Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO phát triển lối sống văn hóa của thanh niên các khu công nghiệp tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.94 KB, 108 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC

Trang
3

ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN LỐI SỐNG VĂN
HÓA CỦA THANH NIÊN CÁC KHU CÔNG
1.1.

NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
Quan niệm về lối sống và thực chất phát triển lối

11

sống văn hóa của thanh niên các khu công nghiệp ở
1.2.

tỉnh Bắc Ninh
Một số nhân tố cơ bản tác động đến phát triển lối

11

sống văn hóa của thanh niên các khu cơng nghiệp ở
tỉnh Bắc Ninh
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

33

PHÁT TRIỂN LỐI SỐNG VĂN HÓA CỦA


THANH NIÊN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở
2.1.

TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
Thực trạng phát triển lối sống văn hóa của thanh

46

niên các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay
2.2.

và nguyên nhân
Giải pháp cơ bản phát triển lối sống văn hóa của

46

thanh niên các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

71
90
92
97

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chiến lược phát triển văn hóa, con
người với tư cách là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội ngày càng trở
nên quan trọng. Như trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã nhất
quán khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh” [18, tr.126].
Thanh niên là một bộ phận quan trọng của xã hội, là lực lượng đơng
đảo góp phần to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Đây là lứa tuổi đang
hoàn thiện và phát triển toàn diện về mọi mặt. Thanh niên là chủ nhân tương
lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người - một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Do vậy, cần quan
tâm, bồi dưỡng mọi mặt cho thanh niên; trong đó xây dựng và phát triển lối
sống văn hóa của thanh niên là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, Bắc Ninh cơ bản là tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại,
các chỉ tiêu kinh tế - văn hóa - xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
trong đó có sự phát triển về lĩnh vực văn hóa, tinh thần của nhân dân. Đặc biệt
là tốc độ phát triển công nghiệp hóa, đơ thị hóa trong tỉnh ngày càng nhanh
tạo ra sự biến đổi và chuyển dịch cơ cấu dân số lớn, tỷ lệ thanh niên công
nhân ngày càng cao và có xu hướng tăng mạnh đặt ra vấn đề xây dựng và phát
triển lối sống văn hóa cho thanh niên các khu công nghiệp trên địa bản tỉnh.


3


Hơn nữa, do sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội, sự bùng nổ của
công nghệ thông tin và xu thế hội nhập,… đã khiến cho quá trình giao lưu văn
hóa ngày càng phức tạp, làm cho đời sống văn hóa của nhân dân, nhất là
thanh niên ở các khu công nghiệp trong tỉnh vừa đa dạng phong phú, vừa
phức tạp, nhiều khuynh hướng mới nảy sinh. Trong lối sống của thanh niên ở
các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh đã xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc cần
quan tâm giải quyết như: các quan hệ xã hội, hành vi ứng xử, giao tiếp trong
tập thể và cộng đồng; thái độ, phong cách, phương pháp lao động và cách
sống trong quá trình làm việc ở các doanh nghiệp và cư trú tại địa phương cịn
có những bất cập. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển phong cách sống, lối
sống văn hóa lành mạnh, đạo đức nhân văn cho thanh niên nói chung, thanh
niên các khu cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh nói riêng đang là vấn đề cấp bách
hiện nay.
Từ những khía cạnh nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển lối
sống văn hóa của thanh niên các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu. Đồng thời, thơng qua đó góp phần định hướng cho
thanh niên các khu cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay một lối sống văn hóa,
lành mạnh, góp phần xây dựng con người mới trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những vấn đề liên quan đến lối sống văn hóa, thanh niên Bắc Ninh,
thanh niên các khu cơng nghiệp đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới những
góc độ khác nhau.
Một là, nhóm các cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về lối sống,
lối sống văn hóa.
Ở nước ta, xây dựng và phát triển lối sống là một nhiệm vụ quan trọng.
Vì thế, nó đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều tác giả ở nước ta, trong đó có
cả lãnh tụ cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề xuất vấn đề xây dựng lối
sống mới. Dưới bút hiệu Tân Sinh, Cuốn sách Đời sống mới của Người được
Ủy ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản vào tháng 3 năm 1947.
4


