Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

10 tiểu luận tổ chức xã hội và tổ chức xã hội và tổ chức chính trị xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.64 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ PHONG TRÀO XÃ HỘI

Họ và tên học viên:
Lớp:
Trường:

Đại học

1


I. Tổ chức xã hội và tổ chức chính trị - xã hội
1. Khái quát chung về tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống
chính trị nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự
nguyện, tự quản của người lao động được tổ chức và hoạt
động theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước,
nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của
các thành viên.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi
các cơ quan nhà nước mà còn được hình thành bởi các tổ
chức xã hội và cá nhân. Là một bộ phận của hệ thống
chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng
về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Ðảng cộng Sản Việt
Nam, Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam,
Trọng tài kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội Luật


gia...
Các tổ chức xã hội được hiểu là hình thức tổ chức tự
nguyện của công dân, tập hợp các thành viên có chung
mục đích, hoạt động theo pháp luật và điều lệ, không vì lợi
2


nhuận nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các
thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã
hội.
Các tổ chức xã hội có những đặc điểm chung nhất định,
phân biệt với các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế.
Các đặc điểm đó bao gồm:
- Các tổ chức xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự
nguyện của những thành viên cùng chung một lợi ích hay
cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở thích….
Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc nhân dân
được quyền tự do lựa chọn và quyết định tham gia hay
không tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó. Không ai
có quyền ép buộc một người nào đó phải tham gia hay
không được tham gia vào các tổ chức xã hội nhất định.
Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa với tự
do vô tổ chức mà mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu
chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên
của tổ chức xã hội đó.
Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai
trừ các thành viên của tổ chức hoàn toàn do tổ chức xã hội
và những thành viên của tổ chức đó quyết định chứ nhà
nước không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực
nhà nước để chi phối hoạt động đó.

- Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để
tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ trong trường
3


hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt
động nhân danh nhà nước.
- Các tổ chức xã hội hoạt động tự quản theo quy định của
pháp luật và theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức
xây dựng.
- Các tổ chức xã hội hoạt động không nhằm mục đích lợi
nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
thành viên.
Thứ nhất, có 5 loại tổ chức xã hội ở Việt Nam là tổ chức
trính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội
nghề nghiệp, các tổ chức tự quản và tổ chức khác.
Thứ hai, Điều 104 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định pháp
nhân là tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp:
"1. Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép thành lập, công nhận điều lệ và có
hội viên là cá nhân, tổ chức tự nguyện đóng góp tài sản
hoặc hội phí nhằm phục vụ mục đích của hội và nhu cầu
chung của hội viên là pháp nhân khi tham gia quan hệ dân
sự.
2. Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp chịu trách nhiệm dân sự
bằng tài sản của mình.


4


3. Trong trường hợp tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp chấm
dứt hoạt động thì tài sản của tổ chức đó không được phân
chia cho các hội viên mà phải được giải quyết theo quy
định của pháp luật."
Theo đó, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có đặc điểm: được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập, công
nhận điều lệ. Hội viên có thể bao gồm cả cá nhân và tổ
chức, tài sản của loại tổ chức này được hình thành chủ yếu
từ sự đóng góp tự nguyện của các hội viên hoặc hội phí,
nhằm phục vụ cho nhu cầu chung của hội viên và mục
đích của tổ chức.
Chỉ các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự năm
2005 mới trở thành tổ chức có tư cách pháp nhân và chịu
sự điều chỉnh của các Khoản 2,3 của điều luật này. Pháp
nhân là tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp phải chịu trách nhiệm
độc lập bằng tài sản của mình như các pháp nhân nói
chung. Khoản 3 Điều 104 Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ
nhằm xác định rõ tính chất độc lập trong việc gánh vác
trách nhiệm dân sự của tổ chức này: có sự tách biệt rõ ràng
giữa tài sản riêng của hội viên và tài sản của tổ chức; hội
5



