Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Báo chí và dư luận xã hội báo CHÍ với VAI TRÒ HÌNH THÀNH và ĐỊNH HƯỚNG dư LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.54 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Dư luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá
của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng thể
hiện lợi ích cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. ý nghĩa của
việc nghiên cứu dư luận xã hội được khẳng định: Là công cụ để mở rộng
quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ; tăng cường mối quan
hệ với Đảng, Nhà nước và nhân dân; thực hiện quản lý xã hội trên cơ sở
khoa học.
Dư luận xã hội được phát hiện bằng các phương pháp xã hội học
như: trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi, phân tích tư liệu của báo chí, các báo
cáo, phản ánh của các cấp... Hệ thống thông tin đại chúng có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc hình thành, định hướng và thể hiện dư luận xã
hội. Vai trò ấy được biểu hiện là phương tiện của các thiết chế xã hội nhằm
bảo đảm phổ biến thông tin quy mô đại chúng (các luật, nghị định, quyết
định, các vấn đề kinh tế, xã hội...); và diễn đàn toàn dân tập hợp các tư
tưởng, ý kiến, kinh nghiệm của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo
đức và định hướng giá trị phù hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự
nghiệp đổi mới.
Báo chí Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có vai trò to lớn trong
việc nắm bắt, hình thành và định hướng dư luận xã hội. Đây là một phương
thức truyền thông đặc biệt quan trọng, là cầu nối giữa giúp Đảng, Nhà nước
và Nhân dân. Đồng thời, báo chí còn cung cấp cho nhân dân những thông
tin toàn diện, chính xác và bổ ích thông qua định hướng đúng dư luận xã
hội.

1


CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI
1. Định nghĩa Dư luận xã hội


Dư luận xã hội (hay công luận) là một hiện tượng đời sống xã hội
quen thuộc mà mỗi cá nhân, tổ chức (bao gồm cả quốc gia), trong cuộc
sống hàng ngày, thường phải quan tâm và tính toán đến. Những người theo
học ở Liên-xô (cũ) thường sử dụng thuật ngữ “dư luận xã hội” (dịch trực
tiếp từ thuật ngữ tiếng Nga). Những người biết tiếng Anh thường sử dụng
thuật ngữ “công luận” (dịch từ thuật ngữ tiếng Anh: “public opinion”).
Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định
nghĩa dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp,
cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K.
Paderin: “Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý
kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng
lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với
các tập thể, giai cấp, xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy
của các nhóm xã hội lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có
động chạm đến các lợi ích chung của họ”.
Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tương tự. Ví dụ
“Công luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các
vấn đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận công
khai” (Young, 1923). Nhà nghiên cứu Mỹ khác lại định nghĩa: “Công luận
là kết quả tổng hợp các ý kiến trả lời của mọi người đối với các câu hỏi
nhất định, dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn” (Warner, 1939). Có những
định nghĩa rất đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới nghiên cứu Mỹ:
“Công luận là các tập hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng ta có
thể tìm được” (Childs, 1956).
Về mặt ngôn ngữ, không có cơ sở để nói rằng dư luận xã hội là ý
kiến của đa số. Thuật ngữ “xã hội” không đồng nhất với thuật ngữ “đa số”.
2


Có thể lấy ví dụ: Không ai cho rằng đã gọi là tổ chức xã hội thì phải là tổ

chức của đa số; đã gọi là chính sách xã hội thì phải là chính sách đối với đa
số...
Về mặt lý luận, cũng không có cơ sở nào để coi trọng dư luận của đa
số hơn dư luận của thiểu số, đến mức phải loại bỏ dư luận của thiểu số ra
khỏi phạm trù “dư luận xã hội”. Ví dụ dưới góc độ về khả năng phản ánh
chân lý, dư luận của đa số không phải khi nào cũng đúng, dư luận của thiểu
số, không nhất thiết khi nào cũng sai. Thực tế cho thấy, trước các vấn đề
mới, dư luận của thiểu số, nhiều khi, đúng hơn dư luận của đa số. Giữa dư
luận của đa số và dư luận của thiểu số cũng không có một hàng rào ngăn
cách không thể vượt qua được. Dư luận ngày hôm nay là thiểu số, ngày mai
có thể trở thành đa số hoặc ngược lại, dư luận ngày hôm nay là đa số, ngày
mai có thể chỉ còn là thiểu số.
Về mặt thực tiễn, quan điểm coi dư luận xã hội chỉ là ý kiến của đa
số lại càng không thể chấp nhận được. Chúng ta đang phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và thực hiện chủ trương “Đại đoàn kết toàn
dân tộc”. Tiếng nói của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp, nhóm xã hội
đều cần được coi trọng cho dù thành phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đó
chỉ là thiểu số trong xã hội. Mặt khác, nếu dư luận xã hội chỉ là ý kiến của
đa số không thôi, thì cần gì phải thành lập các cơ quan làm công tác nắm
bắt dư luận xã hội bởi vì ý kiến của đa số là cái mà người dân bình thường
cũng có thể dễ dàng nắm được, huống hồ là lãnh đạo. Báo cáo tình hình dư
luận xã hội của một số địa phương chưa được lãnh đạo coi trọng, có phần
chính là do mới chỉ phản ánh được ý kiến của đa số. Những báo cáo phiến
diện, không phản ánh được đầy đủ các luồng ý kiến khác nhau trong xã hội
trước một vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó, không những ít có giá trị cho
sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, ngược lại, có khi còn có hại,
nhất là trong trường hợp vấn đề, sự kiện, hiện tượng là cái mới, bởi lẽ, đối