Sau đó, Bác viết quyển Sửa đổi lề lối làm việc, dưới bút hiệu XYZ, nhà xuất
bản Sự thật in vào năm 1950. Cả hai quyển sách này đều đề cập đến những
tinh thần cơ bản của lối sống mới có văn hóa. Đây là những chỉ dẫn quan
trọng để tác giả nghiên cứu, luận giải những nội dung liên quan đến vấn đề
xây dựng lối sống tiên tiến, lành mạnh, văn minh cho thanh niên các khu công
nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Xây dựng và phát triển lối sống mới là yêu cầu mà thực tiễn cuộc sống
đặt ra, dù trong bất kì hồn cảnh nào của q trình cách mạng nước ta, ngay
cả trong chiến tranh. Một số tác phẩm tiêu biểu của Liên Xô viết về lối sống
đã được dịch sang tiếng Việt như: N.I. Be-lô-va: Bàn về vấn đề khái niệm lối
sống [9], Viện Xã hội học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội,
1977; Nhiều tác giả: Lối sống xã hội chủ nghĩa[49], Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội, 1982; V.I. Đô-brư-ni-na: Lối sống Xô Viết, hôm nay và ngày mai[22],
Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, 1984...
Trong đó, cuốn “Lối sống xã hội chủ nghĩa” [49] của tập thể tác giả là
tiến sĩ triết học, kinh tế học, viện sĩ thông tấn Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô
(cũ) đã bàn những vấn đề cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa và đề xuất những
phương hướng chủ yếu để tiếp tục hoàn thiện lối sống xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, những cơng trình trên đây đã
phân tích bản chất, các giá trị và biện pháp để xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Huỳnh Khái Vinh khi nghiên cứu cơng trình “Một số vấn đề về
lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” [69], đã trình bày những vấn đề cơ
bản của lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội và mối quan hệ giữa lối sống,
đạo đức với phát triển văn hóa và con người. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra

thực trạng, chỉ ra phương hướng, quan điểm và đề xuất các giải pháp xây
dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay, xây dựng lối
sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, từ đó việc nghiên cứu lối sống được đặt ra

5


khá phong phú, đa dạng cả bề rộng, chiều sâu. Dưới đây xin nêu một số tác
giả và cơng trình tiêu biểu:
Tác giả Đỗ Huy với cơng trình Vấn đề xây dựng lối sống dân tộc hiện
đại ở nước ta hiện nay [28] ; Nguyễn Hữu Thức: Mấy suy nghĩ về xây dựng
lối sống văn hóa cơ sở hiện nay [55], Tạp chí Thơng tin lý luận, số 8/1999;
Nguyễn Chí Dịng: Xã hội hóa lối sống và xây dựng lối sống trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [15], Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số
5/2000; Cao Văn Định: Giáo dục lối sống cho thanh niên đơ thị hiện nay
[20], Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2/2000, v.v..
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn với cơng trình “Xây dựng lối sống và đạo
đức mới cho sinh viên Đại học sư phạm phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”[64], Báo cáo tổng hợp đề tài, Hà Nội đưa ra định nghĩa: Lối
sống là một khái niệm có tính tổng hợp bao gồm nhiều mối quan hệ xã hội, tư
tưởng, đạo đức, tâm lý, văn hoá, kinh tế và các mối quan hệ khác của con
người nói lên đặc trưng cho hoạt động và mối quan hệ của con người trong
những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định.
Tác giả Đặng Quang Thành khi nghiên cứu luận án tiến sĩ Triết học:
“Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong
cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [53], đã phân tích thực
trạng xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh;
đồng thời chỉ ra những yếu tố tác động đến việc xây dựng lối sống có văn hóa

của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, luận án đã đề ra những gải
pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả việc xây dựng lối sống có văn hóa cho thanh
niên Thành phố Hồ Chí minh nhăm đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước.
Tác giả Phạm Hồng Tung (chủ biên) với cơng trình “Thanh niên và lối
sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế”
[62], đã tập trung làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản như: Những vấn đề lý luận
và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên và lối sống của thanh niên; khảo
sát và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của thanh niên trong
hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước, thông qua đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản
của thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên hiện nay; làm rõ những xu

6


hướng biến đổi lối sống của thanh niên trong quá trình đổi mới đất nước và hội
nhập quốc tế, chỉ ra những yếu tố cơ bản tác động đến lối sống của thanh niên.
Từ đó, cơng trình đã đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh
niên Việt Nam phù hợp với sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Nhìn chung, những cơng trình trên đây đã phần nào đi sâu lý giải bản
chất của "lối sống", chỉ ra những lĩnh vực biểu hiện của nó, những đặc điểm
của lối sống mới. Tuy chưa bàn đến nội dung phát triển lối sống văn hóa của
thanh niên các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, nhưng những cơng
trình này đã có nhiều gợi ý cho tác giả thực hiện đề tài.
Hai là, nhóm các cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về thanh
niên tỉnh Bắc Ninh
Tác giả Trần Thị Thu Hiền với Luận văn Thạc sỹ Triết học, Đại học Sư
phạm Hà Nội, “Nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh hiện
nay”[25], đã làm rõ những vấn đề lý luận chung và qua khảo sát thực trạng ý
thức pháp luật của thanh niên tỉnh Bắc Ninh, luận văn đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh niên Bắc Ninh trong