viên không có nghĩa vụ phải đem tài sản của mình để thực
hiện nghĩa vụ dân sự của tổ chức. Như vậy, không có quy
định đơn vị cụ thể nào được coi là tổ chức tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp.
Các tổ chức xã hội có thể là chủ thể của quản lý nhà nước
nhưng không phải là chủ thể mặc nhiên. Các tổ chức xã
hội khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước
không được quyền nhân danh nhà nước nếu không được
pháp luật quy định vì tổ chức xã hội không phải là một
thành phần trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ
thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng
việc quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các tổ
chức xã hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các
tổ chức xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không nhân
danh nhà nước, không sử dụng quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp do pháp luật quy định,
nhà nước trao quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các
tổ chức này được thay mặt nhà nước quản lý một số công
việc nhất định, lúc này tổ chức xã hội mới được phép nhân
danh nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước, các quyết
định do tổ chức xã hội đưa ra mới mang tính chất quyền
lực nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với những đối
tượng có liên quan.
Ví dụ: tổ chức Công đoàn được nhà nước cho phép thực
hiện hoạt động kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo
6


hộ lao động, hợp đồng lao động, chế độ tuyển dụng, cho

thôi việc, tiền lương...
2. Khái quát chung về tố chức chính trị- xã hội
Tổ chức chính trị xã hội ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa
là tập hợp những người có chung mục tiêu về chính trị, có
cùng đặc điểm xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cùng xây dựng Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là tổ chức mang màu sắc chính trị với vai trò là đại
diện của các tầng lớp trong xã hội đối với hoạt động của
nhà nước cũng như đóng một vai trò quan trọng trong hệ
thống chính trị, cơ sở của chính quyền nhân dân.
Tổ chức chính trị - xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và
chia thành nhiều lớp hoạt động.
Theo quy định tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013, các tổ chức
chính trị - xã hội ở Việt Nam bao gồm: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chính Minh, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Đây là
các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự
nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ
chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

7


Tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức tự nguyện được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có
hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương. Các tổ

chức xã hội này có điều lệ hoạt động do hội nghị toàn thể
hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua.
Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, động viên và phát huy tích cực xã hội của các
tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị;
chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của Nhân
dân; Tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần thực hiện và thúc
đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức chính trị xã hội được quy định cụ thể trong Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Luật công đoàn, Luật thanh niên, Điều lệ Hội
liên hiệp phụ nữ Việt nam, Điều lệ Hội Nông dân Việt
Nam, Điều lệ Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
3. So sánh tổ chức xã hội và tổ chức chính trị- xã hội
Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng, tổ chức xã hội
và tổ chức chính trị - xã hội có nhiều điểm giống và khác
nhau.

8


Tổ chức chính trị - xã hội là một loại tổ chức xã hội. Bởi
vậy nó cũng mang những đặc điểm chung của tổ chức xã
hội như:
- Đều được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện của
những thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai
cấp, cùng nghề nghiệp, cùng sở thích….
- Đều nhân danh chính tổ chức mình để tham gia các hoạt

động quản lý nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do
pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân
danh nhà nước.
- Đều hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và
theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng.
- Đều hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Bên cạnh đó, giữa hai tổ chức cũng có sự khác biệt, Cụ
thể:
Tổ chức xã hội
Tính chất

Tổ chức chính trị xã hội
Tổ chức xã hội thể Tổ chức chính trị hiện tính xã hội của xã hội thống nhất
tổ chức
giữa hai mặt chính trị
và xã hội
Có thể không phải là Là cấp hành chính
cấp hành chính.
Ví dụ: Thôn, tổ dân
phố không phải là
9


một cấp hành chính
mà là tổ chức tự
quản của cộng đồng
dân cư có chung địa
bàn cư trú.
Phân loại Gồm 5 tổ chức:

- Tổ chức chính trị
- Tổ chức chính trị xã hội
- Tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp
- Các tổ chức tự quản
- Tổ chức khác