3



với cái mới, dư luận của đa số lúc đầu thường không đúng, thường có tính
“bảo thủ”.
Đa số các nhà nghiên cứu khẳng định, dư luận xã hội không chỉ là
các phát ngôn thể hiện sự phán xét đánh giá mà còn là các phát ngôn thể
hiện tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị, lời khuyên can... của công
chúng.
Về khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải của dư luận xã hội, cũng có
những quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng dư luận xã hội chịu ảnh
hưởng nặng nề của các thành kiến, định kiến cho nên nó không có khả năng
phản ánh chân lý, lẽ phải. Có ý kiến lại “sùng bái” dư luận của đa số, theo
họ, dư luận của đa số bao giờ cũng đúng, dư luận của thiểu số bao giờ cũng
sai. Tất cả các quan niệm trên đều sai. Dư luận xã hội không phải là các kết
luận khoa học, nhưng ít nhiều đều có khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải.
Dư luận xã hội có thể đúng nhiều, đúng ít. Dù có đúng đến mấy thì dư luận
xã hội vẫn có những hạn chế, không nên tuyệt đối hoá khả năng nhận thức
của dư luận xã hội. Dù có sai đến mấy, trong dư luận xã hội cũng có những
hạt nhân hợp lý, không thể coi thường, bỏ qua. Chân lý của dư luận xã hội
không phụ thuộc vào tính chất phổ biến của nó. Không phải lúc nào dư luận
của đa số cũng đúng, dư luận của thiểu số cũng sai. Cái mới, lúc đầu,
thường chỉ có một số người nhận thấy và do đó dễ bị đa số phản đối.
Về đối tượng của dư luận xã hội, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng
đó là các hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội có tính thời sự, cập nhật trình
độ hiểu biết của công chúng, được công chúng quan tâm. Ví dụ: Những vấn
đề khoa học trừu tượng liên quan đến tương lai xa xôi của loài người sẽ khó
trở thành đối tượng phán xét của dư luận xã hội, trong khi đó những vấn đề
cụ thể, dễ hiểu có liên quan trực tiếp đến lợi ích của công chúng, được công
chúng rất quan tâm như vấn đề giá cả, thiên tai, lũ lụt, vệ sinh môi trường...
luôn luôn là đối tượng phán xét của dư luận xã hội.


4


Đối với câu hỏi: Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến cá nhân, có
tính tự phát hay là một dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức? Cũng có
những quan niệm khác nhau. Có người khẳng định vế thứ nhất, có người
khẳng định vế thứ hai. Sự vô lý của quan niệm coi dư luận xã hội là một
dạng thức ý kiến tập thể, có tính tổ chức là rất rõ. Ý kiến chung của một tổ
chức là chính kiến của tổ chức đó chứ không phải là dư luận xã hội của các
thành viên trong tổ chức (không thể gọi chính kiến của Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ hay Hội Cầu lông… là dư luận xã hội). Chỉ có các luồng ý kiến
được hình thành theo con đường tự phát mới được gọi là dư luận xã hội.
Tuy nhiên ở đây cần phải làm rõ một ý: Dư luận xã hội không phải là một
phép cộng thuần tuý, không phải là “bao gạo”, gồm các “hạt gạo” ý kiến cá
nhân rời rạc, không có mối quan hệ gì với nhau. Dư luận xã hội là các
luồng ý kiến cá nhân, tự phát, nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cộng
hưởng với nhau. Nói cách khác, đó là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể
hiện nhận thức, tình cảm, ý chí của các lực lượng xã hội nhất định.
Dư luận xã hội là hiện tượng đời sống xã hội phức tạp, nên khó có
thể lột tả hết trong một vài dòng định nghĩa ngắn gọn. Theo Lênin, đối với
những sự vật phức tạp, có nhiều góc nhiều cạnh, mọi định nghĩa đều phiến
diện. Tuy nhiên, dù có phiến diện đến đâu, định nghĩa cũng không mất đi
mặt khẳng định, vai trò quan trọng, sự cần thiết của nó đối với hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người: Đó là những chỉ
dẫn sơ bộ, những nét phác thảo ban đầu, không có nó, chúng ta không thể
tiếp tục đi sâu hơn vào bản chất của sự vật cũng như không thể đưa ra đuợc
những phương hướng hành động cụ thể nào cả.
Vì lẽ đó, chúng ta có thể định nghĩa rất ngắn gọn về dư luận xã hội
như sau: Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn
đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến các

nội hàm sau đây của định nghĩa này:

5


1) Mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau;
2) Dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau,
thậm chí đối lập nhau;
3) Luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến)
hoặc hẹp (một số ý kiến);
4) Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến cá nhân, tự phát, chứ không
phải là ý kiến của một tổ chức, được hình thành theo con đường tổ chức
(hội nghị, hội thảo…);
5) Dư luận xã hội không phải là một phép cộng các ý kiến cá nhân,
tự phát mà là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý
chí của các lực lượng xã hội nhất định;
6) Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự
(động chạm đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người) mới có
khả năng tạo ra dư luận xã hội./.