giai đoạn hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thị Yến nghi nghiên cứu cơng trình “Xây dựng lối
sống văn hóa cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh hiện nay”[72], luận văn Thạc sĩ
Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội , đã hệ thống hóa một cách khái
quát những vấn đề lý luận về lối sống, lối sống văn hóa; phân tích thực trạng
lối sống văn hóa của thanh niên Bắc Ninh hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của
thực trạng đó. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống
văn hóa cho thanh niên Bắc Ninh hiện nay.
Tác giả Trần Quang Nam với công trình Lịch sử Đồn TNCS Hồ Chí
Minh và phong trào thanh niên tỉnh Bắc Ninh (1925-2001) [46], Nhà xuất bản
Thanh niên, Hà Nội năm 2001 đã khái quát về vùng cách mạng truyền thống Bắc
Ninh. Lịch sử hình thành, phát triển, trưởng thành của tổ chức Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh của thanh niên Bắc Ninh. Q trình tham gia xây dựng
quê hương và bảo vệ Tổ quốc của thanh niên Bắc Ninh trong thời kỳ hiện nay.

7


Bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Tuyến “Thực trạng công tác giáo dục
đạo đức lối sống pháp luật cho thanh niên ở Thuận Thành - một số giải pháp”
đăng ngày 3/3/2014 trên cổng thông tin điện tử huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh. Tác giả bài biết xác định thanh niên là lực lượng to lớn để thức đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó chỉ ra thực trạng, những tồn tại, hạn chế
trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống, pháp luật cho thanh niên huyện
Thuận Thành hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nâng
cao chất lương đạo đức, lối sống, pháp luật cho thanh niên huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đây là nguồn tư liệu, tài liệu
quý để tác giả tham khảo trong thực hiện luận văn thạc sĩ của mình. Mỗi cơng
trình có đối tượng nghiên cứu cụ thể với cách tiếp cận, quan điểm về lối sống

văn hóa, thanh niên dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu cụ thể, cơ bản và hệ thống
dưới góc độ triết học về “Phát triển lối sống văn hóa của thanh niên các khu
cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp cơ bản phát triển lối sống văn hóa của thanh niên các khu cơng
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản tác động đến phát triển lối
sống văn hóa của thanh niên các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đánh giá thực trạng phát triển lối sống văn hóa của thanh niên các
khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển lối sống văn hóa của thanh
niên các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển lối sống văn hóa của thanh niên các khu công nghiệp ở tỉnh
Bắc Ninh
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: hoạt động phát triển lối sống văn hóa của cơng
nhân ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi đang sinh sống và làm việc ở các khu công
nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi về không gian: Tiến hành khảo sát thực tế ở một số Công ty
thuộc khu công nghiệp Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Phạm vi về thời gian: Thời gian thu thập tài liệu, số liệu, điều tra khảo
sát từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Hệ thống quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, lối sống, vấn đề con người
và chiến lược phát triển con người; về xây dựng và phát triển lối sống mới
cho thanh niên trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng
thời, tác giả có kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Kết quả điều tra, khảo sát hoạt động phát triển lối sống văn hóa của
thanh niên tại một số Công ty thuộc ở khu công nghiệp Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh hiện nay và dựa vào một số báo cáo sơ, tổng kết của các cấp, các ngành,
Ban quản lý khu Công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân
tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, và một số phương pháp khác như: điều tra
xã hội học, thống kê và so sánh; phương pháp chuyên gia, v.v…

9


6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn cung cấp một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lối sống văn
hóa của thanh niên các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm giáo
dục cho thanh niên các khu cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh có một lối sống văn
hóa, lành mạnh, góp phần xây dựng và phát triển con người mới trong giai
đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu ở các Ban

quản lý khu cơng nghiệp, tổ chức Đồn Thanh niên cơ sở và trong công tác
xây dựng và phát triển lối sống văn hóa ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
LỐI SỐNG VĂN HÓA CỦA THANH NIÊN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. Quan niệm về lối sống và thực chất phát triển lối sống văn hóa
của thanh niên các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
1.1.1. Quan niệm về lối sống văn hóa và lối sống văn hóa của thanh
niên các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
* Quan niệm về lối sống văn hóa
Từ lâu “lối sống” là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau như xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, triết học… Tuy nhiên, tuỳ
theo góc độ tiếp cận vấn đề mà có những quan niệm khác nhau về lối sống.
Trong Tiếng Việt, thông thường thuật ngữ lối sống được sử dụng để mô tả và
kèm theo đó là một sự đánh giá về một hoạt động sống nào đó. Tuy nhiên,
trong nhiều ngữ cảnh với sắc thái ngữ nghĩa khác nhau, thuật ngữ lối sống
được sử dụng khác nhau. Ví dụ: lối sống lành mạnh, lối sống giản dị, lối sống
xa hoa, lối sống thành thị, lối sống nơng thơn…
Đặc biệt, ở những góc độ nghiên cứu khác nhau có nhiều cơng trình
nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về lối sống. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác, lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa

