Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn giáo dục tình yêu chân chính cho học sinh qua bài thơ số 28 của ta go

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.67 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu ………………………………………………………….………
1.1. Lí do chọn đề tài ……………………………………………………...
1. 2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………...
1. 3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………...
1.4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………..
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………...
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………….
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ..
2.3. Giáo dục tình yêu chân chính cho học sinh qua Bài thơ số 28 của Ta –
go…………………………………………………………………………
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường ……………………………………...
3. Kết luận, kiến nghị ………………………………………………….…..
3. 1. Kết luận……………………………………………….……………....
3. 2. Kiến nghị …………………………………………………….……..…
Tài liệu tham khảo …………………………………………………….…...
Phụ lục………………………………………………….……………….….

2
2
3
3
3
3
3
5
6
18
19
19


19
21
22

1


GIÁO DỤC TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH CHO HỌC SINH
QUA “BÀI THƠ SỐ 28” CỦA TA-GO
1. MỞ ĐẦU:
1. 1. Lí do chọn đề tài:
Tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng, kì diệu, cao quý của con người.
Nếu không có tình yêu trái đất này sẽ trở nên khô cằn, nhàm chán. Xuân Diệu,
ông hoàng của thơ tình Việt Nam đã khẳng định:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Nhưng tình yêu tuổi học trò không chân chính đã để lại hệ lụy thật đáng buồn.
Yêu sớm và yêu hết mình đã dẫn đến những bi kịch. “Tháng 3 năm 2012 cô học
sinh ngoan hiền ở Trường THPT Diễn Châu 2 ( huyện Diễn Châu, Nghệ An) đã
chuyển dạ trên lớp rồi sinh ra một bé gái. Một học sinh lớp 10 ở Trường THPT
Diệp Minh Châu, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre cũng sinh một bé trai 2,5 kg
sau khi đi học thể dục về. Nhiều giáo viên ở Trường THPT Ninh Giang, Hải
Dương cũng không thể quên được cái chết thương tâm của cô học sinh lớp 10
trường này. Quá hoảng sợ, T đã uống thuốc trừ cỏ phá thai để rồi phải đổi cả
bằng mạng sống của mình. Một số em khác thì bỏ học để làm mẹ. Em Hồ Thị
Hoa lấy chồng từ khi 15 tuổi đang là học sinh lớp 7 trường THCS bán trú Pa
Nang. Một trường hợp khác cũng ở trường này là em Hồ Thị Dại bỏ học lấy
chồng năm 17 tuổi. Ở xã Pa Nang có những đứa trẻ lên bốn vẫn chưa làm được
giấy khai sinh vì cha mẹ chưa đủ tuổi kết hôn. Chúng cũng không được hưởng
bất kì một chương trình chăm sóc đặc biệt nào”. Như vậy yêu sớm và hết mình

không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục mà còn cản trở sự phát triển của
xã hội.
Mục tiêu giáo dục hiện nay trong nhà trường ngoài dạy kiến thức phải
chuẩn bị hành trang kĩ năng sống cho các em bước vào đời. Kĩ năng về tình yêu
chân chính đối với các em là vô cùng cần thiết. Bởi hầu hết khi bước vào THPT
các em đã có người yêu. Chương trình Giáo dục công dân lớp 10 Bài Công dân
với tình yêu hôn, hôn nhân và gia đình cũng đã giáo dục các em về tình yêu chân
chính. Tuy nhiên như vậy vẫn còn quá ít bởi tình yêu là thường trực luôn phải
khắc sâu ghi nhớ trong mỗi học trò. Ở môn Ngữ văn THPT có rất nhiều tác
phẩm viết về đề tài tình yêu như: Khăn thương nhớ ai, Trèo lên cây khế nửa
ngày, Ước gì sông rộng một gang, (Ca dao), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử),
Tôi yêu em ( Pu- skin), Bài thơ số 28 ( Ta –Go), Sóng (Xuân Quỳnh)….Giáo
viên nên kết hợp giáo dục kĩ năng về tình yêu cho học sinh qua mỗi tác phẩm
văn học bằng hình tượng, từ đó tình yêu chân chính khắc sâu trong các em cả
lớp 10, 11, 12.
Hiện nay, các tác phẩm về đề tài tình yêu trong nhà trường giáo viên và
học sinh đều tìm hiểu ở các phương diện: nội dung, nghệ thuật. Giáo viên chưa
có phần dạy cho học sinh áp dụng vào cuộc sống. Cái đích của văn học bao giờ
cũng phải hướng tới cuộc đời. Đem tình yêu trong văn học để giáo dục con
2


người chính là làm cho tác phẩm sống như vốn có của nó. Giáo dục tình yêu
chân chính cho học sinh để các em có hướng đi đúng trong việc lựa chọn tương
lai hạnh phúc.
Vì những lí do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu của mình là “ Giáo dục tình
yêu chân chính cho học sinh qua “Bài thơ số 28” của Ta-go.
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
- Dạy văn kết hợp với dạy kĩ năng sống cho học sinh, văn học phải gắn liền với
cuộc sống, dạy văn đi đôi với dạy người.

- Tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh.
- Tìm ra cách tiếp cận tác phẩm theo một hướng mới.
- Nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:
- Tác giả Ta-go.
- Thơ tình Ta-go.
- Tập thơ Người làm vườn.
- Tác phẩm Bài thơ số 28.
- Giáo dục tình yêu chân chính cho học sinh qua Bài thơ số 28 của Ta-go.
- Học sinh nhận thức học tập.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu:
- Tìm hiểu tham khảo các tài liệu để đúc rút kinh nghiệm.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế qua các số liệu cụ thể.
- Phương pháp so sánh đối chiếu qua dạy thực nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
“Tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt của con người, xuất hiện ở cả
nam và nữ khi đến tuổi trưởng thành. Tình yêu là sự rung động tình cảm và
quyến luyến sâu sắc giữa hai người. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt … làm
cho họ có nhu cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng
hiến dâng cho nhau trong cuộc sống của mình.
Tình yêu là tình cảm sâu sắc, đáng trân trọng của cá nhân, tuy nhiên
không nên cho rằng đó chỉ là việc riêng tư của mỗi người. Tình yêu luôn mang
tính xã hội.
Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng và lành mạnh, phù hợp với các
quan niệm đạo đức tiến bộ của xã hội”.
Tình yêu học trò, tình yêu thanh xuân trong trẻo nhất. Đã có người ví tình
yêu tuổi học trò như bức tường thành dù có đi bao xa, bao lâu khi ngoảnh lại vẫn
thấy. Tuổi học trò bắt đầu với những rung động e ấp đầu đời. Khi đã chót yêu
một ai đó đang ngồi trên ghế nhà trường chúng ta không có tội, nhưng quan

trọng là phải yêu như thế nào để mối tình vẫn mãi trong sáng như một bài thơ.
Tình yêu tuổi học trò có những mặt tốt. Tình yêu giúp chúng ta có động
lực trong học tập. Khi yêu cả hai cùng nỗ lực để đạt được ước mơ, lí tưởng. Tình
yêu học trò là người anh dẵn dắt những cảm xúc trong đời. Sau này dù có yêu ai