6


2. Vai trò của dư luận xã hội
Dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước, đặc
biệt là trong công tác vận động quần chúng. Nắm được dư luận xã hội
nhằm tham mưu cho Đảng, Nhà nước đề ra những chủ trương, chính sách
cụ thể trong từng thời điểm nhất định. Bởi vì trong đời sống xã hội đòi hỏi
chúng ta phải hiểu sâu sắc nhu cầu và lợi ích của quần chúng. Nắm dư luận
xã hội là một trong những hình thức tốt nhất để thu thập thông tin, phản

ảnh những tâm tư, nguyện vọng cũng như những suy nghĩ và cảm xúc của
các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đồng thời, giúp những người làm công
tác vận động quần chúng nắm bắt kịp thời thực trạng cũng như diễn biến tư
tưởng của các nhóm người trong xã hội khác nhau. Đây là những nguồn
thông tin quý giá giúp ta khắc phục được bệnh quan liêu, xa rời quần
chúng, xa rời thực tiễn, khắc phục bệnh duy ý chí trong lãnh đạo, quản lý.
Điều hòa các mối quan hệ xã hội ngay cả khi xã hội chưa phân chia
thành các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị luôn luôn tìm
cách sử dụng dư luận xã hội phục vụ của giai cấp mình.
Dư luận xã hội điều hòa cả hành vi xã hội. Trên cơ sở phán xét, đánh
giá các sự kiện, hiện tượng, dư luận xã hội nêu ra các chuẩn mực xã hội,
hướng dẫn những việc nên làm, nên tránh. Nó làm cho các truyền thống,
phong tục đã hình thành phát huy ảnh hưởng của mình trong xã hội.
Dư luận xã hội một khi đã được hình thành thì nó tác động vào ý
thức con người, chi phối ý thức cá nhân. Giáo dục con người nhiều khi
mạnh hơn cả biện pháp hành chính. Về phương diện này, dư luận xã hội có
thể động viên, khuyến khích hoặc phê phán, công kích những biểu hiện đạo
đức hoặc hành cá nhân, của nhóm người trong xã hội, phòng ngừa các hành
vi phạm pháp, nó buộc từng cá nhana phải thu mình vào lễ nghi, phong tục.
Dư luận xã hội giám sát các hoạt động của các tổ chức xã hội, các
nhóm dân cư và từng cá nhân. Dư luận xã hội đưa ra sự phán xét, đánh giá.

7


Cố vấn cho các tổ chức, cho cơ quan chức năng giải quyết các vấn đề
có liên quan đên cộng đồng.
Dư luận xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội nên việc
nghiên cứu nó có ý nghĩa quan trong trong việc phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, mở rộng xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan

hệ giữa Đảng, Nhà nước và quốc chúng.
3. Phân biệt dư luận và tin đồn
Tin đồn là một hiện tượng tâm lý xã hôị, giống với dư luận xã hội ở
hình thức thể hiện nhưng khác về bản chất
3.1. Giống nhau
Về hình thức thể hiện, tin đồn và dư luận xã hội có một số điểm
giống nhau:
Tin đồn và dư luận xã hội đều là những kết cấu tinh thần, tâm lý đặc
trưng cho những nhóm xã hội nhất định. Trong cấu trúc của chúng đều có
cả thành phần trí tuệ lẫn cảm xúc và ý chí. Tuy nhiên, trong tin đồn yếu tố
cảm xúc nổi lên hàng đầu, yếu tố lý trí ít.
Cả hai dường như có chung nguồn gốc. Từ một sự việc, sự kiện ban
đầu có liên quan đến lợi ích, cảm xúc của một số người, được tổ chức lại
theo những quy luật tâm lý xã hội nhất định. Các yếu tố như nhu cầu, lợi
ích của cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp đều chi phối rất mạnh quá trình hình
thành dư luận xã hội và tin đồn.
Dư luận xã hội và tin đồn đều lan truyền tranh và dễ biến dạng. Trên
thực tế, có một số tin đồn được trở thành dư luận xã hội, nếu như tin đồn đó
là những sự kiện có thật và đụng chạm đến lợi ích, hoặc sự quan tâm của
nhiều người.
3.2. Khác nhau
Dư luận xã hội dễ bị nhầm lẫn với tin đồn. Tuy vậy, chúng có những
sự khác nhau rất cơ bản:

8


- Tin đồn là lời truyền miệng không chắc chắn, không có nguồn gốc
xác thực. Tin đồn khởi phát trong những trường hợp không có tổ chức khi
người ta cần đến tin tức, nhưng không có đường lối đáng tin cậy.