mấu chốt đối với nó là phương thức sản xuất [49, tr.12]. Từ đó, cơ sở đầu tiên
chúng ta tìm hiểu lối sống trước hết ở phương thức hoạt động sản xuất của
con người. Phương thức sản xuất chính là điều kiện kinh tế - xã hội của lối
sống. Song, không thể đồng nhất phương thức sản xuất với lối sống. Bởi lẽ,
trong những hình thái kinh tế xã hội khác nhau sẽ có lối sống tương ứng với
mối hình thái kinh tế - xã hội đó. Đặc biệt, trong xã hội có giai cấp, lối sống
cũng mang tính giai cấp. Ví dụ, lối sống của những thành viên trong các thị

11


tộc ngun thủy phụ thuộc vào trình độ của cơng cụ lao động và các hoạt
động chủ yếu nhằm đảm bảo cho sự tồn tại của con người trong cuộc đấu
tranh với thiên nhiên như săn bắn, đánh cá, hái lượm các loại thực vật ăn được
cũng như phụ thuộc vào quan hệ chủ đạo trong thời đại bấy giờ là quan hệ
giúp đỡ lẫn nhau, bảo vệ nhau, chia đều tất cả các của cải kiếm được cho các
thành viên của thị tộc. Hoặc lối sống của người nông nơ ở nước Nga nửa đầu
thế kỷ XIX thì lại được quy định bởi các công cụ lao động đặc trưng cho thời
đó như cày, bừa, ngựa và các gia súc khác,… tức là trình độ lực lượng sản
xuất. Bên cạnh đó, cịn có tình trạng người nơng dân hoặc là phải làm không
công ba đến bốn ngày trong một tuần cho địa chủ hoặc phải nộp tơ cho chúng,
ngồi ra họ còn phải gánh vác mọi loại sưu thuế do bọn Chúa đất và Nhà
nước đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ đặt ra. Tất cả những điều đó,
tuy ở mức độ ít hơn nhưng đều có tính chất quyết định đối với lối sống của
họ. Có thể thấy, tính giai cấp thể hiện ở chỗ: Khơng thể có một lối sống cho
tất cả mọi người. Lối sống hoàn toàn khác nhau giữa hai giai cấp đối lập trong
cùng một phương thức sản xuất, khác nhau giữa giai cấp chủ nô và giai cấp
nô lệ, giữa giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân, giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản.
Ở nước ta, khái niệm “Lối sống” lần đầu tiên được đề cập trong văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và tiếp tục được đề
cập ở các kỳ đại hội tiếp theo. Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta ngày càng
luôn quan tâm sâu sắc đến vấn đề lối sống. Việc xây dựng và phát triển lối
sống văn hóa, phát huy nguồn lực con người ln được coi là nhiệm vụ
trọng tâm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tại Đại hội lần
thứ XII, Đảng ta đã đề ra sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ thứ
sáu chính là phát huy nguồn nhân lực và xây dựng lối sống văn hóa lành
mạnh. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII khẳng định: “phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về

12


đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc, xây dựng mơi
trường văn hóa lành mạnh” [18, tr.53].
Bên cạnh đó, một số nhà khoa học tiếp cận vấn đề lối sống dưới nhiều
khía cạnh khác nhau. Tác giả Thanh Lê đã tiếp cận lối sống với hoạt động
sống của con người và gắn với một hình thái kinh tế-xã hội nhất định; từ đó
đưa ra định nghĩa: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói lên các
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [36, tr.24].
Dưới góc độ xem xét tổng hòa các mặt cơ bản, khắc họa những đặc
điểm cá nhân, tập thể, giai cấp cộng đồng, tác giả Nguyễn Văn Huyên đã viết:
“Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mơ tỉ hình, cách thức và phong thái sống của
con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ
sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử
giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với
phương tiện và mục đích sống” [30, tr.29].
Trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người”, trên cơ sở
tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lối sống, tác giả Vũ Khiêu

đã định nghĩa: “ Lối sống là phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của
đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người,
trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [34, tr.514].
Từ các định nghĩa ở trên, các quan điểm về lối sống đều có sự thống
nhất ở chỗ: lối sống là sự khái qt hay tổng hịa tồn bộ các hoạt động sống
của con người trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định và biểu hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ vật chất cho đến
tinh thần. Cũng từ đó, có thể rút ra một số đặc điểm của lối sống là:
Một là, lối sống là toàn bộ phương thức hoạt động sống căn bản của các