Gồm 6 tổ chức:
Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam
Công đoàn
Việt Nam
Hội Nông dân
Việt Nam
Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ
Chính Minh
Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam
Hội Cựu
chiến binh Việt Nam.
Bản chất
Không trực tiếp thực Trực tiếp thực hiện
hiện các nhiệm vụ các nhiệm vụ của
của Đảng và Nhà Đảng và Nhà nước
nước
Vai trò và Nhân danh tổ chức Vừa tham gia quản
Nhiệm vụ mình khi tham gia lý phát triển xã hội,
vào quản lý nhà vừa phải bảo vệ lợi
10



nước, quản lý xã hội
nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của các
thành viên.
Tổ chức xã hội có
một vai trò quan
trọng trong việc đòi
hỏi và thúc đẩy tinh
thần trách nhiệm của
Nhà nước đối với
công dân của mình
thông qua giám sát
và phản biện chính
sách.
Hệ thống Một số tổ chức xã
tổ chức
hội không được tổ
chức từ trung ương
đến địa phương.
Ví dụ như: Đoàn Luật
sư là một tổ chức xã
hội – nghề nghiệp
không được tổ chức
từ trung ương đến địa
phương.
Hội viên
Hội viên có thể bao
gồm cả cá nhân và tổ


ích chính đáng của
các thành viên, vừa
giám sát, vừa vận
động đoàn kết giúp
nhau chấp hành tốt
đường lối của Đảng,
luật pháp và chính
sách của Nhà nước.

Từ trung ương đến
địa phương

Hội viên chỉ bao
gồm các cá nhân
11


chức
Ngân sách Từ ngân sách của Nhà Một phần từ ngân
nước, sự đóng góp sách Nhà nước và
của các thành viên một phần từ sự đóng
trong tổ chức.
góp của các thành
Ngân sách nhà nước viên trong tổ chức.
hỗ trợ cho các tổ chức Ví dụ: cá nhân tham
chính trị - xã hội nghề gia vào tổ chức công
nghiệp, tổ chức xã đoàn phải đóng phí
hội, tổ chức xã hội - Công đoàn. Bên cạnh
nghề nghiệp trên cơ đó, Nhà nước cũng
sở các nguồn thu tự cấp ngân sách để chi

bảo đảm hoạt động cho các hoạt động
của các tổ chức này của tỏ chức này.
theo chế độ chi tiêu
tài chính hiện hành và
khả năng của ngân
sách nhà nước các cấp
hàng năm.
II. Phong trào xã hội.
1. Khái quát chung về phong trào xã hội
Phong trào xã hội là sự vận động, chuyển động, huy động
của một số người làm thúc đẩy sự thay đổi hoặc cản trở sự
thay đổi (trật tự xã hội, văn hóa,…) trong xã hội. Phong
trào xã hội xuất hiện khi có vấn đề bức xúc trong xã hội.
Nó thực chất phải được thực hiện từ dưới lên trên, do
12


chính người dân tham gia phát hiện và động chạm trực tiếp
đến tất cả mọi người. Thủ lĩnh của phong trào thường mãi
mới xuất hiện mà không xuất hiện từ ban đầu. Bộ máy của
phong trào xã hội là tổ chức xã hội dân sự.
Phong trào xã hội giải quyết vấn đề xã hội trực tiếp với
mục tiêu rõ ràng. Câu khẩu hiệu của phong trào xã hội thì
cụ thể nên có khả năng huy động lực lượng nhanh, mạnh.
Kinh phí cho hoạt động của phong trào thường là do tự
giác, tự nguyện đóng góp, huy động nguồn lực từ người
tham gia, người ủng hộ.
Điều này thể hiện sự khác biệt của phong trào xã hội với
phong trào chính trị - xã hội. Phong trào chính trị - xã hội
được thực hiện từ trên xuống dưới. Thủ lĩnh của phong

trào thường là tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia của
cả hệ thống chính trị, đằng sau là sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Kinh phí hoạt động được lấy chủ yếu
từ nguồn ngân sách Nhà nước. Tính tự nguyện tham gia vì
mục đích có lợi ít.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, chỉ có khoảng 10% làm việc
trong khu vực Nhà nước. Bởi vậy, các phong trào chính trị
- xã hội của nhóm này bị trượt ra khỏi xã hội, không
hướng đến toàn bộ cộng đồng.
Bản chất của phong trào chính trị - xã hội chủ yếu vì mục
tiêu chính trị, với nòng cốt là tổ chức chính trị - xã hội. bộ
máy quan liêu, bộ máy nhiệm sở.
Điều quan trọng là phong trào chính trị - xã hội dó giải
quyết vấn đề gì thì chưa được thể hiện rõ, chưa thể hiện
13