3


nhưng chúng ta vẫn vương vấn mãi cảm xúc thuở ban đầu. Tình yêu ấy cũng để
lại bao nhiêu lời ca kỉ niệm.
Tuy nhiên, yêu ở học trò mất nhiều hơn được. Sao nhãng việc học hành vì
mất thời gian nghĩ vẩn vơ. Kết quả học tập của các em sẽ giảm sút. Suy nghĩ quá
bồng bột dẫn đến hậu quả khó lường. Không ít những em vì cha mẹ cấm đoán
nên đã tìm đến cái chết, bỏ gia đình để đi theo người yêu.
Văn học có sức mạnh là thay đổi tư tưởng tình cảm, nhận thức, đạo đức
của con người. Văn học có giá trị nhận thức và giáo dục. “Giá trị nhận thức là
khả năng văn học có thế đáp ứng được những yêu cầu của con người muốn hiểu
biết rõ hơn, sâu hơn cuộc sống xung quanh và chính bản thân mình, từ đó tác
động vào cuộc sống có hiệu quả hơn”. Giá trị giáo dục của văn học “thể hiện ở
khả năng đem đến cho con người những bài học quý về lẽ sống để họ tự rèn
luyện bản thân ngày một tốt đẹp hơn. Văn học chính là phương tiện hiệu nghiệm
để tạo nên ở con người tất cả những gì mang tính nhân đạo chân chính. Với khả
năng ấy, văn học không chỉ góp phần hoàn thiện con người, mà còn hướng họ tới
những hành động cụ thể, thiết thực, vì một ngày mai tốt đẹp hơn”.
Qua một số tác phẩm văn học về đề tài tình yêu ở chương trình lớp 10,
giáo viên kết hợp giáo dục cho các em một tình yêu trong sáng lành mạnh hoặc
khuyên các em không nên yêu quá sớm. Ví dụ có thể giáo dục tình yêu trong
sáng cho học sinh qua hai tác phẩm cụ thể.
Bài ca dao Khăn thương nhớ ai
GV: Nội dung chính của bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” là gì ?

HS: suy nghĩ trả lời.
Bài ca dao Khăn thương nhớ ai thể hiện một nỗi nhớ da diết mãnh liệt
cháy bỏng trong tình yêu. Nỗi nhớ lan tỏa vào không gian, thời gian vào tâm trí.
Nỗi nhớ khiến người cô gái bồn chồn không yên. Nỗi nhớ biến thành nỗi lo lắng
cho hạnh phúc.
GV: Qua bài ca dao em rút ra bài học gì khi yêu?
HS: liên hệ trả lời.
Chúng ta không nên yêu sớm. Vì tình yêu làm chúng ta mất nhiều thời
gian không thể tập trung vào việc học. Nếu không cấm được cảm xúc của con
tim thì hãy yêu trong sáng.
Bài ca dao Trèo lên cây khế nửa ngày
GV: Bài ca dao “Trèo lên cây khế nửa ngày” là cảm xúc gì của người
đang yêu?
HS: Suy nghĩ trả lời
Bài ca dao Trèo lên cây khế nửa ngày là tiếng than cho tình yêu đôi lứa bị
chia cắt nên đau đớn chua xót, nên càng thương nhớ đợi chờ. Khẳng định tình
yêu chung thủy sắt son.
GV: Qua bài ca dao em rút ra bài học gì trong tình yêu?
HS liên hệ trả lời.

4


Các em nên có một tình yêu chung thủy. Khi yêu ta phải hướng tới hôn
nhân. Muốn vậy chúng ta phải có sự nghiệp, làm chủ kinh tế trước khi quyết
định yêu một người nào đó.
“Ta -go làm thơ tình vào lúc tuổi đã ngoài năm mươi, sau khi bà Mrinalini
Đêvi, người vợ yêu dấu của ông qua đời. Nhiều bài thơ trong tập Người làm
vườn và Tặng phẩm của người yêu ông dành tặng vợ. Một người Ấn Độ đã nói
rằng: “Khi Ta-go có những nỗi buồn lớn, ông đã viết những bài thơ tình đẹp nhất

trong ngôn ngữ của chúng tôi”. Những bài thơ tình của ông đã gây một luồng
không khí hào hứng phấn chấn trong tầng lớp thanh niên Ấn Độ. Ilya Erenbua,
nhà văn Nga cũng cũng đã nói: “Thanh niên Ấn Độ khi yêu nhau hay đọc thơ
ông, bởi ông viết về tình yêu rất hay. Ông hiểu tất cả những gì mới mẻ, tất cả
những gì thuộc về con người”.
Trong các bài thơ tình của Ta-go, Bài thơ số 28 trong tập Người làm vườn
là hay hơn cả, được nhiều người ưa thích. Bài thơ đã được chọn in vào nhiều tập
thơ tình hay của thế giới”.
2. 2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tự do yêu đương là quyền của mỗi người. Tuy nhiên ở các trường học đã
có những tình yêu không chân chính, yêu là phải dâng hiến hết mình. Theo bài
“Thực trạng bất ngờ về tình dục học đường ở Việt Nam hiện nay” báo “Sức
khỏe” đã đưa ra một số liệu kinh khủng về quan hệ tình dục học đường. Phóng
viên đã trao đổi với ông Trần Thành Nam ( tiến sĩ tâm lí trẻ em và vị thành niên
– Đại học quốc gia Hà Nội) về vấn đề này “Theo số liệu của tôi và đồng nghiệp,
chọn mẫu tại một số trường ở Hà Nội và ngoại thành Hà Nội, đến hết lớp 9 có
khoảng 10% học sinh đã từng quan hệ tình dục, tính đến lớp 12 thì con số là
39%. Trong số học sinh THPT thừa nhận có quan hệ tình dục thì có đến 29,5%
các em nam cho biết không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ gần nhất, chỉ
có 8% em nữ nói rằng mình sử dụng ít nhất một hình thức phòng tránh thai nào
đó. Đáng nói, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng quan hệ với từng 3
người trở lên, khoảng 15% các em sử dụng chất kích thích trong lần quan hệ gần
nhất.
Độ tuổi trung bình quan hệ tình dục lần đầu ở Mĩ là 18, ở Việt Nam cũng
là 18 theo nghiên cứu 2010. Tuy vậy tỉ lệ phá thai ở Mĩ thấp hơn nhiều so với ở
Việt Nam.
Đó là hệ quả của việc coi giáo dục tình yêu tình dục là “vẽ đường cho
hươu chạy” nói chuyện với con về tình yêu và tình dục được xem là cấm kị
trong gia đình”. Ở nhiều gia đình không muốn con yêu sớm cha mẹ đã làm cho
con sợ hãi bằng những dọa dẫm và cường điệu. Vì vậy mà các em không dám

tiết lộ vì sợ phản ứng tiêu cực của bố mẹ. Sợ nói cho bố mẹ thì bố mẹ sẽ tưởng
tượng những thứ kinh khủng hơn để tra hỏi. Nhiều em tin rằng bố mẹ sẽ không
thể nào bình tĩnh được khi nghe các em nói chuyện yêu đương. Chính giáo dục
bằng nỗi cường điệu, bằng dọa dẫm đã làm cho trẻ tin rằng nếu mắc lỗi thì
không thể nào sửa được. Theo các nhà tâm lí từ 11 tuổi trở lên phải giáo dục cho

