻ nào
có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Những vấn đề
đe dọa đến sự sống và sự phát triển bền vững của nhân loại trước hết là tình
trạng ô nhiễm môi trường, tội phạm quốc tế, bệnh dịch hiểm nghèo và nguy
10
hiểm như đại dịch HIV/AIDS, SARS, dịch cúm gia cầm...Tính chất nghiêm
trọng và phức tạp của những vấn đề này đang đòi hỏi các nước, nhất là các
nước phát triển cần đóng góp tích cực hơn nữa trong sự phối hợp, hợp tác
hành động một cách hiệu quả, thiết thực. Trên lĩnh vực này, Việt Nam và Liên
bang Nga hoàn toàn có cơ sở và điều kiện thực tế hợp tác trong khuôn khổ
song phương cũng như đa phương. [10]2
Vận động trong bối cảnh quốc tế nêu trên, quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện, Việt - Nga rõ ràng đang đứng trước những cơ hội và thách thức.
Tính chủ đạo của xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển trong bối cảnh toàn cầu
hóa, cuộc đấu tranh thiết lập trật tự thế giới mới, sự tranh giành ảnh hưởng
của các nước lớn cùng với nhu cầu giải quyết các vấn đề cấp bách toàn
cầu...đang tạo ra nhiều xung lực mới cho việc củng cố và tăng cường hợp tác
chiến lược toàn diện Việt - Nga trong tình hình mới.
1.2.2. Tình hình hai nước
Công cuộc cải cách ở Nga
Ngay sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga bước vào thời kì chuyển đổi mô
hình kinh tế - xã hội với định hướng chính trị “thiên về phương Tây”. Công
cuộc cải cách trước hết là cải cách kinh tế được thử nghiệm theo nhiều mô
thức khác nhau trong những năm đầu thập niên 90, tuy nhiên kết quả đạt được
rất hạn chế do tính chất thái quá của các biện pháp cải cách. Tuy nhiên, từ nửa
cuối thập niên 90, bằng hàng loạt các biện pháp cải cách tiến hành trong mọi
lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội cho đến quân sự, ngoại giao,
nước Nga dưới thời chính quyền của tổng thống V. Putin đã từng bước phục
hồi, vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, tăng cường
được sức mạnh quốc tế và trở thành thành viên đầy đủ của nhóm các nước
phát triển hàng đầu thế giới (G8).
[4], [5], [6], [7], [8], [9], [10] PGS, TS. Vũ Đình Hòe và PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp:
Hợp tác chiến lược Việt - Nga: Những quan điểm, thực trạng và triển vọng, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008.
2
11
Ngay khi trúng cử tổng thống năm 2000, ông Putin đã đưa ra nhiều
biện pháp nhằm tái lập quyền lực tuyệt đối của Kremlin đối với đời sống
chính trị Nga. Một trong những đạo luật đầu tiên của Putin, nhằm tái lập lại
cái mà ông gọi là “quyền lực theo chiều dọc” quay trở lại với hệ thống liên
bang từ trên xuống theo truyền thống để dễ dàng quản lý thống nhất đất nước.
Tổng thống Putin đã thi hành một loạt biện pháp nhằm ổn định tình hình Nga,
cải cách hệ thống chính trị ở Nga như: củng cố các định chế nhà nước trước
hết là hai Viện Quốc hội theo hướng hạn chế bớt quyền của các tỉnh trưởng,
lập Hội đồng nhà nước – cơ quan tham vấn cho Tổng thống; chia nước Nga
thành 7 khu hành chính lớn đặt dưới sự điều hành trực tiếp của các đại diện
toàn quyền của Tổng thống nhằm thống nhất áp dụng luật pháp trên toàn đất
nước; đánh vào giới tài phiệt để hạn chế sự lũng đoạn nền kinh tế, chính trị
Nga. Putin đã ngăn được đà suy thoái của Nga, ổn định chính trị, lập lại trật
tự, kỷ cương, hạn chế bớt ảnh hưởng của kinh tế ngầm, tội phạm, ly khai,
củng cố quyền lực của Tổng thống. Đây được xem là thành công đầu tiên về
đối nội của ông Putin.