13


dân tộc, các giai cấp, các tầng lớp xã hội và các cá nhân trong điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định, được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: lao động sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần,...
Song hoạt động sống phải có tính ổn định trong đời sống của nhóm dân cư
hay cá nhân nào đó thì mới được coi là lối sống. Bởi lẽ, không phải bất kỳ
hoạt động sống nào của con người cũng được coi là lối sống. Lối sống chính
là một hình thái biểu hiện nhân cách, đạo đức con người, bao gồm tổng thể
phương thức, cách thức tồn tại, sinh hoạt của con người có tính đặc trưng nhất
định, có tính ổn định tương đối, với những hành vi, hoạt động cụ thể, đa dạng,
sinh động theo yêu cầu lợi ích, mục đích đã được xác định.
Hai là, lối sống hình thành, phát triển trong sự vận động của những
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định; là sản phẩm khách quan của điều kiện
kinh tế - xã hội, phản ánh bản chất của chế độ xã hội. Không thể tách lối sống
ra khỏi chủ thể của nó, nghĩa là khơng thể tiếp cận lối sống trong sự tách rời
hai mặt: phẩm chất bên trong của chủ thể và hệ thống hành vi, hình thức biểu

hiện bên ngồi của lối sống. Trong sự biểu hiện của đời sống con người, cái
cơ bản được biểu hiện trong lối sống là hoạt động sản xuất gắn với hai mối
quan hệ: quan hệ vật chất, thực tiễn với tự nhiên được xác định bởi trình độ
của lực lượng sản xuất; quan hệ xã hội mà cơ sở là tính chất của quan hệ sản
xuất. Do đó, xét đến cùng, lối sống là do phương thức sản xuất quyết định.
Tuy nhiên, ngoài việc chịu sự quy định của kinh tế thì lối sống cịn phụ thuộc
vào sự ảnh hưởng của các yếu tố khác như: văn hóa, điều kiện tự nhiên (địa
lý, khí hậu,...). Vì vậy, lối sống có sự phụ thuộc chặt chẽ vào phương thức sản
xuất, song sự phụ thuộc này cũng chỉ mang tính tương đối.
Ba là, lối sống mang tính giai cấp. Nghĩa là, lối sống do phương thức
sản xuất qui định nhưng trong cùng một phương thức sản xuất, các giai cấp
đối lập nhau có lối sống khác nhau. Lối sống khác nhau giữa giai cấp chủ nô

14


và giai cấp nô lệ, giữa giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân, giữa giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản…
Từ những luận giải trên đây, bước đầu có thể đưa ra quan niệm về lối
sống như sau: Lối sống là một dạng hoạt động sống (phương thức sống) căn
bản của một dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, cá nhân gắn với điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định, mang tính ổn định và chịu sự quy định chặt chẽ của
phương thức sản xuất.
Phân biệt lối sống với một số khái niệm gần như:
Mức sống là khái niệm nói lên khía cạnh số lượng của đời sống, khía
cạnh kinh tế, phúc lợi của con người; mức sống là một chỉ báo về lối sống,
nói lên trình độ sinh hoạt vật chất của con người, còn lối sống bao hàm cả đặc
trưng chất lượng của hoạt động sống của con người. Trên cả hai cấp độ lý
luận và thực tiễn không thể đồng nhất mức sống với lối sống. Thực tiễn cho
thấy, con người trong cùng một mức sống như nhau có thể có những lối sống

khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nghĩa là, con người sống có một mức sống
rất cao nhưng họ có thể họ lại làm nhiều việc đê tiện chỉ để chăm lo cho cuộc
sống xa hoa, hưởng lạc và ích kỷ. Ngược lại, có những người sống trong cảnh
nghèo túng, rất khó khăn nhưng họ lại chăm chỉ, cần cù lao động, yêu thương
con người, quan tâm đến lợi ích xã hội. Vì vậy, mức sống khơng thể coi là
một tiêu chuẩn đầy đủ để xác định đặc trưng của lối sống.
Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống, là sự lựa chọn chủ quan của con
người về một cách sống và là sự phản ánh tất yếu khách quan của một lối
sống vào đầu óc con người. Nó là sự khẳng định về một lối sống, là mặt tự
giác của lối sống ấy. Khi một cá nhân đã xác định được lẽ sống tức là đã xác
định được hướng đi đúng để trau dồi lối sống mà mình lựa chọn. Do vậy, lẽ
sống phản ánh mục đích của lối sống, định hướng của cuộc sống. Lẽ sống
thường gắn liền với hệ tư tưởng, là thế giới quan, nhân sinh quan của con
người. Vì thế, khi nghiên cứu lối sống của một cá nhân, một nhóm xã hội phải
nghiên cứu nhận thức, thái độ, lý tưởng trong cuộc đời họ; nói theo ngơn ngữ