5


các em về tình yêu chân chính. Việc giáo dục ý thức về tình yêu là trách nhiệm
của nhà trường, gia đình có sự chung tay của xã hội.
Hiện nay trong các trường học đã giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tuy
nhiên kĩ năng về tình yêu lại hầu như không có. Tình yêu lại là thứ tình cảm
thường trực trong mỗi học sinh. Có những trường hợp các em biết yêu từ khi
học lớp 5. Đến khi học ở THPT yêu đương trở thành một phong trào. Nhiều gia
đình do hoàn cảnh mà bố mẹ phải đi làm xa các em phải ở nhà với anh chị hay
ông bà. Khi yêu các em sẽ không có kĩ năng để bảo vệ chính mình. Vì vậy cần
phải luôn khắc sâu trong các em một tình yêu chân chính qua các bài học. Có
như vậy các em mới có một hướng đi đúng đắn khi yêu.
2. 3. Giáo dục tình yêu chân chính cho học sinh qua Bài thơ số 28 của Tago:
Phần 1: Giáo án thực nghiệm:
Ngµy so¹n: 22-2-2018
Ngµy d¹y: 1-3-2018
Tiết 93
Đọc văn.
BÀI THƠ SỐ 28
(Ta –go)
I. Môc tiªu :
1. Về kiến thức:
*Qua bài thơ Ta-go đã thể hiện quan niệm của mình về tình yêu:

- Tình yêu là thứ tình cảm đẹp, lãng mạn, thiêng liêng, cao quý nhất của con
người. Trong tình yêu người ta luôn khát khao thấu hiểu, hòa hợp.
- Tình yêu có sự hi sinh dâng tặng.
- Tình yêu là một thế giới đầy bí ẩn. Nơi khởi nguồn của trái tim là tình yêu.
- Tình yêu luôn có khát khao giàu sang, trường cửu và vô biên. Tình yêu rất gần
cũng rất xa. Chính vì vậy mà ngàn đời nhân loại đi tìm tình yêu.
* Nghệ thuật:
- Cấu trúc sóng đôi.
- Nghệ thuật so sánh ẩn dụ.
- Cách nói giả định.
- Bài thơ được cấu trúc theo tư duy hướng nội, hướng vào tâm linh. Các hình
ảnh thể hiện ý nghĩa theo tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trìu tượng.
2. Về kĩ năng:
- Đọc-hiểu v¨n b¶n theo đặc trưng thể loại.
- Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng lành mạnh, phù hợp với các quan
niệm đạo đức tiến bộ. Trong tuổi học trò không nên yêu quá sớm. Nếu không
ngăn được con tim thì phải hướng tới một tình yêu là động lực để cả hai cùng có
một tương lai tươi sáng, là người có ích cho xã hội.
3. Về thái độ:
- Biết trân trọng và có nhận thức đúng đắn về tình yêu trong sáng cao đẹp; chọn
một cách sống đẹp.
6


4. Định hướng hình thành năng lực:
- Năng lực cảm thụ tác phẩm văn học.
- Năng lực tư duy.
- Năng lực làm việc và hợp tác trong học tập.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
- Năng lực liên hệ giữa văn học và đời sống.

II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
- Giáo viên:
- Giáo án Word, giáo án điện tử.
- Phiếu học tập.
- SGK, SGV, thiết kế lên lớp, bảng phụ.
-Tranh chân dung tác giả Ta-go và nước Ấn Độ, một số hình ảnh minh họa.
- Học sinh:
- Học bài cũ.
- Soạn bài.
- Tranh ảnh, tài liệu về Ta-go.
- Tìm hiểu về vị thần tình yêu của Ấn Độ
III. Phương pháp :
- Tổng hợp, tư duy, phân tích.
- Nêu vấn đề.
- Gợi mở.
- Thảo luận nhóm.
- Kĩ thuật mảnh ghép.
IV.Tiến trình giờ dạy- giáo dục :
- Ổn định lớp:
- Kiểm tra bài cũ (2 phút):
GV: Đọc thuộc một bài thơ “Tôi yêu em” của Pu-skin?
- Giảng bài mới:
Phần khởi động (3 phút):
GV: Cho học sinh xem một số hình ảnh về đất nước Ấn Độ và nhà thơ Ta-go.
GV: Em hãy cho biết đây là đất nước nào? Nhân vật kiệt xuất nào?
HS trả lời: Đây là Ấn Độ và tác giả Ta- go.
GV vào bài: Nêru nhà văn Ấn Độ đã từng nói “Đối với những người sinh ra ở
xứ Ben-gan chúng tôi, tên tuổi Ta-go đồng nghĩa với những thành tựu của nền
văn học Ben-gan. Những người thuộc thế hệ tôi lớn lên và muốn hay không
muốn hình thành dưới ảnh hưởng nhân cách kiệt xuất của ông. Trước mắt

chúng tôi là con người đạt đến sự hiến mình nhiều thế kỉ của dân tộc Ấn Độ,
đồng thời lại gần gũi với những vấn đề của ngày hôm nay đang chuyển mình tới
tương lai. Thế giới tinh thần của ông rất Ấn Độ, ông lại bao quát được tinh thần
nhân loại nói chung. Ta-go vừa rất dân tộc lại vừa là của chung toàn thế giới.
Sau khi gặp ông hay đọc những gì của ông viết ta cảm như mình vừa đặt chân
lên đỉnh cao của kinh nghiệm và tri thức nhân loại”. Một trong những bài thơ
gắn với tên tuổi Ta-go là “Bài thơ số 28” trong tập “Người làm vườn”.
7


I. Tìm hiểu chung (7 phút):
GV chia học sinh học sinh thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Dựa vào phần phần tiểu dẫn sách giáo khoa và sự hiểu biết của mình
hãy giới thiệu về tác giả Ta-go?
Nhóm 2: Giới thiệu về tập thơ “Người làm vườn”?
Nhóm 3: Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ, bố cục “Bài thơ số 28”?
Thời gian thảo luận cho các nhóm là 2 phút
1. Tác giả:
HS: Nhóm 1 thảo luận cử đại diện trả lời, nhóm khác bổ sung.
GV: nhận xét, chốt ý.
- Ta- go ( 1861- 1914) là nhà văn, nhà văn hóa lớn của Ấn Độ.
+ Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc Bà la môn tại thành phố Can cút
ta ban Ben-gan.
+ Ngoài tài năng văn học ông còn là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà viết kịch, soạn
nhạc, nhà hiền triết… Ở Ben-gan nhân dân gọi ông là “bậc thánh sư”.
Tài năng văn học của ông được phát triển rất sớm. Tám tuổi đã làm được
nhiều bài thơ hay, mười ba tuổi đã có tác phẩm được xuất bản. Nhiều người phát
ghen về tài năng của ông, ngược lại nhiều nhà văn lớn tuổi đã mến mộ và khích
lệ ông.
Có được tài năng đó là do tinh thần học hỏi, năng khiếu thiên bẩm cũng

như sự giáo dục của gia đình. Gia đình ông có mười bốn anh em đều là những
thiên tài của Ấn Độ.
- Sự nghiệp: gia tài khổng lồ ở nhiều lĩnh vực mà lĩnh vực nào cũng xuất sắc:
+ Văn học: 52 tập thơ, 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch.
+ Triết học: 63 tiểu luận triết học.
+ Âm nhạc: 2000 bài ca.
+ Hội họa: hàng nghìn bức họa.
Tập Thơ dâng đã đem vinh quang đến cho ông là người châu Á đầu tiên
được nhận giải thưởng Nô ben về văn học.
- Đóng góp của Ta-go cho nhân dân Ấn Độ và nhân loại:
+ Cống hiến quan trọng phục hưng văn hóa Ấn Độ.
+ Góp phần giải phóng Ấn Độ khỏi ách thực dân.
+ Góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại vì độc lập hòa bình hữu nghị giữa
các dân tộc.
2. Giới thiệu tập thơ Người làm vườn:
HS: nhóm 2 thảo luận cử đại diện trả lời, nhóm khác bổ sung.
GV nhận xét, chốt ý.
- Là tập thơ nổi tiếng của Ta-go.
- Xuất bản năm 1914.
- Tác phẩm viết bằng tiếng Ben-gan sau đó được Ta-go dịch sang tiếng Anh.
- Tên tác phẩm: gợi hình tượng nhà thơ nguyện là người chăm sóc vườn hoa
cuộc đời.