Chính vì vậy, điểm mạnh của tin đồn là nó xuất hiện khi có vấn đề
thời sự, dư luận quan tâm nhưng chưa có phát ngôn chính thức từ cơ quan
đáng tin cậy. Mang tính quy luật, tin đồn thường ăn theo các sự kiện thời
sự nóng bỏng, được dư luận đặc biệt chú ý ở nhiều phương diện: chính trị,
khoa học, công nghệ, các vấn đề kinh tế - xã hội… Những kẻ gieo rắc tin
đồn dựa vào thời điểm nhạy cảm để tung tin nhảm. Khi Nhật Bản xảy ra
động đất gây thiệt hại vô cùng lớn, hàng loạt tin đồn ăn theo làm cả châu Á
lao đao: tin đồn mưa axit, mây phóng xạ, núi lửa phun trào, sóng thần bất
ngờ tại nhiều bờ biển… Tại Việt Nam, tin đồn nóng bỏng tính thời sự cũng
đã có tiền lệ. Năm 2010, tại mỗi thời điểm khác nhau đều rộ lên những tin
đồn nguy hiểm: tin đồn "dự báo sập cầu", tin đồn thực phẩm chứa chất gây
ung thư, tin đồn đổi tiền… Năm 2011, nhiều tin đồn lan rộng như: ăn cá rô
đầu vuông sẽ bị ung thư; tin đồn nước mưa có chứa axít; tin đồn tăng giá
xăng, phát hành tiền mệnh giá lớn… Do tính thời sự nóng bỏng (gồm tính
thời sự thế giới và thời sự trong nước) đã hút lượng người quan tâm vô
cùng lớn, nó cũng gây tò mò đặc biệt với người tiếp nhận tin đồn, bất luận
độ tuổi, giới tính, vùng miền. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,
tin đồn thất thiệt chỉ dễ lây lan ở vùng lạc hậu, người dân nhận thức kém.
Nhưng ngày nay, qua hàng loạt tin đồn nóng bỏng cho thấy, tin đồn thậm
chí còn gây sốt mạnh ở vùng đô thị, làm chính những người có nhận thức
cũng dễ rơi vào tâm lý hoang mang không rõ thực hư.
- Tin đồn có tốc độ lây lan nhanh chóng. Tin đồn loang càng xa thì
càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng được thêm thắt. Lúc ban đầu,
dư luận xã hội thường rất phân tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi,
tranh luận, tính thống nhất của dư luận xã hội thường tăng lên:

9


Trước kia, tin đồn chủ yếu qua truyền miệng, thường chỉ lây lan

trong phạm vi hẹp làng xã, vùng miền. Do tính truyền miệng, tốc độ tán
phát cũng chậm. Tin đồn hay xuyên tạc và sai vì nhận thức hẹp trong
trường hợp đầy tình cảm. Tin đồn trở nên sai lạc nhiều vì truyền khẩu dễ bị
sai lầm. Ngay cả khi thiếu sót những yếu tố tình cảm, những tin tức thực sự
càng ngày càng trở nên ngắn và giản dị hơn, “một đồn mười, mười đồn
trăm”, tin đồn lây lan nhanh như cấp số nhân. Khi được truyền từ người
này qua người khác, những chi tiết bị xuyên tạc theo khuynh hướng cá
nhân và văn hóa.
Công nghệ số đang làm điên đảo tin đồn, không phải “một đồn mười,
mười đồn trăm như trước” mà ngay lập tức có thể “một đồn hàng nghìn,
nghìn đồn hàng triệu”. Ví dụ như sau sự kiện động đất lịch sử tại Nhật Bản,
chỉ có một đêm, tin đồn mưa axít đã ào ạt tấn công toàn châu lục, bất luận
ranh giới địa lý và thể chế xã hội của quốc gia, vùng miền. Tin nhắn qua
chat, điện thoại với nội dung cảnh báo mọi người không nên ra ngoài khi
trời mưa vì đó là mưa axít phát sinh từ sự cố hạt nhân tại Nhật Bản lan
truyền khắp nơi, có cả Việt Nam. Kiểu tán phát bằng chat, điện thoại khiến
kể cả người không mấy quan tâm, không tò mò cũng bị tấn công bằng
phương thức tung tin nhắn tự động. Hàng loạt máy điện thoại trong buổi
sáng nhận được vô số tin nhắn "cảnh báo nguy hiểm", và phương thức này
cùng với truyền miệng, nó nhanh chóng tạo thành "bão tin đồn".
- Nguồn thông tin: nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất
phát từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin
của dư luận xã hội lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn
Tin đồn được lan truyền qua các kênh không chính thống, cơ bản là
truyền miệng.
Dư luận xã hội xuất hiện từ thông tin đã được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng, là thông tin chính thức.