15


triết học, phải tìm hiểu thế giới quan, nhân sinh quan của họ. Trong thực tế
khơng bao giờ có một lối sống đồng nhất chung cho tất cả mọi người. Lẽ sống
có vai trị như kim chỉ nam cho cá nhân để điều chỉnh hành vi của mình. Do
đó, lẽ sống biểu hiện ở quan điểm sống, mục đích sống, thái độ lựa chọn các
hoạt động và các mối quan hệ trong xã hội.
Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, bao gồm những cách thức, những
quy ước đã trở thành thói quen trong sản xuất, trong sinh hoạt, trong tổ chức đời
sống xã hội. Cùng với thời gian, những suy nghĩ, hành vi, việc làm được lặp đi
lặp lại, dần dần trở thành thói quen, tập quán, tập tục trong sản xuất, sinh hoạt,
phong tục, nghi lễ, trong hành vi đạo đức, pháp luật tạo nên nếp sống.
Ở Việt Nam hiện nay, trong thói quen ngơn ngữ người ta dùng một

cách lẫn lộn cả hai từ nếp sống và lối sống, khơng phân biệt được nghĩa,
nhưng nhìn chung đều hiểu theo nghĩa lối sống. Nếp sống hình thành trên cơ
sở lối sống, là chiều sâu của lối sống. Phân biệt giữa lối sống và nếp sống, tức
là phân biệt giữa hai mặt “tĩnh” và “động” trong cấu trúc của lối sống. Thông
qua hoạt động thực tiễn, lối sống của con người được định hình.
Phân loại lối sống
Xét dưới nhiều khía cạnh, có nhiều cách khác nhau để phân loại lối sống.
Dưới góc độ phân loại theo hình thái kinh tế - xã hội, bao gồm có lối sống
phong kiến, lối sống tư sản, lối sống xã hội chủ nghĩa. Phân theo tính giai cấp:
có lối sống nơng dân, lối sống tri thức, lối sống thương gia. Phân theo đặc
trưng lao động, nghề nghiệp có lối sống nghệ sỹ, lối sống quân nhân, lối sống
sinh viên, v.v... Phân theo đặc điểm vùng lãnh thổ có lối sống đơ thị, lối sống
nông thôn, lối sống miền núi,…Đặc biệt, dựa trên tiêu chí văn hố của lối sống:
có lối sống văn hố, lối sống vơ văn hố hay lối sống thiếu văn hoá,...
Lối sống văn hoá
Trên cơ sở lối sống phản ánh trình độ văn hố của một cá nhân, cộng
đồng trong điều kiện xác định thì lối sống khơng thể tách rời văn hố. Tuy
nhiên, khơng phải mọi lối sống đều là văn hóa, mà chỉ những lối sống phù

16


hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức của cộng đồng, của dân tộc có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội thì mới là văn hóa. Theo đó, có thể
khẳng định, lối sống có liên quan mật thiết với văn hóa. Dù được định nghĩa
theo cách nào thì lối sống cũng dùng để chỉ những quá trình hiện thực hóa các
giá trị và hệ giá trị văn hóa trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày.
Trong khi đó, dưới góc độ triết học, “Văn hố là sự phát triển năng lực
bản chất người theo tiêu chí chân - thiện - mỹ và sự hiện thực hố nó thơng
qua hoạt động sống của con người trong tiến trình lịch sử” [23, tr.33].

Ở đây, văn hóa được hiểu là “giá trị”, là sự hài hòa trong ứng xử để đạt
đến chuẩn mực của xã hội, đạo đức của cộng đồng. Trong thực tế, văn hóa đã
trở thành nội dung, tính chất của nhiều hoạt động, nhiều lĩnh vực xã hội như
đời sống văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn hóa, ứng xử văn hóa, giao tiếp
văn hóa...Văn hóa được coi là thước đo của sự hài hòa, của chuẩn mực.
Từ sự phân tích về lối sống và văn hóa ở trên, có thể đưa ra quan niệm
về lối sống văn hóa như sau: Lối sống văn hóa là toàn bộ phương thức sống
căn bản của một dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, cá nhân trong điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định; chứa đựng những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, phù hợp
với thời đại và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Lối sống văn hóa đã phản ánh trình độ phát triển năng lực bản chất
người theo tiêu chí chân - thiện - mỹ. Nó được biểu hiện ở những thói quen
hành vi của con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như: lối sống văn
hóa trong cơng việc; lối sống văn hóa trong chấp hành pháp luật; lối sống văn
hóa trong quan hệ xã hội và giao tiếp ứng xử; lối sống văn hóa trong đời sống
sinh hoạt cá nhân. Trong đó, hạt nhân - thước đo chuẩn xác và cao nhất của
lối sống văn hóa là tính nhân văn, nhân đạo, giá trị đạo đức là yếu tố cốt lõi.
Lối sống văn hóa biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản là:
Lối sống văn hóa chứa đựng những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, phù hợp với
thời đại. Nghĩa là, lối sống văn hóa chứa đựng những giá trị tốt đẹp mà con
người đã đạt được; đồng thời, phải là lối sống lành mạnh, văn minh, tiến bộ,