Hơn một thập kỷ đã trôi qua kể từ lần đầu tiên đắc cử Tổng thống Nga
vào năm 2000 và cùng với thời khắc ông Putin quay trở lại chiếc ghế quyền
lực tại điện Kremlin năm 2012, nước Nga đã trở thành một cường quốc với sự
ổn định chính trị vững mạnh; nền kinh tế phát triển; đời sống nhân dân được
cải thiện. Nhờ hàng loạt chính sách kinh tế đúng đắn, nền kinh tế Nga đã liên
tục tăng trưởng cao dưới "thời Putin" với tỷ lệ tăng trưởng năm 2000 đạt 10%,
và trong các năm sau đó luôn đạt từ 6,5 đến 7,3%. Kinh tế dần phục hồi sau
khủng hoảng và tăng trưởng đều là yếu tố chính giúp cho đời sống người dân
Nga ngày càng ổn định và nâng cao hơn. Tầng lớp trung lưu ở nước này tăng
đáng kể, chiếm đến 1/5 tổng số dân. Thu nhập bình quân đầu người không
ngừng tăng. Số lượng tỉ phú Nga đứng trong hàng top 5 của thế giới. Trong
một bản báo cáo trình bày trước chính phủ Nga vào tháng 4/2012, ông Putin
đã bày tỏ tin tưởng rằng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nga đã vượt qua
12
cả mốc của thời kỳ trước khi xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế của nước này
đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong năm 2008, 2009 và
thậm chí cả năm khó khăn 2010. Ngày nay, Nga đã đạt mức tăng trưởng cao
nhất trong nhóm 8 quốc gia dân chủ và công nghiệp hàng đầu (G8) và trở
thành một trong những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới. Theo số liệu thống
kê chính thức, mức tăng trưởng GDP 4,2% trong năm 2011 đã đưa Nga trở
thành nền kinh tế có tốc độ phát triển đứng thứ 3 trên thế giới, chỉ sau Trung
Quốc và Ấn Độ. Lĩnh vực nông nghiệp của Nga cũng đạt mức tăng trưởng
22% trong năm 2011 và theo dự báo, quốc gia này sẽ sớm trở thành một nhà
xuất khẩu ngũ cốc lớn thứ hai trên thế giới. Thêm vào đó, cùng với những nỗ
lực không ngừng của ông Putin và Medvedev, nước Nga đã vượt qua những
trở ngại cuối cùng để được trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) – vốn được xem là sẽ tạo động lực và mở ra nhiều
cơ hội mới để phát triển kinh tế đất nước. [11]3
Nước Nga dưới thời Tổng thống Putin, từ một đất nước khủng hoảng,
rệu rã và yếu đuối toàn diện đã trở thành một nước Nga kỷ cương, mạnh mẽ
và đầy sức sống, làm thế giới thấy lại hình ảnh của một nước Nga hùng mạnh
thuở nào. Những thành tựu đáng kể của công cuộc cải cách đầu thế kỷ XXI và
sự hướng mạnh các hoạt động đối ngoại sang châu Á - Thái Bình Dương tạo
điều kiện cho việc tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
3
[11] T.L: “Tổng thống V. Putin và một giai đoạn phát triển mới cho nước Nga”, Báo điện
tử đảng cộng sản Việt Nam, 9/5/2012
13
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang
thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về phát triển kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng nhanh. Giai đoạn 1986 - 1990 là giai đoạn đầu của công cuộc đổi
mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục
được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm
(1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất
quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất
hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm
[12]4. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước
đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu
tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý
cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống
kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động
lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995, đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy
thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng như: đã khắc
phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao,
liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình
quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông
nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương
4
[12] Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 -
2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141
14
thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986
- 1990 [13]5. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương
đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng
và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được
tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [14]6.
Giai đoạn 1996 - 2000 là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng
của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai
đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế
nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%;
trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng
10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% [15] 7. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP
năm 2000 tăng hơn hai lần” [16]8.
Giai đoạn 2001 - 2005 là giai đoạn sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này
đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã
đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,
theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân
7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công
nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô
tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng,
5
[13] Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 143
6
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 1996, tr. 12
7
[15] Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 144
[16] Hà Đăng: Đổi mới - Những thành tựu lớn, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Sđd, tr.
572
8
15
tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu
đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát
triển có thu nhập thấp (500 USD) [17] 9. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự
ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc
phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của
từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các
cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng
lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu
nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008),
nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn
FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số
vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch
đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết
đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt
101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 [18]10.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt
7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao
hơn bình quân các nước trong khu vực [19] 11. Như vậy, trong vòng 20 năm
9
[17] Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 146
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
10
Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 151
11
[19] Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015, chinhphu.vn
16
(1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao
ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung; quy
mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000
(thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) [20]12.