8


- Nội dung: với Ta-go vườn đời thật tươi đẹp, sống trên đời thực sự là niềm vui
khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với
thiên nhiên, thi nhân chính là người ca hát vun xới cho những bông hoa tình yêu
ấy.

+ Thể hiện tâm hồn Ấn Độ bao quát tinh thần nhân loại.
- Nghệ thuật: tiêu biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình triết luận của Ta-go.
- Giá tri của tập thơ:
+ Dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, chinh phục độc giả nhiều nước phương
Đông cũng như phương Tây.
3. Giới thiệu Bài thơ số 28:
HS: nhóm 3 thảo luận cử đại diện trả lời.
GV: nhận xét, chốt ý, mở rộng vấn đề.
- Được trích trong tập Người làm vườn. Những bài thơ trong tập thơ này không
có nhan đề được đánh số từ 1 đến 85. Đây là bài thơ số 28 của tập thơ.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Được Ta-go sáng tác khi vợ ông mới qua đời.
- Bố cục: 2 phần
+ 6 câu đầu: hình ảnh đôi mắt em.
+ Phần còn lại: hình ảnh cuộc đời, trái tim, tình yêu.
II. Đọc – hiểu:
1. Sáu câu đầu: hình ảnh đôi mắt em ( 10 phút)
GV: Hình ảnh “đôi mắt em” ở sáu câu đầu hiện lên như thế nào? Vì sao lại có
cảm xúc, tâm trạng ấy?
HS: làm việc cá nhân trả lời.
GV: nhận xét, chốt ý.
- Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là lăng kính hội tụ của cảm xúc. Ta-go quan
niệm “đôi mắt chúng ta liên kết nhau trong hòa điệu làm cho chúng ta được hành
động thống nhất”.
+ Trong văn học đôi mắt cũng là nơi gặp gỡ tâm hồn, là lời nói của trái tim:
“ Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
( Nguyễn Đình Thi)
“Long lanh đáy mắt gương soi
Gửi thương gợi nhớ mỏi mòn đợi ai

Ngẩn ngơ ngơ ngác mắt nai
Thiết tha kiều diễm trang đài thơ ngây”
- Hình ảnh đôi mắt em chứa đầy cảm xúc, sự suy tư:
“ Đôi mắt băn khoăn của em buồn,
Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả.
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
Anh không giấu em một điều gì
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”.
9


+ Băn khoăn, buồn.
+ Không biết gì tất cả về anh.
- Nghịch lí của cuộc sống;
+ Em khát khao thấu hiểu tâm tưởng anh. Tâm tưởng chính là phần sâu kín nhất
của con người. Là con người cảm xúc của mỗi chúng ta.
+ Anh bộc lộ tất cả những gì thuộc về mình: cuộc đời trần trụi dưới mắt em.
Cuộc đời bao gồm cả phần tâm tưởng và thể xác của con người. Cuộc đời là cả
chiều thời gian dài từ quá khứ, hiện tại đến tương lai.
-> Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh. Đây là nghịch lí của cuộc
sống nhưng lại là chân lí của tình yêu. Trong tình yêu những gì càng rõ ràng thì
người ta lại càng không hiểu. Một lời nói quá trơn tru sẽ bị nghi ngờ:
“Anh đà có vợ hay chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào”
( Ca dao)
- Nghệ thuật:
GV: Trong đọan thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì?
HS:làm việc cá nhân trả lời câu hỏi.
GV nhận xét, chốt ý.

+ So sánh, ẩn dụ: anh và em giống như trăng và biển. Văn học đã từng xuất hiện
những đôi tình nhân của tạo hóa như mây-gió, sóng biếc-cát vàng, gió mây….
Hình ảnh trăng-biển trong thơ tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, trong trẻo lung linh.
Trăng chiếu sáng mặt biển, len sâu vào lòng biển nhưng không bao giờ trăng
chiếu thấu hết mọi nơi trong tâm hồn biển. Bởi lòng biển còn có nhiều góc khuất
mà trăng không thể vươn tới bằng ánh sáng của mình. Em với anh cũng vậy.
Tâm tưởng anh phải nhìn bằng tâm hồn, em nhìn bằng đôi mắt thì làm sao hiểu
hết. Con đường từ trái tim đến trái tim là con đường khó thấu hiểu nhất của cuộc
đời. Bởi vậy mà em không bao giờ hiểu hết tâm tưởng của anh.
* Quan niệm về tình yêu của Ta-go:
- Tình yêu là thứ tình cảm đẹp, lãng mạn nhất của con người.
- Trong tình yêu người ta luôn khát khao thấu hiểu, hòa hợp. Dù khát khao đến
mấy khi yêu người ta cũng không thấy sự đồng nhất giữa hai tâm hồn. Ông
hoàng của thơ tình Việt Nam sau bao nhiêu năm sống ở vườn tình đã rút ra chân
lí:
“ Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần hơn một chút anh hờn
Em ngoan ngoãn xích gần hơn chút nữa
Anh sắp giận em mỉm cười vội vã
Đến gần anh và mơn trớn em đây
Anh liền vui nhưng bỗng buồn ngay
Vì anh nghĩ thế vẫn còn xa lắm
………………………………..
Dẫu tin tưởng chung một đời một mộng
10


Anh là anh em vẫn cứ là em”
( Xa cách – Xuân Diệu)

* Giáo dục tình yêu cho học sinh:
- Khi yêu cần phải có tình cảm chân thực, sự quyến luyến gắn bó, có sự đồng
cảm sâu sắc về tâm tư nguyện vọng, ước mơ hoài bão…sự hòa hợp về tính cách
giữa hai người.
2. Phần còn lại: hình ảnh cuộc đời, trái tim, tình yêu (18 phút)
GV sử dụng kĩ thuật mảnh ghép trong dạy học:
Vòng 1 nhóm chuyên gia: GV chia học sinh thành 4 nhóm. Tất cả các thành viên
trong nhóm xây dựng góp ý hoàn thiện câu trả lời và nắm chắc kiến thức của
nhóm mình.
Nhóm 1: Tìm hiểu về hình ảnh cuộc đời anh trong bài thơ ?
Nhóm 2: Tìm hiểu về hình ảnh trái tim anh?
Nhóm 3: Tìm hiểu về hình ảnh tình yêu?
Nhóm 4: Bài học của anh chị khi yêu qua phần 2 của bài thơ?.
Thời gian thảo luận là 3 phút.
Vòng 2 nhóm mảnh ghép GV chia học sinh thành 6 nhóm sao cho các nhóm đều
phải có học sinh từ nhóm 1 đến nhóm 4 ở vòng 1. Các em chia sẻ kiến thức với
các thành viên khác trong nhóm.
a. Hình ảnh cuộc đời anh:
HS: Nhóm 1 phát biểu.
GV: nhận xét, bổ sung.
- Cách nói giả định:
“Nếu đời anh chỉ là viên ngọc
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
và xâu thành một chuỗi
quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa
tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng
anh sẽ hái nó ra để đặt lên mái tóc em”.
+ Nếu cuộc đời anh là viên ngọc.
+ Nếu cuộc đời anh là đóa hoa.

