VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG
LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN
Hà Nội, 2018
MỤC LỤC
Tranh phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt, các biểu, bảng
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ................. 9
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài .............................................................................. 9
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................. 20
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ................................................................. 36
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 40
Chương 2: TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM
CHÂU ĐỐC .................................................................................................... 42
2.1. Khái quát tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ ......................................... 42
2.2. Các di tích của vùng Núi Sam liên quan đến lễ hội ................................. 50
2.3. Diễn trình lễ hội ....................................................................................... 59
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 68
Chương 3: LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ VÀ NHỮNG CHIỀU CẠNH BIẾN ĐỔI..70
3.1. Về thời gian tổ chức lễ hội ....................................................................... 71
3.2. Về không gian lễ hội ................................................................................ 74
3.3. Chủ thể lễ hội ........................................................................................... 77
3.4. Mục đích, chức năng của lễ hội ............................................................... 84
3.5. Cấu trúc lễ hội .......................................................................................... 86
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 95
Chương 4: MỘT VÀI BÀN LUẬN TỪ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA .............. 97
LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM ................................................................ 97
4.1. Vai trò của nhà nước trong biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ ......................... 97
4.2. Du lịch - động lực cho sự biến đổi và phát triển của lễ hội Bà Chúa Xứ..... 108
4.3. Vai trò của cộng đồng địa phương và sự thỏa hiệp với nhà nước trong
biến đổi của lễ hội Bà Chúa xứ Núi Sam ...................................................... 117
Tiểu kết chương 4.......................................................................................... 126
KẾT LUẬN ................................................................................................... 128
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .......... 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 135
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 147
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. AG
: An Giang
2. AL
: Âm lịch
3. BQT
: Ban Quản trị
4. CB
: Chủ biên
5. ĐH
: Đại học
6. H
: Hà Nội
7. HCM
: Hồ Chí Minh
8. KDL
: Khu du lịch
9. KHXH
: Khoa học xã hội
10. NCS
: Nghiên cứu sinh
11. Nxb
: Nhà xuất bản
12. TDTT
: Thể dục thể thao
13. THPT
: Trung học phổ thông
14. TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
15. Tp
: Thành phố
16. tr
: trang
17. TTVH
: Trung tâm văn hóa
18. UBND
: Ủy ban nhân dân
19. VHDT
: Văn hóa dân tộc
20. VHTT
: Văn hóa thông tin
21. VHTTDL
: Văn hóa thể thao du lịch
22. VHVN
: Văn hóa văn nghệ
23. Nxb
: Nhà xuất bản
DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Bảng 3.1: Nội dung cầu nguyện của du khách khi đến miếu Bà ..............................84
Bảng 3.2: Khảo sát mục đích đi hội của người dân ..................................................86
Bảng 4.1: Số lượng khách tại một số điểm du lịch trong tỉnh An Giang ................108
Bảng 4.2: Hiện trạng khách du lịch đến các tỉnh Tây Nam Bộ ..............................109
Bảng 4.3: Số lượng khách tại một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu ....................110
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An Giang từ lâu được biết đến như là trung tâm của vựa lúa khu vực đồng
bằng sông Cửu Long. Những năm gần đây, kinh tế phát triển, An Giang còn nổi
tiếng với đặc sản là con cá da trơn hiện đang được xuất khẩu mạnh mẽ trên thị
trường quốc tế. Thế nhưng, khi nhắc đến An Giang, người ta lại nghĩ ngay đến lễ
hội truyền thống mang tầm ảnh hưởng to lớn trong vùng và trong cả nước là lễ hội
Bà Chúa Xứ Núi Sam - Châu Đốc. Lễ chính mùa Vía Bà chỉ diễn ra từ ngày 23 đến
27 tháng 4 âm lịch, nhưng khu vực Núi Sam - Châu Đốc gần như đông đúc quanh
năm.
Mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống sâu sắc, lễ hội Bà Chúa
Xứ Núi Sam - Châu Đốc phản ánh một cách sinh động về đời sống kinh tế - văn hóa
- xã hội của cộng đồng cư dân Nam Bộ nói chung, cư dân vùng Bảy Núi (cách gọi
khác dành cho cư dân An Giang) nói riêng. Những câu chuyện xoay quanh sự linh
ứng của Bà Chúa Xứ được lưu truyền trong dân gian ngày càng nhiều, độ hấp dẫn
huyền bí ngày một tăng lên khiến những người hiếu kỳ càng có thêm lý do tụ hội về
đây chiêm bái. Đặc biệt, từ sau năm 2001, khi lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam
được nhà nước công nhận là lễ hội cấp quốc gia, các hoạt động tín ngưỡng trở nên
sinh động, sức lan tỏa vượt ra khỏi phạm vi trong nước mà minh chứng là lượt
khách quốc tế hành hương về đây ngày một gia tăng.
Nhịp sống của thời đại mới, thời đại của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập
đã lan tỏa và ảnh hưởng rộng khắp trên các lĩnh vực của đời sống vật chất lẫn tinh
thần của con người. Việc tổ chức lễ hội Bà Chúa Xứ những năm gần đây cho thấy
nhịp sôi động, hối hả của cả chủ nhà (cộng đồng địa phương) lẫn khách phương xa
(khách hành hương). Tất cả đều bị hút vào một vòng xoáy lễ hội, bên ngoài là hoạt
động mua bán sinh động, với rất nhiều những dịch vụ mới lạ; bên trong là những
nghi thức truyền thống vẫn được giữ nét tôn nghiêm. Sự hấp dẫn của lễ hội Bà Chúa
Xứ ở chỗ, trải dài theo năm tháng, trước bao thăng trầm của lịch sử, nó không đứng
yên một cách bảo thủ mà vận động và biến đổi cho phù hợp với bối cảnh xã hội mà
1
nó tồn tại. Những trò chơi, trò diễn, những hoạt động hội được bổ sung phong phú
qua các năm thể hiện nhịp điệu phát triển đầy sôi động của một Châu Đốc trẻ trung,
song các nghi thức tế lễ, cúng bái vẫn giữ được nét truyền thống. Nhờ vậy, người đi lễ
một mặt được tắm mình trong các hoạt động vui chơi giải trí, thưởng thức bầu không
khí lễ hội tưng bừng; mặt khác lại được tìm về với chốn linh thiêng, cởi bỏ hết những
xô bồ của cuộc sống, thanh tịnh trước thần linh để trải lòng và khấn nguyện.
Đến với miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam vào tháng 4 âm lịch hàng năm để thấy
một không gian hội rộng lớn với đa dạng thành phần du khách và tưng bừng các
hoạt động mang tính chất giải trí cao. Tham gia lễ hội, du khách còn được hòa mình
trong bầu không khí của một Châu Đốc thân thiện, ở đó, chính quyền địa phương
tập trung chăm lo cho sự an toàn của du khách, người dân nô nức tham gia các vai
diễn để thể hiện niềm tự hào vì bản sắc quê hương.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam với
các nội dung đã được đề cập như: lịch sử lễ hội; những giai thoại về Bà Chúa Xứ;
những nội dung của lễ thức - lễ nghi; sự giao thoa văn hóa của bốn dân tộc anh em
Kinh, Hoa, Chăm, Khmer trong tín ngưỡng và trong lễ hội; vai trò của lễ hội trong
đời sống cộng đồng cư dân địa phương… Với đề tài này, NCS mong muốn phác
họa một cách tổng quan nhất về lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam trong giai đoạn hiện
nay với nhiều biến đổi mạnh mẽ, nhất là từ sau khi được nhà nước công nhận là lễ
hội cấp quốc gia vào năm 2001; đồng thời qua đó, tìm hiểu những tác động của nhà
nước đối với sự biến đổi của lễ hội cũng như tìm hiểu mức độ tham gia của cộng đồng
trong việc bảo tồn lễ hội trước những tác động to lớn ấy. Bên cạnh đó, đề tài đặt sự
biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ trong bối cảnh phát triển du lịch một cách nhanh chóng
để xem sự tác động hai chiều từ lễ hội đến du lịch và ngược lại, từ đó cho thấy sự vận
động linh hoạt của lễ hội dân gian theo những biến thiên của thời cuộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam trong bối cảnh hiện nay. Chỉ ra sự
biến đổi trên những phương diện cụ thể về không gian, thời gian, chủ thể cũng như
cấu trúc, chức năng của lễ hội. Từ đó làm rõ thêm hai quan điểm biến đổi văn hóa
2
và sáng tạo truyền thống trong quá trình trao truyền các giá trị và trong nghi thức
thực hành văn hóa.