được tính bức xúc trong vấn đề xã hội. Các khẩu hiệu đưa
ra thường chung chung, mơ hồ, trừu tượng.
Trong khi đó, phong trào xã hội chính là những biểu hiện
cho sự truyền tải ý tưởng và tư tưởng. Phong trào xã hội
không đơn thuần là một phong trào chính trị, đó có thể
là phong trào nghệ thuật, phong trào tôn giáo, phong trào
khoa học – công nghệ, phong trào chống phân biệt đối
xử… góp phần làm thay đổi diện mạo xã hội.
Phong trào xã hội trải qua các giai đoạn:
Giai đoạn 1: phát hiện vấn đề xã hội nảy sinh. Vấn đề này
chưa có thủ lĩnh.
Giai đoạn 2: xuất hiện thủ lĩnh
Giai đoạn 3: hình thành tổ chức xã hội có người đứng đầu,

có bộ phận liên lạc, khẩu hiệu,…
2. Sự hình thành và phát triển của một phong trào xã
hội cụ thể ở Việt Nam.
Phong trào “Tôi Đồng Ý”, vận động đòi quyền hôn nhân
bình đẳng cho người đồng tính, trong năm 2013, 2014 đã
gây một tiếng vang lớn trong cả nước.
Vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, một phong trào kì dị
chưa từng có trong lịch sử loài người đã diễn ra ở
California, phong trào đòi quyền bình đẳng cho người
đồng tính, do Harvey Milk lãnh đạo.
Trong nhiều thế kỷ, trải qua suốt đêm trường Trung Cổ,
đồng tính bị coi như một tội lỗi ở phương Tây. Bước vào
thời Khai Sáng, dù đồng tính không bị coi là tội lỗi nữa
nhưng số đông loài người vẫn giữ một thái độ kỳ thị với
14


người đồng tính. Ví dụ như nhà văn lớn của Ireland là
Oscar Wilde còn bị đi tù vì có những hành vi quan hệ đồng
giới, hay như nhà thơ đồng tính Allen Ginsberg, người tiên
phong của Beat Generation, bị đánh giá là bệnh hoạn và
suy đồi. Lúc bấy giờ ở Mỹ và Châu Âu, người đồng tính bị
cộng đồng kỳ thị, đẩy ra bên rìa xã hội, không được đối xử
công bằng trước pháp luật. Nỗi đau của họ dằn vặt hơn
người da màu, bởi lẽ, họ là thiểu số trong xã hội loài
người.
Tình hình ở Á Đông mặc dù không gay gắt như ở phương
Tây, nhưng trong xã hội người đồng tính không được tôn
trọng. Cho dù trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam,
nhiều danh nhân lớn có giới tính dị biệt có thể làm đến

chức quan lớn trong triều đình và đóng góp nhiều công
lao, nhưng họ vẫn không có được cái nhìn tôn trọng từ xã
hội. Dù không bộc lộ thái độ và các hành động chống đối
người đồng tính như ở phương Tây nhưng sự soi mói,
những lời bàn tán, quan niệm, dư luận xã hội cũng có tác
động tiêu cực đến cộng đồng đồng tính. Nguyên nhân của
tình trạng này là do người đồng tính là dị biệt và thiểu số.
Loài người có một thói quen bản năng, đó là luôn muốn
đồng hóa mọi thứ dị biệt, nếu không đồng hóa được thì
cần tiêu diệt, nếu không tiêu diệt được thì phải hành hạ.
Thái độ này đã gây ra không biết bao nhiêu xung đột và
các tấn bi kịch trên thế giới: Xung đột Công giáo – Hồi
giáo, xung đột Da Trắng – Da Màu, xung đột Dị Giới –
15