+ Viên ngọc, đóa hoa là những vật vừa quý giá, vừa đẹp đẽ mà tạo hóa ban cho
con người. Đời anh cũng đẹp quý giá như vậy. Trên thế giới cũng có nhiều thi
nhân lấy ngọc hoa để ví von so sánh cho sự đẹp đẽ cao quý của tình yêu.
Lecmôntôp nhà thơ Nga đã viết:
“ Vì em tìm chuỗi ngọc châu
Đời anh còn mất nghĩ đâu xa gần”
( Thúy Toàn dịch)
+ Ở đoạn thơ này Ta-go dùng từ “chỉ” để nhấn mạnh rằng ngọc, hoa, châu báu
quý giá nhưng chỉ là vật chất không phải là cứu cánh của tình yêu. Theo Ta-go
chỉ có tinh thần mới là cái quý giá, cao đẹp:
“ Ôi, thân thể làm sao chạm đến cái bông hoa
11


chỉ tinh thần mới chạm được!”
( Bài 49 Người làm vườn)
- Hành động của chàng trai:
+ Đập, xâu, quàng, hái, đặt.
+ Hành động kết hợp với hình ảnh cụ thể hóa tình yêu. Anh sẵn sàng hi sinh
dâng tặng tất cả vì em. Cô gái trở thành vị chúa tể tối cao.
- Từ “nhưng” đã đẩy cánh cửa tình yêu dẫn người con gái đi sâu vào hơn một
cung bậc nữa. Cuộc đời anh không phải là hoa, là ngọc. Nếu là những vật cụ thể
ấy em sẽ hiểu anh rất nhanh. “ Đời anh là một trái tim”.
-> Quan niệm về tình yêu của Ta –go:
- Tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý nhất của con người.
- Trong tình yêu có sự hi sinh dâng tặng. Nhà thơ tình vĩ đại nước Nga đồng
quan điểm đó:
“ Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”
( Tôi yêu em – Pu- skin bản dịch của Thúy Toàn)

b. Hình ảnh trái tim anh:
HS: nhóm 2 phát biểu.
GV: nhận xét, bổ sung.
- Cách nói giả định:
“ Nếu trái tim anh chỉ là một phút giây lạc thú
Nó sẽ nở ra thành nụ cười nhẹ nhõm
Và em sẽ thấu suốt rất nhanh.
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau
Nó sẽ tan thành lệ trong
Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn”
+ Con tim anh không chỉ đơn thuần là một cảm xúc niềm vui hoặc nỗi buồn.
Nếu chỉ có vậy nó quá giản đơn. Tình yêu sẽ không còn bí ẩn nữa.
- Trái tim anh là tình yêu:
+ Trái tim là nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn.
+ Nơi khởi nguồn của tình yêu là trái tim.
+ Trái tim tình yêu có lí lẽ riêng của nó.
- Đặc điểm của trái tim anh:
“ Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó”
+ Trái tim là một thế giới đầy bí ẩn mà con người luôn khám phá.
+ Chiều sâu và biên giới của con tim là một bến bờ không xác định. Nó không
được đo bằng cơ học, bằng những con số cụ thể mà là đo bằng cảm xúc.
- Em là nữ hoàng của vương quốc trái tim anh:
“ Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu”
+ Trái tim là hình ảnh khá đặc biệt chủ nhân không đồng nhất với người sở hữu.
Người sở hữu trái tim anh là anh nhưng chủ nhân ban cho nó cảm xúc lại là em.

12



+ Em là nữ hoàng của trái tim anh. Em ngự trị mọi cảm xúc vui, buồn đau khổ
sung sướng của nó.
+ Em là nữ hoàng mà không hiểu gì vương quốc trái tim anh. Bởi trái tim không
dễ dàng đo được độ nông, sâu, rộng hẹp. Nó cũng có chiều sâu thăm thẳm như
biển cả, cũng có bến bờ vô biên như vũ trụ, nhưng cũng có lúc nó nhỏ bé như
một vương quốc mà nữ hoàng trị vì khó biết được biên giới gần xa.
-> Tình yêu là một thế giới đầy bí ẩn. Nơi khởi nguồn của trái tim là tình yêu.
Trái tim là vị quan tòa công minh nhất phán xét tình yêu.
Thi sĩ Xuân Quỳnh cũng dùng con tim để thể hiện tình yêu:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có.
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
( Xuân Quỳnh)
c. Hình ảnh tình yêu:
HS: nhóm 3 phát biểu ý kiến.
GV: nhận xét, bổ sung.
- Tình yêu luôn chứa đựng những mâu thuẫn đối lập:
“Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu”
+ Sự đối lập tồn tại và mãi tồn tại trong tình yêu. Tình yêu đòi hỏi phải thống
nhất hài hòa trong sự đối lập. Ta-go đã dùng những từ ngữ đối lập để khẳng định
sự đối lập trong tình yêu:
“ vui sướng – khổ đau
Những đòi hỏi – sự giàu sang”
+ Tình yêu luôn có sự khát khao vô biên, giàu sang, vĩnh viễn : “vô biên, giàu
sang, trường cửu”.
+ Bằng cách nói giả định để khẳng định sự bí ẩn của tình yêu. Tình yêu luôn
chứa đựng những mặt đối lập trong trạng thái cảm xúc của con người: yêu- ghét,
giận-thương, hạnh phúc-đau khổ, mong ngóng, ngậm ngùi, hờn nghen ….Nhà

thơ Nga Pus-skin phải ngỡ ngàng:
“ Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay
Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Chẳng nhìn vào mắt em”
Một nhạc sĩ người Việt cũng thấy sự phức tạp mâu thuẫn trong tình yêu của
người con gái:
“Con gái nói ghét là thương
Con gái nói thương là ghét đó
13


Con gái nói giận là yêu
Con gái còn yêu là còn giận”
-Tình yêu là một bí mật mà mà từ cổ chí kim cả thế giới phải đi tìm:
“ Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”
+ Tình yêu rất gần cũng rất xa. Tình yêu giữa anh và em khăng khít như chung
cuộc đời, gắn bó nhau như máu thịt nhưng thật kì lạ là em vẫn chưa hiểu anh
một cách trọn vẹn. Ta-go đã từng nói: Tình yêu là cuộc đời trong trạng thái đầy
như cốc rượu chăng? Rượu vơi đi vẫn được rót thêm vào và mãi mãi vẫn đầy,
như vậy làm cho ta không kịp uống cạn chén chăng! Sự trọn vẹn trong tình yêu
là vô hạn. Thật nghịch lí, dù khẳng định vậy, biết trước vậy nhưng tình yêu vẫn
khát khao biết trọn nó. Nếu mỗi người tình đều hướng về cái trọn vẹn để nắm
bắt, để khám phá, sáng tạo thì công việc đó chính là hạnh phúc. Muốn có hạnh
phúc trong tình yêu không gì bằng ngày ngày cứ nhân lòng tin yêu, sự hiểu biết

sự hòa hợp lên như rót đầy cốc rượu nồng. Đó là chân lí của Ta-go, nhà thơ trữ
tình tinh tế bậc nhất thế giới.
+ Em là nữ hoàng của vương quốc tình yêu nhưng không bao giờ biết trọn về
nó.
-> Tình yêu luôn có khát khao giàu sang, trường cửu và vô biên. Tình yêu rất
gần cũng rất xa. Chính vì vậy mà ngàn đời nhân loại đi tìm tình yêu:
“ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
( Xuân Diệu)
d. Giáo dục cho học sinh tình yêu chân chính:
HS nhóm 4 phát biểu
GV: nhận xét, bổ sung.
- Là một học sinh THPT các em cần phải có một tình yêu phù hợp với lứa tuổi,
với chuẩn mực đạo đức xã hội. Đối với người Việt Nam sự trong trắng của
người con gái trước khi lấy chồng là thước đo phẩm chất, đạo đức, nhân cách.
+ Có sự quan tâm sâu sắc đến nhau không vụ lợi thể hiện bằng sự chăm lo nhu
cầu, lợi ích của nhau, tự nguyện xác định cho mình nghĩa vụ đối với người mình
yêu. Tình yêu chân chính đòi hỏi mỗi người phải biết sống vì nhau, trong nhiều
trường hợp còn biết hi sinh cho nhau để đạt được ước mơ, hoài bão tốt đẹp.
+ Có sự chân thành tin cậy từ hai phía. Thiếu đi sự chân thành tin cậy và tôn
trọng với người mình yêu thì tình yêu không có cơ sở để tồn tại.
+ Có lòng vị tha và thông cảm. Bởi trong cuộc sống không ai là hoàn thiện. Sự
cố chấp và thiếu lòng vị tha sẽ là kẻ thù nguy hiểm của tình yêu.
-> Tình yêu chân chính làm cho con người trưởng thành và hoàn thiện hơn. Bởi
vì tình yêu là động lực mạnh mẽ để cá nhân vươn lên hoàn thiện bản thân.
- Để có một tình yêu chân chính cần tránh những điều sau:

14



+ Yêu đương quá sớm. Ở lứa tuổi học sinh các em không nên yêu vì chưa hoàn
thiện về mặt nhận thức. Yêu đương quá sớm sẽ sao nhãng việc học tập.
+ Không nên yêu theo thách thức, phong trào.
+ Không nên qua hệ tình dục trước hôn nhân. Ở Việt Nam phụ nữ như vậy là vi
phạm chuẩn mực đạo đức dư luận xã hội không đồng tình. Việc này còn dẫn đến
những hậu quả khôn lường: như có thai ngoài ý muốn, dẫn tới vô sinh, tạo điều
kiện thuận lợi cho các bệnh lây lan qua đường tình dục.
3. Nghệ thuật bài thơ (2 phút):
GV: Nêu những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ?
HS: Làm việc cá nhân trả lời.
GV: nhận xét bổ sung.
- Cấu trúc sóng đôi
- Nghệ thuật so sánh ẩn dụ.
- Cách nói giả định
- Bài thơ được cấu trúc theo tư duy hướng nội, hướng vào tâm linh. Các hình
ảnh thể hiện ý nghĩa theo tầng bậc từ thấp đến cao từ cụ thể đến trìu tượng.
III. Tổng kết (3 phút):
GV: Hãy điền nội dung vào phiếu học tập sau:
Giáo dục tình yêu chân
Nội dung
Nghệ thuật
chính

HS lên bảng điền vào phiếu học tập.
1. Nội dung:
*Qua bài thơ Ta – go đã thể hiện quan niệm của mình về tình yêu:
- Tình yêu là thứ tình cảm đẹp, lãng mạn, thiêng liêng cao quý nhất của con
người. Trong tình yêu người ta luôn khát khao thấu hiểu, hòa hợp.

- Tình yêu có sự hi sinh, dâng tặng.
- Tình yêu là một thế giới đầy bí ẩn. Nơi khởi nguồn của trái tim là tình yêu.
- Tình yêu luôn có khát khao giàu sang, trường cửu, vô biên. Tình yêu rất gần
cũng rất xa. Chính vì vậy mà ngàn đời nhân loại đi tìm tình yêu.
2. Nghệ thuật:
- Cấu trúc sóng đôi.
- Nghệ thuật so sánh ẩn dụ.
- Cách nói giả định
- Bài thơ được cấu trúc theo tư duy hướng nội, hướng vào tâm linh. Các hình
ảnh thể hiện ý nghĩa theo tầng bậc từ thấp đến cao từ cụ thể đến trìu tượng
3. Giáo dục cho học sinh tình yêu chân chính:
- Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng lành mạnh, phù hợp với các quan
hệ đạo đức tiến bộ. Trong tuổi học trò không nên yêu quá sớm. Nếu không ngăn
được con tim thì phải hướng tới một tình yêu là động lực để cả hai cùng có một
tương lai tươi sáng, là người có ích cho xã hội.
15


Phần 2: Đề kiểm tra:
- Phần kiểm tra trắc nghiệm khách quan: (3 điểm) có 12 câu, mỗi câu 0,25
điểm:
Câu 1. Ta-go là nhà thơ của đất nước nào?
A. Nga
B. Trung Quốc
C. Pháp
D. Ấn Độ
Đáp án D.
Câu 2. Bài thơ số 28 được rút trong tập thơ nào của Ta-go?
A. Thơ dâng
B. Người làm vườn

C. Tặng phẩm người yêu
D. Mùa hái quả
Đáp án B.
Câu 3.Tập thơ Người làm vườn được xuất bản năm bao nhiêu?
A. Năm 1913
B. Năm 1914
C. Năm 1915
D. Năm 1916
Đáp án B.
Câu 4. Hình ảnh “ đôi mắt em” chứa đựng tâm trạng cảm xúc nào?
A. Vui
B. Sung sướng
C. Băn khoăn, buồn
D. Lo âu
Đáp án C.
Câu 5. Ta-go đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào trong các câu thơ sau?
“ Đôi mắt băn khoăn của em buồn,
Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả”
A. Ẩn dụ, so sánh
B. Điệp từ, điệp ngữ
C. Nhân hóa, hoán dụ
D. Ngoa dụ, đối lập
Đáp án A.
Câu 6. Nhà thơ Ta-go đã giả định đời anh là hình ảnh nào?
A. Trăng, biển
B. Ngọc, hoa
C. Trái tim
D. Tình yêu
Đáp án B.

Câu 7. Ta-go đã ví đời anh là gì?
16


A. Trái tim
B. Tình yêu
C. Vương quốc
D. Lệ trong
Đáp án A.
Câu 8. Hình ảnh trái tim được nhà thơ định nghĩa là gì?
A. Cuộc đời
B. Đóa hoa
C. Tình yêu
D. Viên ngọc
Đáp án C.
Câu 9. Hình ảnh ngọc, hoa cho ta cảm nhận về tình yêu như thế nào?
A. Lãng mạn
B. Đẹp, trong sáng, cao quý
C. Gần gũi
D. Trong sáng
Đáp án B.
Câu 10. Những đặc điểm nào sau đây về tình yêu khiến cả thế giới phải đi tìm?
A. Bí ẩn, đẹp, lãng mạn, cao quý
B. Đẹp
C. Lãng mạn
D. Cao quý, trong sáng
Đáp án A.
Câu 11. Những đòi hỏi và sự giàu sang của tình yêu có đặc điểm gì?
A. Trường cửu
B. Vô biên

C. Bí ẩn
D. Rất gần cũng rất xa.
Đáp án A.
Câu 12. Qua Bài thơ số 28 giáo dục cho các em một tình yêu như thế nào?
A. Tình yêu chân chính
B. Tình yêu lãng mạn
C. Tình yêu hưởng thụ
D. Tình yêu lí trí
Đáp án A.
Phần tự luận (7 điểm):
- Quan niệm về tình yêu của Ta – go trong Bài thơ số 28? Qua bài thơ em rút
ra cho mình một tình yêu như thế nào?
Đáp án
1. Yêu cầu về kĩ năng ( 1điểm)
-Trình bày rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, bố cục ba phần
- Ưu tiên những bài viết có sáng tạo
2. Yêu cầu về kiến thức ( 6 điểm):
17


*Quan điểm về tình yêu qua bài thơ ( 4 điểm):
-Tình yêu là thứ tình cảm đẹp, lãng mạn của con người. Trong tình yêu người ta
luôn khát khao thấu hiểu nhưng chỉ đạt tới sự hòa hợp chứ không thể đồng nhất.
(1đ):
+ Hình ảnh đôi mắt em chứa đầy tâm trạng, sự suy tư.
+ Ngịch lí.
+ Nghệ thuật: so sánh. ẩn dụ (trăng, biển).
- Tình yêu là tình cảm, thiêng liêng cao quý nhất của con người. Trong tình yêu
luôn có sự hi sinh, dâng tặng (1đ):
+ Hình ảnh ngọc, hoa.