17


lịch sự trong các mối quan hệ của con người. Ngày nay, xã hội phát triển văn
minh, đời sống con người ngày càng được nâng cao trên tất cả các mặt vật
chất và tinh thần. Nhiều thành tựu khoa học trong mọi lĩnh vực của xã hội đều
góp phần làm phong phú và phát triển nền văn hóa của nhân loại. Vì vậy, theo
xu hướng hiện nay, con người ln đề cao tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu

sắc, đòi hỏi con người cần phải có nhận thức cao, sự hiểu biết sâu rộng, năng
lực tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần để hình
thành lối sống văn hóa tốt đẹp, tiến bộ, phù hợp với thời đại.
Lối sống văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Lối sống được
coi là một trong những yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Lối sống văn
hóa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu tất yếu của quá trình hội
nhập và phát triển. Bởi lẽ, bản sắc dân tộc là yếu tố cốt lõi giúp cho lối sống
giữ vững những giá trị truyền thống, không bị lai căng mất gốc. Bản sắc dân
tộc trong lối sống của con người là những giá trị vốn có trong quá trình cộng
đồng các dân tộc xây dựng, gìn giữ và phát triển đất nước của mình, được thể
hiện thơng qua các lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, lao động và học tập, giao
tiếp và ứng xử.
Một lối sống văn hóa phải có đầy đủ các yếu tố dân tộc - hiện đại nhân văn. Do vậy, cần phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc
phát triển lối sốn văn hóa hiện nay; phải đảm bảo tính thống nhất biện chứng
giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Nếu tuyệt đối hóa yếu tố truyền thống
thì sẽ không tiếp nhận được cái mới, tinh hoa của nhân loại và sẽ trở nên bất
lực trước thực tiễn và thời đại. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa yếu tố hiện đại
mà coi nhẹ yếu tố truyền thống thì giá trị văn hóa sẽ bị lai căng, mất gốc và
trở thành của người khác, dân tộc khác.
* Lối sống văn hóa của thanh niên các khu cơng nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh (huyện Yên Phong)
Khái quát về các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay:

18


Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía Bắc của
Thủ đơ Hà Nội, gần sân bay Quốc tế Nội Bài, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc. Kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997, Bắc Ninh đã có chủ trương
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển và vươn tới một

tỉnh giàu có. Bắc Ninh cũng như nhiều tỉnh trong nước đã thực hiện chính
sách nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào địa bàn. Phát huy nhiều
yếu tố thuận lợi, trong những năm qua, cơ cấu kinh tế Bắc Ninh liên tục
chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, Bắc Ninh đã cơ
bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại với 21 chỉ tiêu kinh tế - xã
hội, thuộc nhóm 10 địa phương đứng đầu cả nước.
Thực hiện các đường lối chủ trương của Đảng và khai thác có hiệu quả
thế mạnh của mình, ngành cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh đã có những bước phát
triển vượt bậc. Năm 2016, các doanh nghiệp khu cơng nghiệp (khơng tính các
cơng ty hạ tầng) tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 510.000 tỷ đồng;
Giá trị xuất khẩu khoảng 23,5 tỷ USD; giá trị nhập khẩu khoảng 16 tỷ USD;
Thu ngân sách thông qua các khoản thuế khoảng 7.000 tỷ đồng. Như vậy, từ
năm 2012 đến năm 2016, giá trị sản xuất công nghiệp tăng liên tục, từ
373.029 tỷ đồng lên 705.292 tỷ đồng, gấp 1,89 lần so với năm 2012. Tốc độ
tăng trưởng bình qn giá trị sản xuất cơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2012 - 2016 là 17,26% và là địa phương có giá trị sản xuất cơng nghiệp đứng
thứ 2 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh). Những năm trở lại đây, ngành
công nghiệp Bắc Ninh đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế lớn, đóng góp
vào ngân sách của tỉnh, tăng thu nhập cho người lao động, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
Hệ thống các điểm cơng nghiệp và xí nghiệp cơng nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh được hình thành và phát triển khơng ngừng trong những năm gần đây.
Tỉnh chú trọng quy hoạch các khu công nghiệp tập trung dọc theo các trục