Đồng Giới… Nhưng sự xung đột giới tính giữa người dị
giới và người đồng giới là sự xung đột âm thầm và dai
dẳng, ít nổ súng nhưng nhiều nỗi đau, mặc cảm. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng người đồng giới có tỉ lệ tự tử cao
nhất trong xã hội. So với các cuộc xung đột khác, cuộc
xung đột này là một cuộc xung đột không cân xứng bởi có
sự cách biệt lớn giữa thiểu số và đám đông. Bởi thế, phong
trào đấu tranh cho người đồng tính không phải chỉ đơn
thuần cho quyền lợi của những người đồng tính. Đó là
bước đi đầu tiên để nhân loại có thể chấp nhận được sự dị
biệt.
Sau cuộc đấu tranh của Harvey Milk, người đồng tính đã
được tôn trọng hơn ở nước Mỹ, ở nhiều quốc gia văn minh
khác của Châu Âu như Anh, Pháp…v…v… Mặc dù vẫn

chưa tránh được những ánh mắt kỳ thị của cộng đồng
chung, nhưng ít ra người đồng tính đã được đối xử công
bằng trước pháp luật và xã hội buộc phải chấp nhận giới
tính thứ ba của họ như một thành phần của xã hội. Cho đến
nay, phong trào đấu tranh cho quyền của người đồng tính
vẫn diễn ra và ngày càng lan rộng.
Ở Việt Nam, phong trào này có tên gọi là “Tôi Đồng Ý”,
được khởi phát vào tầm tháng 10/2013. Trước đó, Cộng
đồng người Đồng tính tại Việt Nam cũng đã được hình
thành và có nhiều hoạt động như diễu hành hay chia sẻ
kiến thức cộng đồng. Phong trào “Tôi Đồng Ý” liên kết
với Hanoi Sound Stuff Festival như một sự khẳng định sức
16


mạnh của Cộng đồng người Đồng tính tại Việt Nam, mặc
dù là thiểu số nhưng họ không yếu thế, mặc dù họ dị biệt
nhưng họ vẫn luôn yêu mến cuộc đời.
Vẫn giữ nguyên những tư tưởng cốt lõi của phong trào do
Harvey Milk gây dựng, “Tôi Đồng Ý” không chỉ đòi
quyền cho người đồng tính, mà hơn cả thế, họ muốn kêu
gọi xã rội rằng: “Tôi đồng ý sống thật. Tôi đồng ý hạnh
phúc cho tất cả mọi người. Tôi đồng ý hôn nhân bình đẳng
không phân biệt giới tính.”.
Phong trào vận động đòi quyền hôn nhân bình đẳng cho
người đồng tính là một lời khẳng định rằng người đồng
tính không phải là mối nguy đến cấu trúc gia đình giống
như nhiều người vẫn tưởng, và người đồng tính vẫn tôn
trọng giá trị truyền thống của người Á Đông này.
Phong trào là sự kêu gọi tinh thần chia sẻ, ủng hộ của giới

trẻ với cộng đồng LGBT cho đến ngày 21/10/2013, thời
điểm nội dung hôn nhân đồng giới lần đầu tiên được đưa
ra bàn thảo trong kỳ họp thứ VI của Quốc hội.
Tham gia phong trào, nhiều bạn trẻ không chỉ sử dụng các
avatar, hình ảnh cover trên Facebook bằng các biểu tượng
mang đậm chất LGBT như hình dấu bằng đỏ, cờ cầu vồng
sáu màu… mà còn đăng tải các bức ảnh ghi lại những
mảnh giấy với cụm từ “tôi đồng ý” cùng dòng ước muốn
của bản thân dành cho cộng đồng.
Sau hai ngày từ khi được khởi xướng, hàng nghìn thanh
thiếu niên Việt Nam đã tỏ rõ quyết tâm sẽ ủng hộ đến cùng
17


phong trào mang đậm tính nhân văn này. Fanpage “Tôi
đồng ý” thu hút 8.000 người ủng hộ, cùng với gần 5.000
bạn trẻ quyết định theo sát hoạt động này. Trên trang cá
nhân của mình, nhiều cá nhân đã đăng những bức hình
chụp chân dung bản thân cùng tấm giấy trắng và các dòng
chữ: “Tôi ủng hộ đồng tính/sống thật/yêu thương/bình
đẳng…”. Hình ảnh dòng chữ “tôi đồng ý” được bôi đậm,
to rõ cùng những ước muốn chân thành dành cho cộng
đồng người đồng tính nhanh chóng lan truyền khắp
Facebook. Ngoài ra trong thời gian diễn ra phong trào còn
có rất nhiều chương trình, hoạt động đa dạng dưới nhiều
hình thức khác nhau hướng đến mục tiêu đòi quyền bình
đẳng, công bằng cho cộng đồng người đồng tính ở Việt
Nam.
Mặc dù đòi quyền hôn nhân cho người đồng tính là một sự
khó khăn lớn đối với một nước có truyền thống gia đình