Khẳng định lễ hội vận động và biến đổi dưới tác động của nhiều nhân tố,
song sự chủ động chọn lựa của cộng đồng quyết định quá trình lưu giữ bản sắc, và
sự thỏa hiệp giữa hai phía nhà nước và nhân dân chính là mấu chốt của quá trình
biến đổi đầy sáng tạo và linh hoạt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Miêu thuật lại một cách cụ thể, sinh động lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam
truyền thống từ diễn trình theo thời gian và không gian lễ hội.
Trình bày những nét mới của lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam (so với trước
khi lễ hội được công nhận cấp quốc gia) từ phía tổ chức lẫn người đi lễ. Nêu và mô
tả những sự biến đổi đó trong lễ hội thông qua khảo sát từ năm 2001 tới năm 2017
so với trước đó.
Tìm hiểu những tác động của nhà nước thông qua những công văn ban hành
nhằm quản lý và hỗ trợ nhân dân tổ chức lễ hội tại địa phương.
Bàn luận sự tương tác qua lại giữa lễ hội và du lịch diễn ra trong những năm
gần đây tại lễ hội Vía Bà, khái quát những dự án đầu tư phát triển du lịch tại đây
cho thấy sự mở rộng quy mô của lễ hội, sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch
tâm linh ở khu vực Núi Sam - Châu Đốc.
Khảo sát những kế hoạch của cộng đồng để gìn giữ bản sắc trước những tác
động mạnh mẽ của du lịch tại một trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ - Miếu
Bà Chúa Xứ Núi Sam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án Lễ hội Bà Chúa Xứ của người Việt ở Nam Bộ nghiên cứu trường
hợp Lễ hội Bà Chúa Xứ ở Núi Sam tỉnh An Giang, tiếp cận ở góc độ nghiên cứu
những nhân tố mới nảy sinh trong đời sống xã hội đương đại. Theo đó, đề tài tập
trung vào các vấn đề chính yếu: nhận diện lễ hội trong bối cảnh xã hội mới để nhìn
thấy sự biến đổi trên nhiều bình diện; nghiên cứu, khảo sát các văn bản mang tính
nhà nước để hiểu hơn quá trình quản lý lễ hội của chính quyền những năm gần đây
3
trong mối quan hệ thỏa hiệp với người dân địa phương; tình hình khai thác lễ hội
vào hoạt động du lịch trong xã hội đương đại cũng như sự chủ động của cộng đồng
trong quá trình chọn lọc và lưu truyền.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: hiện nay, Bà Chúa Xứ được thờ phụng ở nhiều tỉnh
thành thuộc khu vực Nam Bộ. Ngoài việc lưu giữ những nét chung của việc thờ Bà,
mỗi cơ sở thờ tự cũng sẽ có những dị biệt trong nhiều yếu tố cả về ý nghĩa tâm linh
lẫn nghi thức cúng bái. Đề tài trong phạm vi giới hạn của mình chỉ tập trung nghiên
cứu lễ hội Bà Chúa Xứ ở Núi Sam thuộc thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, bởi
đây chính là trung tâm của loại hình tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả tiến hành nhiều khảo sát trong phạm vi thành phố Châu
Đốc, phường Núi Sam và khu vực lân cận trong tỉnh An Giang.
Phạm vi về thời gian: đề tài nghiên cứu Lễ hội Bà Chúa Xứ theo cả hai chiều
đồng đại và lịch đại. Theo đó, đề tài tập trung chú ý các mốc thời gian: 2001, 2013,
2015, 2017. Trong đó, năm 2001 là mốc quan trọng trong nghiên cứu, vì đánh dấu
lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia, từ đây đã
bắt đầu xuất hiện nhiều những thay đổi trong tổ chức lễ hội. Năm 2013, Châu Đốc
chuyển mình từ thị xã lên thành phố theo Nghị quyết số 86/NQ-CP của Chính phủ.