10



Người Mĩ đã từng nói: “Sẽ không tin bất cứ điều gì nếu điều đó chưa
xuất hiện trên truyền hình”.
Để gây dựng cơ sở và tạo độ tin cậy cho tin đồn, người tung tin đồn
cố gán ghép cái gọi là cơ sở khoa học, gắn với các dấu mốc, sự kiện có thật.
Tại Việt Nam, những kiểu tin đồn "cài khoa học" hoặc cố tình gán
cho người có uy tín như nhà khoa học. VD tin đồn về mây phóng xạ, kẻ
tung tin đã chụp mũ nguồn tin từ nhà khoa học, Giáo sư Phạm Duy Hiển.
Nhiều người đã nhận được tin nhắn qua hệ thống chat hoặc email của một
người xưng là cháu của Giáo sư Phạm Duy Hiển, Phó Viện trưởng Viện
Nghiên cứu năng lượng hạt nhân, nói rằng: "Mây phóng xạ từ Nhật đã vào
Việt Nam với mức độ nhiễm rất cao, gần tới mức ảnh hưởng tới con người,
Chính phủ chưa công bố ngay vì sợ mọi người hoang mang và viện cần tiến
hành thêm một vài xét nghiệm". Giáo sư Phạm Duy Hiển sau đó đã bác bỏ
tin đồn chụp mũ, bịa đặt này.
Ở lĩnh vực tài chính, tiền tệ, chúng ta cũng từng chứng kiến những
tin đồn nguy hiểm như: tin đồn cho rằng ngân hàng sắp đổi tiền, sắp phát
hành những tờ tiền mệnh giá khủng như 1 triệu đồng, 2 triệu đồng, tin đồn
giám đốc một ngân hàng bị bắt… Những tin này lấy lý do lạm phát đang ở
mức cao, những tờ tiền mệnh giá hiện hành đã tỏ ra nhỏ bé nên phải in ấn
tiền mệnh giá lớn hơn. Gần đây, khi Nhà nước có chủ trương đưa việc kinh
doanh vàng miếng trên thị trường tự do vào khuôn khổ quản lý nhằm đảm
bảo an toàn cho thị trường này và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân
thì trên mạng xã hội đã tán phát tin đồn: Nhà nước cấm người dân mua bán,
cất giữ vàng. Việc tung tin như vậy khiến một số người không rõ thực hư lo
lắng.
- Tin đồn thường có tính “thất thiệt” (mặc dù có những tin đồn về cơ
bản là sự thật), trong khi đó, dư luận xã hội phản ánh trung thực về suy
nghĩ, tình cảm, thái độ của chủ thể.


11


Tin đồn gây không khí căng thẳng và khủng hoảng. Bằng phương
tiện tin đồn, người ta có thể truyền bá sự xúc động từ người này đến người
khác, từ địa phương này đến địa phương khác, đất nước này đến đất nước
khác.
Sự truyền cảm thâu hẹp phạm vi nhận thức và làm giảm bớt khả
năng phê phán.
Trong thời kỳ khủng hoảng, sự nhận thức luôn luôn đã chọn lọc lại
cần phải chọn lọc hơn. Nhà tâm lý học Mỹ P.Allport đã đưa ra công thức:
Cường độ tin đồn = Tính hấp dẫn + Tính không xác định.
Công thức này cho ta hiểu cơ chế biến đổi của tin đồn. Tuy nhiên,
giữa dư luận xã hội và tin đồn không có sự ngăn cách không vượt qua
được. Tin đồn có thể làm nảy sinh dư luận xã hội khi trên cơ sở tin đồn
người ta đưa ra những phán xét đánh giá bày tỏ thái độ của mình. Tin đồn
thường xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin.
Muốn hướng dẫn hay cải chính tin đồn cần làm mất tính hấp dẫn và
tính không xác định của nó bằng cách đưa tin đầy đủ, công khai và có tính
định hướng về sự việc, sự kiện.

12


CHƯƠNG II: BÁO CHÍ VỚI VAI TRÒ HÌNH THÀNH VÀ ĐỊNH
HƯỚNG DƯ LUẬN
2.1. Hệ thống truyền thông đại chúng có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội
Hệ thống truyền thông đại chúng là phương tiện của một thiết chế xã
hội nhằm đảm bảo phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng. Công cuộc

đổi mới hiện nay đặt ra những yêu cầu mới đối với các phương tiện truyền
thông đại chúng. Hệ thống này đã trở thành diễn đàn của nhân dân, thể
hiện các ý kiến khác nhau, chứa đựng trong nó những tâm tư, nguyện vọng
và thái độ phán xét của các nhóm xã hội, các cá nhân; tập hợp các tư tưởng,
ý kiến, kinh nghiệm của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và
định hướng giá trị phù hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi
mới. Chính Các Mác đã chỉ ra rằng: Sản phẩm của truyền thông là dư luận
xã hội. Đặc điểm của hệ thống truyền thông đại chúng là các tin tức từ hệ
thống này được truyền đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn. Nó
vừa phải hướng tới các đối tượng công chúng nói chung và các nhóm công
chúng cụ thể.
Các phương tiện truyền thông đại chúng hướng đến việc hình thành
và định hướng dư luận xã hội, đồng thời hệ thống này cũng là kênh thể hiện
dư luận xã hội. Sự hình thành dư luận xã hội thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng có mối liên hệ ngược (feedback). Các phương tiện
này không chỉ tạo nên dư luận xã hội, mà đến lượt nó, dư luận xã hội cũng
tác động trở lại tới hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng, vì trong
lĩnh vực thông tin, sự phân chia giữa người truyền tin (chủ thể) và người
nhận tin (khách thể) là rất tương đối và thường diễn ra đồng thời.
2.2. Báo chí trong vai trò hình thành và định hướng dư luận xã
hội
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, kéo theo sự phát
triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, mọi sự kiện lớn nhỏ xảy
13