vững chắc như Việt Nam, nhưng bất cứ ai cũng có thể có
quyền hi vọng. Trong nhiều thế kỷ người đồng tính đã
sống trong sợ hãi và tủi nhục, phải che giấu để tồn tại,
nhưng hiện nay, họ hoàn toàn có thể hãnh diện ngẩng cao
đầu hi vọng, và hi vọng hơn thế nữa. “Tôi yêu cầu phong
trào cần được tiếp diễn, bởi nó không chỉ đơn thuần vì lợi
ích cá nhân hay thỏa mãn cái tôi, cũng không phải vì
quyền lực… Không chỉ vì người đồng tính, mà còn vì
người da đen, người Châu Á, người lớn tuổi, người khuyết
tật… Tôi biết rằng bạn không thể sống chỉ bằng hi vọng,
nhưng không có hi vọng thì cuộc sống không còn giá trị gì
nữa. Vì thế, bạn, bạn và bạn phải mang đến hi vọng cho
họ. Bạn phải mang đến cho họ Hi vọng” ( Harvey Milk)
18


Trong nội bộ Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận
về việc xóa bỏ định kiến, kỳ thị, và phân biệt đối xử với
người đồng tính, song tính và chuyển giới. Việc chính phủ
bỏ điều phạt hôn nhân cùng giới trong Nghị định
110/2013/NĐCP ban hành ngày 24/9/2013 là một bước
tiến cụ thể theo hướng tích cực này. Chính phủ và Quốc
hội cũng đang thảo luận việc bỏ điều cấm hôn nhân cùng
giới trong Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi, và cân nhắc
những giải pháp khác nhau để bảo vệ quyền của cặp đôi
cùng giới sống chung như vợ chồng. Những động thái này
đã biến Việt Nam thành quốc gia đầu tiên của châu Á có
những bước đi cụ thể trong việc luật hóa việc bảo vệ
quyền của LGBT.
Những thay đổi ở Việt Nam đã góp phần cải thiện thành

tích nhân quyền đáng kể cho đất nước. Trong phiên Kiểm
điểm Định kỳ Toàn cầu (UPR) lần thứ 2 của Việt Nam tại
Geneva vào ngày 05/02/2014, Việt Nam nhận được sự
hoan nghênh từ Hoa Kỳ vì những tiến bộ trong việc bảo vệ
quyền của người LGBT. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
nhận được một khuyến nghị chính thức của Chile để thông
qua một đạo luật chống phân biệt đối xử, đảm bảo công
bằng cho mọi công dân, bất kể xu hướng tính dục hay bản
dạng giới của họ. Trong thời gian qua, rất nhiều các phái
đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế theo dõi và khen ngợi
những bước đi chắc chắn của Việt Nam trong việc xóa bỏ
19


định kiến và kỳ thị với người đồng tính, song tính và
chuyển giới.
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Nguyễn Trung Thành,
Trưởng phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp
quốc đã kêu gọi cộng đồng quốc tế tích cực bảo vệ quyền
của nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới
(LGBT) trong phiên họp thứ 25 của Hội đồng nhân quyền
ngày 24 tháng 3 năm 2014. Ông Nguyễn Trung Thành
nhấn mạnh “đoàn [Việt Nam] chúng tôi kêu gọi cộng đồng
quốc tế tiếp tục đối thoại chân thành và cởi mở, nhằm
chống lại sự phân biệt đối xử và ghét bỏ người đồng tính,
song tính và chuyển giới, đồng thời tăng cường hợp tác để
bảo vệ quyền chính đáng của cộng đồng LGBT.”
Đây là lần đầu tiên một đại diện của chính phủ Việt Nam
kêu gọi quốc tế chung tay bảo vệ quyền của người đồng
tính, song tính và chuyển giới.

Việc bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và
chuyển giới, cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam bảo vệ
quyền bình đẳng cho 1.65 triệu công dân LGBT của mình,
cũng như hạnh phúc của hàng triệu người thân và gia đình
họ. Nó thể hiện được những phát triển tích cực của xã hội
Việt Nam trong thời gian qua.

20



×