Năm 2015, Châu Đốc lại một lần nữa khẳng định sự phát triển của mình bằng 100%
xã đạt chuẩn nông thôn mới và được công nhận là đô thị loại II theo Quyết định số
499/QĐ-TTg. Cũng trong năm 2015, Châu Đốc vinh dự đón nhận bằng di sản văn
hóa phi vật thể cấp quốc gia được cấp cho Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam theo
quyết định số 4205/QĐ-BVHTTDL ngày 19/12/2014. Năm 2017, lần đầu tiên lễ hội
Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức kết hợp với Tháng Du lịch An Giang. Các hoạt
động du lịch xoay quanh lễ hội diễn ra sôi động, hấp dẫn, thu hút hàng triệu lượt
khách tham gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đề tài sử dụng phương pháp thu thập, tổng hợp, nghiên cứu tư liệu nhằm
kế thừa những thành quả của các công trình, nghiên cứu đi trước. Phân tích, so sánh
tư liệu để tìm ra những thông tin quý, giúp cho đề tài về mặt cứ liệu khoa học. Đây
4
là phương pháp được NCS tập trung trong quá trình miêu tả sự biến đổi của lễ hội
qua các mốc thời gian. Phương pháp so sánh cho ra những kết quả ban đầu về sự
tương đồng và dị biệt qua nghiên cứu lịch đại quá trình phát triển lễ hội.
4.2. Phương pháp điền dã, quan sát tham dự, ghi âm, ghi hình được chú
trọng thực hiện đối với đề tài này với mong muốn mô tả lại nhịp sống sinh động của
lễ hội qua từng ngày, cũng như các hoạt động ngưỡng vọng vô cùng phong phú của
du khách. NCS tham gia vào các hoạt động của lễ hội để tự bản thân cảm nhận sự
tưng bừng, náo nhiệt của một không gian văn hóa hiếm có, lan tỏa ra khắp thành
phố Châu Đốc vào dịp tháng 4 (AL) hằng năm. Qua đó, NCS cảm nhận được từng
chuyển động, từng nhịp thở cũng như sức sống của lễ hội trong đời sống xã hội hiện
nay. Không những thế, NCS còn tham gia vào quá trình sử dụng dịch vụ heo quay
cúng Bà (từ lúc gọi đặt dịch vụ cho đến thanh toán, sắp lễ, khấn thuê và đề xuất bán
lại) để hiểu rõ hơn ngọn nguồn của vấn đề heo quay và các dịch vụ ăn theo.
Năm 2017, thông qua việc tham gia các cuộc họp giữa lãnh đạo thành phố
Châu Đốc, lãnh đạo sở VHTTDL An Giang, các chuyên gia trong - ngoài nước và
nhà đầu tư về các dự án đầu tư phát triển du lịch, NCS hiểu sâu sắc vấn đề khai thác
và phát triển du lịch đang diễn ra trong thời gian gần đây ở Châu Đốc, cảm nhận
được vai trò, vị trí mũi nhọn của du lịch trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa
bàn nghiên cứu.
4.3. Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn và phỏng vấn sâu để thu thập
thông tin từ nhiều đối tượng tham gia lễ hội. Đối tượng phỏng vấn sâu của đề tài là
những thành viên trong BQT lăng miếu Núi Sam, các vị bô lão, các vị lãnh đạo
trong các tổ chức - cơ quan - đơn vị nhà nước ở thành phố Châu Đốc được huy động
trong mùa lễ hội nhằm hiểu thêm về công tác tổ chức, quản lý. Chuyên gia nước
ngoài, khách du lịch quốc tế cũng tham gia vào quá trình phỏng vấn để thu thập
thêm thông tin về suy nghĩ của khách quốc tế đối với lễ hội. Ngoài ra, người dân
sinh sống khu vực miếu Bà cũng là một trong những đối tượng quan trọng trong các
câu chuyện phỏng vấn. Họ chính là nhân chứng và là người miêu thuật lại những
câu chuyện sinh động nhất xoay quanh lòng tin của quần chúng nhân dân dành cho
Bà. Lần theo các câu chuyện kể của những người có liên quan và thông tin mà BQT
5
miếu Bà lưu lại, tác giả tiếp tục phỏng vấn những đối tượng là nhân vật chính trong
các câu chuyện về tính thiêng, về sự linh ứng của Bà. Một lần nữa, điều này sẽ giúp
cho tác giả khẳng định thêm về sức sống bền bỉ của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ trong
lòng nhân dân.