ra trong nước đều nhanh chóng có ảnh hưởng dư luận trong cả nước. Bởi
vậy, công tác nắm tình hình diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội của mọi
tầng lớp nhân dân, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước là một việc rất quan trọng. Bên cạnh nguồn thông tin từ đội ngũ cộng

tác viên dư luận xã hội, những thông tin dư luận xã hội trên báo chí có vai
trò quan trọng để Đảng và Nhà nước có thêm những thông tin cần thiết, từ
đó quản lý tốt hơn. Như vậy, vai trò của báo chí trong hình thành và định
hướng các dư luận xã hội, góp phần giải quyết các vấn đề liên quan đến đời
sống xã hội của các tầng lớp nhân dân thông qua việc chuyển tải những
thông tin hai chiều, nhiều chiều từ Đáng, Nhà nước, các cơ quan chức năng
và ngược lại, từ đó hâm nóng lên dư luận xã hội một cách tích cực.
Ngoài ra, các tin tức từ hệ thống báo chí được truyền đến công
chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. Nó vừa phải hướng đến
đối tượng công chúng nói chung, vừa phải quan tâm tới nhu cầu thông tin
của các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động của báo chí luôn chịu sự tác
động từ hai phía, phía thứ nhất là các thiết chế xã hội mà tờ báo đó là công
cụ, là cơ quan tuyên truyền, và phía thứ hai là công chúng báo chí. Mối
quan hệ giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện
dư luận xã hội có tính chất biện chứng. Một mặt, báo chí nhằm thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng của bạn đọc, mặt khác, bản thân công chúng
lại đặt ra các yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí. Sự
trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị – xã hội
của bản thân hệ thống báo chí và của công chúng báo chí. Mỗi tờ báo với
cơ quan chủ quản khác nhau có nhiệm vụ cung cấp tới bạn đọc những loại
thông tin khác nhau, phù hợp với định hướng và tôn chỉ mục đích của riêng
mình.
Báo chí ngày này đã đạt được hiệu quả tuyên truyền cao, đó là vừa
thông tin kịp thời những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và
thành phố đến mọi người dân, vừa phản ánh trung thực, khách quan ý kiến,
14


tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đến với các cấp lãnh đạo, tạo thông tin
đa chiều, góp phần hình thành và định hướng dư luận xã hội theo hướng

vừa đảm bảo lợi ích của nhân dân vừa thể hiện trách nhiệm của nhân dân
trước những vấn đề lớn của thành phố. Đây cũng là kết quả đáng ghi nhận
các tờ báo và cơ quan báo chí.
2.3. Khó khăn, hạn chế trong công tác hình thành, định hướng
dư luận xã hội của báo chí
Việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội là một khoa học. Với báo
chí, đây là một việc mới. Nếu không có phương pháp làm khoa học, chặt
chẽ thì không thể phản ánh, hình thành và định hướng dư luận xã hội một
cách đầy đủ, đúng đắn.
Một cơ quan báo chí muốn nắm bắt và góp phần hình thành, định
hướng dư luận xã hội (theo đúng nghĩa của khoa học này) thì phải biết tổ
chức công việc ngay trong cơ quan báo chí, phải có chỉ đạo, có bộ máy
nhất định, có người chuyên theo dõi, tổng hợp... Trong thực tế, nhiều cơ
quan báo chí chưa có ý thức đầy đủ về công tác này, vì vậy gặp nhiều khó
khăn, lúng túng.
Đôi khi báo chí tiếp nhận và phản ánh thông tin một chiều nên không
phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.Vì vậy,
trong hoạt động thực tiễn, các tờ báo thường phải điều chỉnh, cân đối, sắp
xếp các mặt thông tin cho phù hợp, vừa đảm bảo định hướng chính trị, vừa
tạo sự hấp dẫn công chúng. Ở một số địa bàn, sự tham gia của quần chúng
đối với các sinh hoạt chính trị xã hội chưa được mở rộng, người dân chưa
có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng nên báo chí
chưa thực sự phát huy hết tác dụng hình thành và định hướng dư luận xã
hội cho nhân dân.
Trong những năm qua, báo chí thường xuyên đóng vai trò là một
kênh thông tin quan trọng cung cấp thông tin nhiều mặt của đời sống xã
hội; phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, giúp cho các
15



cơ quan lãnh đạo của thành phố nắm bắt tình hình kịp thời, cụ thể để giải
quyết. Nếu chỉ xét riêng trong lĩnh vực dư luận xã hội, với chức năng,
nhiệm vụ của mình, báo chí đã góp phần quan trọng trong việc đưa ra
những thông tin dư luận xã hội lan truyền tới mọi tầng lớp nhân dân, tăng
cường sự đánh giá của nhân dân về những vấn đề, những hiện tượng và quá
trình mà họ quan tâm, do đó báo chí còn góp phần vào việc hình thành và
định hướng dư luận xã hội.