+ Hành động.
+ Cuộc đời là trái tim.
- Tình yêu là một thế giới đầy bí ẩn. Nơi khởi nguồn của tình yêu là trái tim
(1đ):
+ Đặc điểm của trái tim.
+ Chủ nhân của trái tim không phải là người sở hữu.
+ Trái tim là tình yêu.
- Tình yêu luôn chứa đựng những mặt đối lập. Tình yêu luôn đòi hỏi giàu sang
và trường cửu. Nhân loại ngàn đời vẫn không hiểu hết tình yêu.(1đ)
*Bài học về tình yêu qua bài thơ (1,5 điểm):
- Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng lành mạnh, phù hợp với các quan
hệ đạo đức tiến bộ. Trong tuổi học trò không nên yêu quá sớm. Nếu không ngăn
được con tim thì phải hướng tới một tình yêu là động lực để cả hai cùng có một
tương lai tươi sáng, là người có ích cho xã hội.
* Nghệ thuật (0,5 điểm):
- Cấu trúc sóng đôi.
- Nghệ thuật so sánh ẩn dụ.
- Cách nói giả định.
- Bài thơ được cấu trúc theo tư duy hướng nội, hướng vào tâm linh. Các hình
ảnh thể hiện ý nghĩa theo tầng bậc từ thấp đến cao từ cụ thể đến trìu tượng.
2. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường:
- Hoạt động giáo dục:
+ Chất lượng dạy học môn Ngữ văn được nâng lên.
+ Nâng cao năng lực tư duy cho học sinh trong học tập.
+ Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua bài học.
- Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với bản thân:
+ Kiến thức được năng lên vững vàng tiến bộ.
+ Bài giảng có chiều sâu, cảm xúc, chủ động sáng tạo, áp dụng phương pháp
mới có hiệu quả.

+ Có kiến thức về lí luận, về tác giả.
- Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với đồng nghiệp, nhà trường:
+ Chất lượng giáo dục được nâng lên
18


+ Giờ học Ngữ văn trở nên sinh động hấp dẫn
+ Học tập được những kinh nghiệm của đồng nghiệp khi áp dụng sáng kiến vào
thực tiễn giáo dục.
* Kết quả học tập cụ thể:
- Về nhận thức:
+ Học sinh hứng thú với bài dạy, 100% học sinh hiểu bài.
+ Hăng say với bài học, chủ động trong tiếp thu tri thức bài học.
* Năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết thực tiễn của học sinh:
Thực nghiệm giảng dạy của tôi được tổ chức ở hai lớp 11B2, 11A3.
Lớp 11A3 tôi dạy thực nghiệm. Lớp 11B2 tôi dạy đối chứng không áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm. Sau khi dạy thực nghiệm và đối chứng tôi cho học làm bài
kiểm tra, tôi chấm bài và thu được kết quả học tập như sau :
Lớp 11A3 kì II năm học 2017-2018 áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Tổng số
SL
%
SL
%
SL
%

SL
%
40
10
25
20
50
10
25
0
0
Lớp 11B2 năm học kì II năm học 2015-2016 không áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Tổng số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
40
5
12,5
10

25
20
50
5
12,5
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3. 1. Kết luận:
Đề tài Giáo dục tình yêu chân chính cho học sinh qua “Bài thơ số 28”
của Ta-go đã đem đến cách tiếp cận tác phẩm mới cho việc và dạy học văn trong
nhà trường, điều đó giúp học sinh say mê khám phá cái hay cái đẹp cuả tác
phẩm văn chương đồng thời hiểu được giá trị chân-thiện-mĩ của một tác phẩm
văn học chân chính.
Bài thơ số 28 của Ta-go đã thể hiện một tình yêu vô biên không có giới
hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, luôn luôn phải khám phá và sáng tạo,
tâm hồn hòa hợp tin yêu và hiểu biết nhau….Khát vọng đó không bao giờ tắt.
Tác phẩm giàu chất trữ tình được phô diễn bằng lời lẽ, lập luận, hình ảnh sinh
động. Tác giả đặt vấn đề rồi phản đề để khẳng định chân lí, điều đó phù hợp với
tư duy của người Ấn. Khi nhìn một bản thể, một sự vật, người Ấn luôn nghi vấn,
cố khám phá sự thực để khẳng định chân lí. Hướng về cái vô hạn của vũ trụ,
chiêm nghiệm chiều sâu thế giới tâm linh con người. Bài thơ đã làm nổi bật đặc
điểm đó.
3. 2. Kiến nghị:
Nếu muốn đổi mới dạy học môn văn trong trường cần phải có sự chung
tay góp sức của cả học sinh và giáo viên. Học sinh không chịu đọc tác phẩm, tìm
19


tòi suy nghĩ thì một mình giáo viên cũng bất lực. Muốn chất lượng học sinh
đựơc nâng lên phải có nền tảng từ các bậc học dưới. Theo tôi cần phải rèn cho
học sinh kĩ năng tự học, tự tư duy cho học sinh ngay từ khi bước chân vào lớp

một.
Trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại trong nhà trường. Để đảm bảo
nghiêm túc trong các kì thi lớn cần phải giám sát bằng ca me ra. Có như vậy các
em mới có được ý thức tự học.
Là một giáo viên dạy ở một trường phải chung với một cơ sở dạy nghề
nhiều khi rất khó quản lí học sinh. Tôi kính mong Sở giáo dục và các cấp có
thẩm quyền tạo điều kiện cho trường chúng tôi có một cơ sở riêng để chúng tôi
có điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục.

Xác nhận của Hiệu trưởng

Thanh Hoá, ngày 8 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Nguyễn Thị Thuỷ

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 cơ bản tập 2. Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
2. Kiến thức cơ bản Văn- Tiếng Việt lớp 11 nhà xuất bản Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
3. Để học tốt Văn – Tiếng Việt nhà xuất bản giáo dục.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn cơ bản lớp 12 tập 2 nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
5. Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao lớp 11 tập 2 nhà xuất bản Giáo dục.

6. Sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 10 nhà xuất bản Giáo dục.
7. Cẩm năng luyện thi quốc gia môn Ngữ văn của Phan Danh Hiếu nhà xuất
bản Đaị học quốc gia Hà Nội.
8. Báo sức khỏe.
9. Báo giáo dục Việt Nam.
10. Thơ Xuân Diệu chọn lọc nhà xuất bản Văn học.
11. Xuân Quỳnh thơ và đời nhà xuất bản Văn học.
12. Tình yêu có ở muôn nơi nhà sách Phương Nam.
13.Tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường – Ta- go nhà xuất
bản Đại học sư phạm.
14. Sách giáo viên văn học 11 phần văn học nước ngoài nhà xuất bản Giáo
dục năm 2000.
15. Báo sống trẻ. Jing. Vn.