Những chủ lò quay heo khu vực Núi Sam là đối tượng phỏng vấn khá lý thú
với nhiều thông tin bổ ích. Tuy nhiên, đây lại là những cuộc phỏng vấn gặp nhiều
khó khăn nhất vì độ nhạy cảm của vấn đề. Với vai trò là người đi lễ đặt mua heo,
chúng tôi dễ dàng khai thác thông tin từ phía người bán, song nếu câu hỏi đi sâu vào
những vấn đề nhạy cảm, chúng tôi nhận được sự dè chừng trong cách cung cấp
thông tin. Cuối cùng, sau một vài góp ý của những người quen, chúng tôi vào vai
“cò dịch vụ” môi giới bán heo quay cho du khách mới lần ra được các thông tin
quan trọng và bổ ích cho đề tài.
4.4. Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội Bà Chúa Xứ, để lại một
bộ sưu tập lớn về những thông tin liên quan đến lễ hội. Song, vì nhiều lý do khác
nhau mà nhiều thông tin không còn được tìm thấy trong các tài liệu đã công bố, còn
chăng là trong ký ức của người dân mà đặc biệt là các vị bô lão trong vùng. Vì vậy,
phương pháp điều tra hồi cố cũng được NCS lưu ý. Thông qua điều tra hồi cố, tác
giả đề tài đã phát hiện ra nhiều thông tin thú vị, giúp ích rất nhiều cho công tác
nghiên cứu cũng như sự hiểu biết của bản thân.
4.5. Điều tra bằng bảng hỏi được tác giả sử dụng với số lượng 250 mẫu
ngẫu nhiên từ khách hành hương về miếu Bà trước, trong và sau mùa lễ hội. Cuộc
khảo sát được tiến hành năm 2015, là năm chẵn nên lễ hội được tổ chức long trọng
hơn các năm khác, thành phần đi hội vì thế cũng đông hơn và phong phú hơn. Độ
tuổi khảo sát từ 18 đến trên 60 tuổi với đủ các ngành nghề và đến từ khắp nơi trong
nước. Thông tin thu thập được từ bảng hỏi nhằm làm sáng tỏ thêm thói quen đi lễ và
nhu cầu của du khách khi hành hương về khu vực Châu Đốc. Đây là cơ sở cho các
bước xử lý tiếp theo (kết hợp với nghiên cứu định tính) để cho ra kết quả hay những
ý kiến mang tính khách quan và có độ tin cậy. Tuy nhiên, phương pháp này gặp
nhiều khó khăn do nhịp hối hả của lễ hội cũng như sự gấp gáp của người đi lễ. Vì
6
vậy, quá trình điều tra chỉ dừng lại ở thông tin khái quát, cơ bản nhằm mục đích
thống kê, khảo sát.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Đề tài được nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm xu
hướng biến đổi tất yếu của lễ hội nói chung, lễ hội Vía Bà nói riêng trong xã hội
đương đại, góp phần khẳng định về mặt lý luận sự tồn tại hay hồi sinh của lễ hội cổ
truyền trong vài thập kỷ gần đây trong đời sống tinh thần của con người.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhận ra tình
hình phát triển lễ hội những năm gần đây và nhu cầu đa dạng của du khách khi hành
hương về miếu Bà Chúa Xứ. Những giá trị đang dần biến đổi trước xu hướng phát
triển của thời đại, đặc biệt là dưới sự tác động của quản lý nhà nước, kinh tế thị
trường và phát triển du lịch. Đề tài sẽ cung cấp cơ sở khoa học để xây dựng và triển
khai các chính sách về quản lý và phát huy lễ hội ở An Giang nói riêng và ở Việt
Nam nói chung.
6. Đóng góp của luận án
Đề tài nghiên cứu những biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ trong những năm
vừa qua, nhất là từ 2001 cho đến 2017 một cách tương đối toàn diện, khách quan và
hệ thống; góp phần nhận diện lễ hội trong xu thế phát triển và hội nhập.