16


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC HÌNH
THÀNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI
3.1. Những giải pháp đối với các cơ quan báo chí:
- Cần thông tin đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách, quyết
định... của Đảng, Nhà nước và thành phố đến đông đảo nhân dân.
- Trong hoạt động thông tin, tuyên truyền, báo chí cần phải có tính
thuyết phục. Khi báo chí thiếu tính thuyết phục, bạn đọc sẽ thiếu định
hướng, có thể hiểu sai về vấn đề mà báo chí phản ánh.
- Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ hình thành và định hướng dư
luận xã hội, một trong những hướng đi cần thiết của các cơ quan báo chí
cũng như mỗi nhà báo là làm tốt hai nhiệm vụ biểu dương và phê phán.
- Các cơ quan báo chí cần tăng cường công tác phát hành, hạ giá
thành để báo chí đến với đông đảo bạn đọc, nhất là những vùng nông thôn,
ngoại thành, nơi còn thiếu thốn về những điều kiện vật chất và tinh thần.
- Các tờ báo cần tích cực tìm hiểu, phản ánh, đăng tải ý kiến của
nhân dân, thông qua các hình thức:
+ Đăng tải ý kiến cử tri
+ Đăng tải thư bạn đọc

+ Tổ chức các diễn đàn
+ Thu thập và tìm hiểu ý kiến của đông đảo nhân dân, phản ánh ý
kiến nhiều chiều khi tiếp cận và phản ánh những vấn đề nóng hổi của cuộc
sống, được nhiều người quan tâm.
+ Tổ chức các đường dây nóng để bạn đọc chuyển tải kịp thời
những thông tin cần thiết tới các cơ quan báo chí.
- Từng thời gian, thông qua các kênh lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền, đoàn thể, đặc biệt là qua nắm dư luận xã hội của các cơ quan
tư tưởng và qua ý kiến của nhân dân trên báo chí tập hợp ý kiến đồngthuận

17


hay phản đối về những vấn đề mà nhân dân quan tâm (các chính sách lớn,
các chế độ đang thực hiện...).
Trong hoạt động của mình, các cơ quan báo chí cần quan tâm, chú
trọng vào một số công việc sau:
- Phân tích cơ cấu xã hội của công chúng trên các dấu hiệu cơ bản: vị
thế xã hội, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp...
- Nghiên cứu nhu cầu và sở thích của công chúng đối với các nội
dung, các tài liệu được truyền tải trên các kênh.
- Nghiên cứu những phản ứng của công chúng đối với hoạt động của
cơ quan báo chí, đặc biệt coi trọng các thư từ gửi đến tòa soạn và ban biên
tập.
- Nghiên cứu bản thân nguồn tin, bộ mặt xã hội của phóng viên, biên
tập viên.
Nói chung, hoạt động báo chí, đặc biệt là việc hình thành và định
hướng dư luận xã hội của các cơ quan báo chí chỉ có thể đạt hiệu quả khi
xuất phát từ nền tảng cơ bản là sự coi trọng vai trò quần chúng nhân dân,
vai trò của bạn đọc. Quần chúng nhân dân phải được tham gia vào các hoạt

động tổ chức và quản lý xã hội, được cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông
tin về đời sống xã hội thì dư luận xã hội mới thực sự có hiệu quả.
Tổ chức thường xuyên những đợt khảo sát, thăm dò ý kiến của nhiều
đối tượng bạn đọc để hiểu rõ hơn về nhu cầu thông tin, nhận xét của bạn
đọc về hiệu quả thông tin của tờ báo, biết rõ bạn đọc cần những thông tin
về lĩnh vực, vấn đề nào để đáp ứng kịp thời, có như vậy mới thực hiện tốt
vai trò hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân.
3.2. Những giải pháp đối với các cơ quan quản lý:
Các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý cần coi trọng dư luận xã
hội, tôn trọng ý kiến của nhân dân được phản ánh trên báo chí. Từ những
vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm, cần có sự quan tâm đúng mức, tập