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy
thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế
giới gặp khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng
4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư
phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu
hàng hóa tăng 18,3% [21]13. Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ
USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ
170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký
đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến
nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD [22]14.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển
khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất
lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp
phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải
thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền
kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú
trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu
vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng
trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm
(2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
12
[20] Dương Ngọc: Kinh tế Việt Nam: 67 năm qua các con số, VnEconomy
13
[21] Công bố số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2012, Cổng thông tin điện tử Bộ Kế
hoạch và Đầu tư
14
[22] Dương Ngọc: Tài liệu đã dẫn
17
Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần
kinh tế. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu
quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu
của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một
bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy
quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư
nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm
năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng
tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao
thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều
người dân.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế
vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một
bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng
được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song
phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế
đối ngoại.
Về phát triển các mặt xã hội, nước ta thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Thành công nổi
18
bật, đầy ấn tượng đầu tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần
kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo
tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một
trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những
năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/người/năm [23] 15, nước ta
đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm, từ năm 1991 đến năm 2000, trung
bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động
có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung
bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con
số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển,
góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng
40% năm 2010 [24]16. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn
tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992
xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB)
phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả
nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm
từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như
vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một
nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên
hợp quốc đã đề ra [25] 17. Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm
nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt
15
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 20
[24] Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Lưu hành nội bộ, H, 4-2010, tr. 55
[25] Cơ quan Đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam: Đưa các mục tiêu Thiên niên kỷ đến
với người dân, H, 2002, tr. 1
16
17
19
Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là
nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á [26]18.
Về chính sách đối ngoại, Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của tất cả các nước” đã đem lại những kết quả rất tích cực. Đến nay, Việt Nam
có quan hệ ngoại giao với 184 nước trên thế giới và quan hệ thương mại với
230 nước và vùng lãnh thổ. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực của
nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN,
APEC, ASEM...
Những thành công của Việt Nam trong công cuộc đổi mới ngày càng
thu hút mối quan tâm của Liên bang Nga; đồng thời sự phát triển của Liên
bang Nga trong cải cách được Việt Nam quan tâm, đánh giá cao. Vì thế, cả
Việt Nam và Liên bang Nga đều coi trọng tăng cường quan hệ mọi mặt với
nhau, tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu để đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện Việt - Nga phát triển.
1.3. Khái quát quan hệ Việt - Nga trước năm 2012 và Quan hệ Việt - Nga
trong chính sách đối ngoại của mỗi nước
1.3.1. Khái quát quan hệ Việt - Nga trước năm 2012
Quan hệ Việt - Nga ngày nay là sự kế thừa quan hệ Việt - Xô hữu nghị
giàu truyền thống trước đây. Được thiết lập từ ngày 30/1/1950, quan hệ Việt Xô phát triển nhanh chóng và ngày càng trở thành một trụ cột trong chính
sách đối ngoại của Liên Xô ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương.
Liên Xô tích cực ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam một cách toàn diện trong kháng
chiến chống xâm lược và xây dựng đất nước, coi cách mạng Việt Nam là bộ
phận quan trọng của cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới.
18
[26] Nguyễn Duy Quý: Công cuộc đổi mới: những thành tựu và bài học kinh nghiệm,
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
20
Bước vào giai đoạn sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, quan hệ Việt
- Xô phát triển lên tầm cao mới với việc hai nước ký kết Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác (3/11/1978). Liên Xô quyết định cung cấp cho Việt Nam nguồn
vốn lớn để xúc tiến công nghiệp hóa, phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng
cao phúc lợi nhân dân trong khuôn khổ các kế hoạch 5 năm. Sự đồng thuận về
ý thức hệ tư tưởng khiến cho quan hệ hợp tác giữa hai nước mang ý nghĩa hữu
nghị đặc biệt. Việc ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Xô đã hình
thành cơ chế đảm bảo an ninh tương hỗ giữa hai nước, theo đó Liên Xô sử
dụng cảng Cam Ranh, căn cứ không quân và hải quân Đà Nẵng, do đó tăng
cường sức mạnh và tầm hoạt động của lực lượng hải quân ở Thái Bình
Dương, tạo thế cân bằng lực lượng với Mỹ và các nước lớn khác.
Đến thời kì Liên Xô tiến hành cải tổ (1985 -1991), do những diễn biến
phức tạp trong đời sống chính trị và những khó khăn tăng lên trong nền kinh
tế Liên Xô đã khiến cho quan hệ Việt - Xô có sự trì trệ, nhất là trên lĩnh vực
kinh tế - thương mại, cho dù Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (11/1978) vẫn còn
hiệu lực.