Là công trình nghiên cứu sự biến đổi của một loại hình văn hóa (lễ hội dân
gian) trước nhiều tác nhân trong đó tập trung ba yếu tố: sự chi phối của nhà nước,
vai trò động lực của du lịch và sự thỏa hiệp giữa chính quyền và nhân dân địa
phương. Đề tài góp phần khẳng định một mô hình quản lý kết hợp giữa nhà nước và
nhân dân là một mô hình hiệu quả, phát huy trách nhiệm các bên, phù hợp với xu
thế phát triển và mang tính bền vững cao.
Đề tài góp phần khẳng định sự kết hợp giữa lễ hội và du lịch cho ra loại hình
du lịch tâm linh là việc làm đúng đắn và phù hợp với sự phát triển của thời đại cũng
như nhu cầu ngày càng cao của du khách.
7. Kết cấu của luận án
Bố cục của luận án, ngoài phần mở đầu và kết luận, có 4 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu. Trình bày khái quát về
tình hình nghiên cứu lễ hội Vía Bà Chúa Xứ trong thời gian qua, hệ thống các khái
7
niệm công cụ của đề tài cũng như cơ sở lý thuyết sử dụng trong quá trình nghiên
cứu. Ngoài ra, chương 1 còn dành một lượng lớn số trang viết để trình bày sơ lược
về địa phương An Giang cũng như thành phố Châu Đốc.
Chương 2: Tín ngưỡng và Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc. Mở
đầu chương là nội dung về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, các giai thoại về sự xuất
hiện của Bà Chúa Xứ cũng như không gian lễ hội với cụm di tích, các công trình, cơ
sở thờ tự trong khu vực Núi Sam. Miêu thuật lại chi tiết các nghi thức cúng bái
trong lễ hội từ xưa cho đến nay là phần trọng tâm của chương này.
Chương 3: Lễ hội Bà Chúa Xứ và những chiều cạnh biến đổi. Đây là
chương trình bày những thay đổi của lễ hội Vía Bà thông qua các nội dung: không
gian, thời gian, chủ thể, mục đích, chức năng... Đồng thời, nội dung chương còn thể
hiện sự liên kết giữa lễ hội và du lịch trong năm 2017 thông qua hoạt động Tháng
Du lịch An Giang.
Chương 4: Một vài bàn luận từ những biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ
Núi Sam. Chương này bàn luận 3 nội dung chính: (1) Vai trò của nhà nước đối với
sự biến đổi lễ hội; (2) Sự tác động qua lại giữa lễ hội và du lịch; (3) Tính chủ động
của người dân địa phương. Hoạt động khai thác du lịch ở khu vực Núi Sam lấy lễ
hội làm trung tâm và sự linh hoạt của cộng đồng địa phương trước xu thế phát triển
cũng là nội dung phản ánh trong chương này.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý thuyết
Hoạt động tín ngưỡng và tổ chức lễ hội ở khu vực miếu Bà Chúa Xứ Núi
Sam đã và đang không ngừng biến đổi. Sự biến đổi diễn ra trên mọi phương diện từ
cấu trúc đến chức năng, từ chủ thể đến khách thể, từ không gian cho đến thời gian.
Tuy rằng chính quyền địa phương đã có những ứng xử vô cùng linh hoạt, phối hợp
cùng cộng đồng địa phương, một mặt bảo vệ các giá trị truyền thống, mặt khác uyển
chuyển theo tình hình thực tế, đón nhận xu thế phát triển của thời đại. Song, lễ hội
tín ngưỡng tôn giáo luôn là vấn đề khiến các nhà quản lý lao tâm. Cùng với sự “hồi
sinh” (theo Philip Taylor, 2008.) của tín ngưỡng thờ Bà, lễ hội không còn bị “đóng
khung” trong các giá trị truyền thống mà vượt qua các khuôn phép để kết hợp với
những nhân tố mới. Nơi đó, khách hành hương tìm thấy chính mình thông qua hành
trình bản thân hướng đến đấng siêu nhiên vô hình nhưng hiện hữu trong chính tâm
thức mỗi người.
Về khía cạnh mà đề tài nghiên cứu, sự vận động và biến đổi của lễ hội trong
xã hội đương đại với nội dung trọng tâm là vai trò của các chủ thể (nhà nước và
cộng đồng địa phương) được phân định như thế nào trong việc tạo nên những biến
đổi. Sự thương thảo giữa các bên liên quan trong đó tập trung là nhà quản lý và
nhân dân tại chỗ. Sự tác động của du lịch đến quá trình biến đổi lễ hội.