18


trung giải quyết những vấn đề mà dư luận đòi hỏi, yêu cầu phải có sự trả
lời.
Trong khi xem xét và xử lý dư luận xã hội thường xuất hiện tính
mâu thuẫn và tính hai mặt. Nếu hiểu sâu, nắm vững nó thì sẽ có nhận thức
đúng: Dư luận xã hội là những thông tin về thực trạng tinh thần, tư tưởng
của các tầng lớp nhân dân. Nếu hiểu không đầy đủ sẽ dẫn đến trạng thái
cực đoan là: Hoặc coi thường dư luận xã hội, bỏ qua những thông tin này
trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo xã hội; hoặc khi dư luận xã hội “cộm”
lên lại có thái độ tránh né, thậm chí “đối phó”, muốn dẹp dư luận xã hội, cả
hai thái cực đều nên tránh. Có như vậy, báo chí mới thực hiện tốt chức năng
là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của đông đảo
nhân dân, và khẳng định vai trò hình thành và định hướng dư luận xã hội
cho nhân dân.
Công tác tư tưởng cần phải coi nhiệm vụ hướng dẫn, định hướng dư
luận xã hội là một trong các nhiệm vụ cơ bản của mình. Chỉ có gắn công

tác nghiên cứu dư luận xã hội với công tác tuyên truyền mới làm cho công
tác tư tưởng đạt kết quả sâu và bền vững. Nghiên cứu dư luận xã hội cần
làm rõ mối quan hệ giữa nắm bắt, xử lý và sử dụng dư luận xã hội, có như
vậy mới giúp cho Đảng và chính quyền làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo
của mình.
Việc nghiên cứu (thống kê, phân tích, tổng hợp) những thông tin dư
luận xã hội qua báo chí sẽ cho những thông tin bổ ích, đưa ra cái nhìn toàn
diện hơn về hàng loạt vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Để làm tốt được
việc đó, cần phải có sự quan tâm và tạo điều kiện của Thành ủy (mà trực
tiếp là Ban Tuyên giáo Thành ủy) để giải quyết một loạt vấn đề như: tổ
chức, bộ máy, cơ chế hoạt động của bộ phận nghiên cứu dư luận xã hội của
thành phố, kèm theo đó là các vấn đề về con người, về cơ sở vật chất - kỹ
thuật... cho bộ phận đó hoạt động có hiệu quả. Cần có sự hỗ trợ của chính

19


quyền các cấp để nhiều người dân được đọc báo, từ đó việc hình thành và
định hướng dư luận xã hội mới đạt hiệu quả cao.
3.3. Sự phản hồi và tham gia của bạn đọc đối với thông tin báo
chí:
Sự tham gia và phản hồi của bạn đọc đối với thông tin báo chí được
thể hiện qua những ý kiến bàn bạc, trao đổi được gửi tới các cơ quan báo
chí, những tin bài do bạn đọc viết, những ý kiến trả lời phỏng vấn do nhà
báo ghi lại v.v...
Muốn thu hút đông đảo bạn đọc tham gia viết tin bài, cung cấp thông
tin, các cơ quan báo chí cần có chế độ khuyến khích, động viên bạn đọc,
cộng tác viên bằng chế độ nhuận bút, bằng thái độ tôn trọng, biết tiếp thu ý
kiến v.v... Những chuyên mục, những góc dành riêng cho bạn đọc, điều tra
qua thư bạn đọc, thông tin qua đường dây nóng... cần đi sâu lắng nghe ý

kiến của nhiều đối tượng bạn đọc, lựa chọn những thông tin cần thiết, được
nhiều người quan tâm để phản ánh. Việc lựa chọn những vấn đề bạn đọc
quan tâm theo từng thời điểm cũng cần được quan tâm để nâng cao hiệu
quả tuyên truyền. Những phản hồi từ phía các cơ quan chức năngtrả lời,
giải đáp thắc mắc của bạn đọc cần được đăng tải thường xuyên và chính
xác, dễ hiểu để bạn đọc dễ tiếp thu.

KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, báo chí luôn được Đảng coi là lực
lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng. Báo chí là tiếng nói của Đảng,
đồng thời cũng phản ánh tiếng nói của quần chúng. Trình độ mọi mặt của
nhân dân ta ngày càng cao, đòi hỏi báo chí và các phương tiện thông tin
phải bảo đảm tính chân thực, nâng cao chất lượng, tăng cường tính quần

20


chúng và tính chiến đấu, khắc phục tình trạng giản đơn, đơn điệu, hời hợt,
một chiều...
Qua các nội dung nghiên cứu trong đề tài, có thể thấy Đảng và Nhà
nước ta đã xác định công tác tư tưởng cần phải coi nhiệm vụ hướng dẫn,
định hướng dư luận xã hội là một trong các nhiệm vụ cơ bản của mình. Chỉ
có gắn công tác công tác nghiên cứu dư luận xã hội với công tác tuyên
truyền mới làm cho công tác tư tưởng đạt kết quả, có chiều sâu và bền
vững.
Cùng với sự chỉ đạo, hỗ trợ của các cơ quan quản lý, cơ quan Đảng,
chính quyền, các cơ quan báo chí cũng cần tập trung thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ, chức năng của mình, từ đó mới có thể thực hiện tốt hơn nữa vai
trò hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân, đáp ứng những
đòi hỏi mà thực tế cuộc sống đặt ra.


21


MỤC LỤC

22



×