Trước những diễn biến tình hình mỗi nước và bối cảnh quốc tế nửa cuối
thập niên 90, Việt Nam và Nga đều nhận thức được tầm quan trọng của việc
thúc đẩy quan hệ lên một giai đoạn mới. Sự tương đồng về nhu cầu và khả
năng bổ sung lẫn nhau về nhiều mặt trong cải cách kinh tế ở Nga và công
cuộc đổi mới theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam là một
nhân tố chủ đạo thúc đẩy hai nước đưa quan hệ đi vào quỹ đạo ổn định lâu
dài. Sự gặp gỡ của nhu cầu hợp tác và quyết tâm chính trị nhằm tăng cường
quan hệ hai nước được thể hiện nổi bật trong Tuyên bố chung Việt - Nga do
Chủ tịch Trần Đức Lương và Tổng thống B. Enxin ký ngày 25/8/1998. Đây là
một trong những tiền đề quan trọng để xác lập quan hệ đối tác chiến lược Việt
- Nga năm 2001 và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước năm
2012.
21
Tháng 3 năm 2001 trong chuyến thăm chính thức Việt Nam, Tổng
thống Liên bang Nga đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiuến lược
giữa Nga và Việt Nam. Các chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng
thống Liên bang Nga đã diễn ra vào tháng 11 năm 2006 và tháng 10 năm
2010. Từ năm 2001 đến năm trước năm 2012, việc trao đổi các đoàn đại biểu
theo đường nghị viện đã được triển khai như: Tháng 1 năm 2003 và tháng 4
năm 2009 Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã đến Moscva. Các giao tiếp liên
nghị viện được phát triển. Tháng 11 năm 2009 đã ký Hiệp định về hợp tác
giữa Đảng chính trị toàn Nga “Nước Nga chính nghĩa” và Đảng Cộng sản
Việt Nam. Các mối quan hệ truyền thống chặt chẽ giữa Đảng Cộng sản Liên
bang Nga và Đảng Cộng sản Việt Nam được duy trì.
Trụ cột chính của quan hệ đối tác chiến lược Nga-Việt trong lĩnh vực
kinh tế vẫn là tổ hợp dầu khí. Xí nghiệp liên doanh “Vietsovpetro” được thành
lập năm 1981 (những bên tham gia – Công ty “Zarubezhneft”và Tập đoàn dầu
khí Việt Nam “Petrovietnam”.Xí nghiệp này chiếm hơn một nửa lượng dầu
khai thác tại Việt Nam. Ngày 27 tháng 12 năm 2010 tại Hà Nội đã ký Hiệp
định giữa Chính phủ Liên bang Nga và Chính phủ Cộng hào Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực thăm dò địa chất và khai thác dầu
khí tại thềm lục địa Việt Nam trong khuôn khổ Xí nghiệp liên doanh
“Vietsovpetro” thời hạn hiệu lực đến 31 tháng 12 năm 2030.
Quan hệ hợp tác chiến lược Việt - Nga trước năm 2012 còn đạt được
nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học, điển hình là hoạt động hiệu quả
của Trung tâm hỗn hợp nghiên cứu khoa học nhiệt đới và công nghệ Nga-Việt
tại Hà Nội được thành lập theo Hiệp định liên Chính phủ ngày 7 tháng 3 năm
1987; trong y tế như khai trương Phòng khám mắt quốc tế Việt-Nga, tháng 11
năm 2008 tại Hà Nội. Bên cạnh đó, mối quan hệ văn hoá Nga-Việt phát triển
không ngừng. Tại Nga và Việt Nam thường xuyên tổ chức Những ngày văn
hoá quốc gia (Những ngày văn hoá Nga tại Việt nam đã diễn ra vào tháng 4
năm 2007 và tháng 11 năm 2010), Những ngày văn hoá Việt Nam tại Nga –
22
tháng 9 năm 2008) Những ngày Moscva và Hà Nội (những ngày Hà Nội tại
Moscva được tổ chức vào tháng 7 năm 2008). Tuần lễ phim Nga (gần đây
được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2010) các buổi biểu diễn của các
đoàn nghệ thuật, triển lãm tranh, ảnh, tem thư. Trung tâm văn hoá và khoa
học Nga tại Hà Nội (hoạt động từ tháng 9 năm 2003) đóng vai trò đáng kể
trong lĩnh vực hợp tác nhân văn: Quỹ “Hoà bình Nga” khai trương năm 2010,
các trung tâm Nga tại Viện quốc tế thuộc Đại học quốc gia Việt Nam tại Hà
Nội và Đại học sự phạm tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.2. Quan hệ Việt - Nga trong chính sách đối ngoại của mỗi nước
1.3.2.1. Chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam
Việt Nam từ trước tới nay luôn có một vị trí nhất định trong chính sách
đối ngoại của Liên Xô trước đây cũng như Liên bang Nga hiện nay ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nga đối
với khu vự châu Á- Thái Bình Dương là tiền đề quan trọng để Nga có thể lấy
lại vị thế cường quốc Á - Âu của mình. Với tính toán như vậy, Liên bang Nga
coi trọng mối quan hệ với Việt Nam và xác định Việt Nam có một vị trí quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Nga ở khu vực này.