21


PHỤ LỤC:
- Trích từ tài liệu số 1:
“Đôi mắt băn khoăn của em buồn
Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả
Anh đã để cuộc đời anh trần trụi dưới mắt em,
Anh không giấu em một điều gì
Chính vì thế mà em không biết gì tất cả về anh”.
“Nếu đời anh chỉ là viên ngọc
anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh
và xâu thành một chuỗi
quàng vào cổ em.
Nếu đời anh chỉ là một đóa hoa

tròn trịa, dịu dàng và bé bỏng
anh sẽ hái nó ra để đặt lên mái tóc em”.
“Nếu trái tim anh chỉ là một phút giây lạc thú
Nó sẽ nở ra thành nụ cười nhẹ nhõm
Và em sẽ thấu suốt rất nhanh
Nếu trái tim anh chỉ là khổ đau
Nó sẽ tan thành lệ trong
Và lặng im phản chiếu nỗi niềm u ẩn”
“Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu”
“Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên
Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là trường cửu”
- Trích từ tài liệu số 3:
“Đối với những người sinh ra ở xứ Ben-gan chúng tôi, tên tuổi Ta-go
đồng nghĩa với những thành tựu của nền văn học Ben-gan. Những người thuộc
thế hệ tôi lớn lên và muốn hay không muốn hình thành dưới ảnh hưởng nhân
cách kiệt xuất của ông. Trước mắt chúng tôi là con người đạt đến sự hiến mình
nhiều thế kỉ của dân tộc Ấn Độ, đồng thời lại gần gũi với những vấn đề của
ngày hôm nay đang chuyển mình tới tương lai. Thế giới tinh thần của ông rất
Ấn Độ, ông lại bao quát được tinh thần nhân loại nói chung. Ta-go vừa rất dân
tộc lại vừa là của chung toàn thế giới. Sau khi gặp ông hay đọc những gì của
ông viết ta cảm như mình vừa đặt chân lên đỉnh cao của kinh nghiệm và tri thức
nhân loại”.
- Trích từ từ liệu số 4:
“Giá trị nhận thức là khả năng văn học có thể đáp ứng được những yêu
cầu của con người muốn hiểu biết rõ hơn, sâu hơn cuộc sống xung quanh và
chính bản thân mình, từ đó tác động vào cuộc sống có hiệu quả hơn”. Giá trị
giáo dục của văn học “thể hiện ở khả năng đem đến cho con người những bài
học quý về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân ngày một tốt đẹp hơn. Văn học
22



chính là phương tiện hiệu nghiệm để tạo nên ở con người tất cả những gì mang
tính nhân đạo chân chính. Với khả năng ấy, văn học không chỉ góp phần hoàn
thiện con người, mà còn hướng họ tới những hành động cụ thể, thiết thực, vì một
ngày mai tốt đẹp hơn”.
- Trích từ tài liệu 6:
“Tình yêu là một dạng tình cảm đặc biệt của con người, xuất hiện ở cả
nam và nữ khi đến tuổi trưởng thành. Tình yêu là sự rung động tình cảm và
quyến luyến sâu sắc giữ hai người. Ở họ có sự phù hợp về nhiều mặt … làm cho
họ có nhu cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn sàng hiến
dâng cho nhau trong cuộc sống của mình.
Tình yêu là tình cảm sâu sắc, đáng trân trọng của cá nhân, tuy nhiên
không nên cho rằng đó chỉ là việc riêng tư của mỗi người. Tình yêu luôn mang
tính xã hội.
Tình yêu chân chính là tình yêu trong sáng và lành mạnh, phù hợp với các
quan niệm đạo đức tiến bộ của xã hội”.
- Trích từ tài liệu số 8:
Theo bài “ Thực trạng bất ngờ về tình dục học đường ở Việt Nam hiện
nay” báo “Sức khỏe” đã đưa ra một số liệu kinh khủng về quan hệ tình dục học
đường. Phóng viên đã trao đổi với ông Trần Thành Nam ( tiến sĩ tâm lí trẻ em và
vị thành niên – Đại học quốc gia Hà Nội) về vấn đề này “Theo số liệu của tôi và
đồng nghiệp, chọn mẫu tại một số trường ở Hà Nội và ngoại thành Hà Nội, đến
hết lớp 9 có khoảng 10% học sinh đã từng quan hệ tình dục, tính đến lớp 12 thì
con số là 39%. Trong số học sinh THPT thừa nhận có quan hệ tình dục thì có
đến 29,5% các em nam cho biết không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ
gần nhất, chỉ có 8% em nữ nói rằng mình sử dụng ít nhất một hình thức phòng
tránh thai nào đó. Đáng nói, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng quan
hệ với từng 3 người trở lên, khoảng 15% các em sử dụng chất kích thích trong
lần quan hệ gần nhất.

Độ tuổi trung bình quan hệ tình dục lần đầu ở Mĩ là 18, ở Việt Nam cũng
là 18 theo nghiên cứu 2010. Tuy vậy tỉ lệ phá thai ở Mĩ thấp hơn nhiều so với ở
Việt Nam.
- Trích từ tài liệu số 10:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
“Có một bận anh ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần hơn một chút anh hờn
Em ngoan ngoãn xích gần hơn chút nữa
Anh sắp giận em mỉm cười vội vã
Đến gần anh và mơn trớn em đây
Anh liền vui nhưng bỗng buồn ngay
Vì anh nghĩ thế vẫn còn xa lắm
………………………………..
23


Dẫu tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh em vẫn cứ là em”
- Trích từ tài liệu số 14:
“Ta – go làm thơ tình vào lúc tuổi đã ngoài năm mươi, sau khi bà
Mrinalini Đêvi, người vợ yêu dấu của ông qua đời. Nhiều bài thơ trong tập “
Người làm vườn” và “ Tặng phẩm của người yêu ông dành tặng vợ. Một người
Ấn Độ đã nói rằng: “ Khi Ta – go có những nỗi buồn lớn, ông đã viết những bài
thơ tình đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng tôi”.
Những bài thơ tình của ông đã gây một luồng không khí hào hứng phấn
chấn trong tầng lớp thanh niên Ấn Độ. Ilya Erenbua, nhà văn Nga cũng cũng đã
nói: “ Thanh niên Ấn Độ khi yêu nhau hay đọc thơ ông, bởi ông viết về tình yêu
rất hay. Ông hiểu tất cả những gì mới mẻ, tất cả những gì thuộc về con người”.

Trong các bài thơ tình của Ta-go, Bài thơ số 28 trong tập Người làm vườn
là hay hơn cả, được nhiều người ưa thích. Bài thơ đã được chọn in vào nhiều tập
thơ tình hay của thế giới”.
- Trích từ tài liệu số 15:
Tháng 3 năm 2012 cô học sinh ngoan hiền ở Trường THPT Diễn Châu 2
(huyện Diễn Châu, Nghệ An) đã chuyển dạ trên lớp rồi sinh ra một bé gái. Một
học sinh lớp 10 ở Trường THPT Diệp Minh Châu, huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre cũng sinh một bé trai 2,5 kg sau khi đi học thể dục về. Nhiều giáo viên ở
Trường THPT Ninh Giang, Hải Dương cũng không thể quên được cái chết
thương tâm của cô học sinh lớp 10 trường này. Quá hoảng sợ, T đã uống thuốc
trừ cỏ phá thai để rôi phải đổi cả bằng mạng sống của mình. Một số em khác thì
bỏ học để làm mẹ. Em Hồ Thị Hoa lấy chồng từ khi 15 tuổi đang là học sinh lớp
7 trường THCS bán trú Pa Nang. Một trường hợp khác cũng ở trường này là em
Hồ Thị Dại bỏ học lấy chồng năm 17 tuổi. Ở xã Pa Nang có những đứa trẻ lên
bốn vẫn chưa làm được giấy khai sinh vì cha mẹ chưa đủ tuổi kết hôn. Chúng
cũng không được hưởng bất kì một chương trình chăm sóc đặc biệt nào.”

24



×