19


đường giao thông (quốc lộ, tỉnh lộ) tạo thành chuỗi khu cơng nghiệp có sự
gắn kết chặt chẽ với nhau.
Bắc Ninh hiện có tổng số 16 khu cơng nghiệp tập trung được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung theo văn bản số 1511/TTgKTN ngày 20/8/2014 và văn bản số 2007/TTg-KTN ngày 06/11/2015, với
tổng diện tích 6.397,68 ha. Trong đó, 13 khu cơng nghiệp được cấp Giấy
Chứng nhận đầu tư cho 16 dự án hạ tầng khu công nghiệp với tổng diện tích
QH 5.111,5ha và diện tích đất cơng nghiệp cho th là 3.476,41ha. Hiện nay
đã có 9 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với diện tích QH 2.872,98ha,
diện tích đất cơng nghiệp cho th là 2.017,61ha, đã cho thuê 1.415,87ha đất
công nghiệp; Tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đất QH đạt 70,18%, trên diện tích
đất thu hồi 82,73% [4]
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngồi, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính
đến ngày 20/4/2017, Bắc Ninh là địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước
ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký là 2,7 tỷ USD, chiếm 25,51% tổng vốn
đầu tư: Trong đó, quốc gia có vốn đầu tư chủ yếu ở các khu công nghiệp Bắc
Ninh là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,…
Các khu công nghiệp tại Bắc Ninh chủ yếu là các khu công nghiệp đa
ngành. Lĩnh vực hoạt động là điện tử, lắp ráp điện tử, cơ khí, chế biến thực
phẩm, dệt may,… nhưng cơ bản là khu công nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
điện tử. Hiện nay, Bắc Ninh trở thành trung tâm công nghiệp điện tử đứng
đầu cả nước.
Các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay sử dụng nguồn lao động
đơng đảo. Trong vịng nhiều năm trở lại đây, số lao động làm việc trong các
khu công nghiệp tăng lên không ngừng, cụ thể: năm 2010 có 56.874 lao động,
năm 2011 có 87.053 lao động, năm 2012 có 117.455 lao động, năm 2013 tăng
lên 129.423 lao động [phụ lục 3]

20


Cơ quan quản lý các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh chính là Ban
quản lý các Khu cơng nghiệp Bắc Ninh được thành lập ngày 25/8/1998 tại
Quyết định số 152/98/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng Hịa

Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ
máy và biên chế được quyết định tại Quyết định số 60/2008/QĐ-UBND ngày
09/5/2008 của UBND tỉnh Bắc Ninh.
Về cơ cấu tổ chức, Ban quản lý có 10 phòng, đơn vị trực thuộc (Văn
phòng, Phòng Quản lý Đầu tư, Phòng Quản lý Quy hoạch và Xây dựng,
Phòng Quản lý Doanh nghiệp, Phòng Quản lý Lao động, Phòng Quản lý Mơi
trường, Thanh tra, Phịng đại diện các khu cơng nghiệp, Trung tâm Hỗ trợ đầu
tư và Phát triển khu công nghiệp và Trung tâm dịch vụ việc làm). Ban quản lý
các khu công nghiệp Bắc Ninh về cơ bản đã thực hiện tốt công tác quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực; tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc
quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp, góp phần đưa Bắc Ninh trở
thành một trong những tỉnh đứng đầu khu vực phía Bắc về phát triển khu
cơng nghiệp.
Trong đó, khu cơng nghiệp n Phong là một trong những khu công
nghiệp phát triển mạnh nhất tỉnh Bắc Ninh, tập trung số lượng thanh niên
đông đảo. Khu công nghiệp Yên Phong được thành lập theo văn bản số
303/TTg-CN ngày 20 tháng 02 năm 2006 của Thủ tướng Chính Phủ. Giai
đoạn 1 có quy mơ 351 ha, khởi cơng xây dựng tháng 02/2006 với tổng vốn
đầu tư đăng ký 989,70 tỷ đồng; giai đoạn 2 đã được phê duyệt quy hoạch chi
tiết xây dựng với quy mô 314 ha.
Khu công nghiệp Yên Phong do Công ty đầu tư phát triển hạ tầng
Viglacera làm chủ đầu tư. Khu công nghiệp có vị trí địa lý hết sức thuận lợi:
Nằm sát đường Quốc lộ 18 (tuyến đường Sân bay Quốc tế Nội Bài-Thành phố
Hạ Long Quảng Ninh); Cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 40 Km; cách
Sân Bay Nội Bài khoảng 30 Km (theo QL 18); cách Cảng Cái Lân (TP Hạ
Long) khoảng 130 Km (theo QL 18); cách Cửa Khẩu Lạng Sơn (Việt Nam-

21




×