Về địa - kinh tế, Việt Nam nằm trong khu vực có sự phát triển kinh tế
năng động nhất thế giới hiện nay. Mặt khác, sau những nỗ lực vượt bậc Việt
Nam đã và đang hội nhập nhanh vào quá trình hợp tác liên kết khu vực, uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, do vậy Việt Nam
có thế đóng vai trò là cầu nối giúp Nga mở rộng và phát triển quan hệ với các
nước ASEAN cũng như với các nước khác ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Việt Nam đã tích cực phối hợp để Liên bang Nga trở thành một bên
đối tác đối thoại của ASEAN. Cũng từ mối quan hệ hữu nghị truyền thống với
Liên bang Nga, Việt Nam đã được cử làm Điều phối viên đầu tiên của
ASEAN điều phối quan hệ ASEAN - Nga (1996 - 1997). Trong vai trò điều
phối viên, Việt Nam đã nỗ lực để thúc đẩy quan hệ đối thoại và hợp tác giữa
23
ASEAN với Nga phát triển trong những năm cuối của thế kỷ 20. Cụ thể, trong
Năm Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam đã đăng cai và đồng chủ trì Hội nghị
cấp cao ASEAN - Nga lần thứ hai. Tại Hội nghị, hai bên khẳng định cam kết
tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ ASEAN - Nga, củng
cố các cơ chế đối thoại hiện có, hướng tới việc nâng quan hệ lên một tầm cao
mới. Các nước ASEAN đã đạt được sự thống nhất ủng hộ Nga tham gia vào
các diễn đàn khu vực liên quan do ASEAN đóng vai trò chủ đạo, trong đó có
Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN
mở rộng (ADMM+). Trên cơ sở đó, Nga đã tham gia Hội nghị cấp cao Đông
Á lần thứ 5 năm 2010 tại Việt Nam với vai trò là khách mời và tham gia chính
thức từ năm 2011. Việt Nam là cầu nối giữa ASEAN và Nga, nỗ lực xây dựng
tiếng nói chung trong các vấn đề quan trọng của quốc tế và khu vực châu Á Thái Bình Dương, đặc biệt trong những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp lợi ích
chung của cả hai bên đối với việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định khu
vực, trong đó có vấn đề Biển Đông. Việt Nam luôn chủ động và tích cực cùng
các nước ASEAN và Nga xác định những điểm còn hạn chế trong hợp tác
giữa hai bên, để tìm ra các giải pháp để thúc đẩy quan hệ ASEAN - Nga phát
triển thực chất và hiệu quả.
Về địa - chiến lược, Việt Nam có một vị trí quan trọng ở Đông Nam Á.
Từ Việt Nam có thể kiếm soát những tuyến đường hàng hải quốc tế quan
trọng qua biển Đông. Chính vì vậy, Việt Nam luôn là nơi tranh giành ảnh
hưởng của các nước lớn. Mặc dù, biển Đông không tiếp giáp trực tiếp với Nga
nhưng do yêu cầu chiến lược nên Nga có sự ràng buộc về lợi ích quân sự,
hàng hải, kinh tế, an ninh, chính trị tại đây. Mặt khác, chính sách đối ngoại
của Nga ngày nay trước hết nhằm mục đích phát triển kinh tế. Liên bang Nga
đánh giá cao những thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam, chính sách
đối ngoại rộng mở của Việt Nam là phù hợp với lợi ích của Nga. Hơn nữa,
trong khi Nga vẫn chưa có đủ khả năng để thâm nhập vào thị trường mới, đặc
biệt là các nước công nghiệp phát triển, thì Nga vẫn có vai trò khá quan trọng
24