Vì thế chúng tôi xác định câu hỏi nghiên cứu cho đề tài là:
- Lễ hội Bà Chúa Xứ biến đổi như thế nào trong bối cảnh hiện nay?
- Vai trò của Nhà nước đã thể hiện như thế nào trong sự biến đổi của lễ hội
Bà Chúa Xứ?
- Mối quan hệ giữa du lịch và lễ hội được thể hiện như thế nào trong lễ hội
Vía Bà?
- Vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương được thể hiện như thế nào trong
bối cảnh phát triển của lễ hội và trong mối quan hệ với chính quyền?
Với những câu hỏi nghiên cứu trên, NCS đặt giả thuyết nghiên cứu của đề tài là:
9
- Lễ hội Bà Chúa Xứ biến đổi mạnh mẽ từ sau khi được nâng cấp thành lễ
hội cấp quốc gia vào năm 2001. Trong sự biến đổi mạnh mẽ đó, vai trò tác động của
nhà nước mang tính chi phối.
- Đã có sự thỏa hiệp giữa các chủ thể của lễ hội mà cụ thể ở đây là nhà nước
và cộng đồng cư dân địa phương. Bên cạnh đó, du lịch đã có những tác động to lớn
trong biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ.
Căn cứ vào việc xác định câu hỏi nội dung nghiên cứu, chúng tôi chọn các lý
thuyết nghiên cứu dưới đây.
1.1.1.1. Lý thuyết biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội, chỉ sự
thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa cho trước. Nó được đặc trưng
bởi sự thay đổi của các biểu tượng văn hóa, các nguyên tắc ứng xử, các thiết chế
văn hóa và các hệ thống giá trị. Qua nhiều nghiên cứu, các nhà khoa học đều thống
nhất rằng, không có nền văn hóa nào đứng yên, không một nền văn hóa nào có thể
giữ nguyên trạng thái ban đầu của nó. Theo E.Taylor: “Sự phát triển tiến bộ tiến hóa
của các nền văn hóa là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Xu hướng phát
triển này là rất hiển nhiên, vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của nó có thể
sắp xếp vào một trật tự xác định, mà không thể ngược lại” [3, tr.53]. Tuy nhiên, văn
hóa là một phạm trù rất rộng vì thế, quá trình vận động và biến đổi của nó cũng hết
sức phức tạp. Theo các nhà nhân học hiện nay: “biến đổi văn hóa bao hàm những sự
chia sẻ, sự biến đổi tương đối lâu dài của những mô hình ứng xử và niềm tin văn
hóa. Nhìn ở khía cạnh lịch sử, xã hội nào cũng biểu lộ những biến đổi, cũng trộn lẫn
những sự tiếp nối và biến đổi” [106, tr.65-66].
Tuy nhiên, quá trình biến đổi lại diễn ra không giống nhau giữa những nền
văn hóa khác nhau. Có những quá trình biến đổi diễn ra một cách tự nhiên song lại
có những sự biến đổi mang tính cưỡng bức. Vì thế, nhịp điệu và tính chất biến đổi
cũng rất khác nhau giữa các nền văn hóa.
Ngay trong bản thân một nền văn hóa lại diễn ra cả hai quá trình biến đổi tự
nhiên và cưỡng bức, tùy thuộc thời gian và điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Nhận định
về văn hóa Việt Nam, Nguyễn Từ Chi cho rằng: “không chỉ bây giờ mà trong lịch
10
sử, văn hóa Việt Nam đã luôn thay đổi và nhiều khi thay đổi rất nhanh là khác.
Theo tôi, người Việt là một trong những dân tộc rất dễ nhạy cảm và dễ thay đổi
mình cho phù hợp với hoàn cảnh” [12, tr.565-566].
Từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, khuynh hướng nghiên cứu biến đổi
văn hóa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, đặc biệt diễn ra ở các xã hội đang
chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ xã hội
truyền thống - khép kín sang xã hội hiện đại - hội nhập thật sự hấp dẫn các nhà nhân
học, nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước. Các nghiên cứu về biến đổi văn
hóa trên mọi phương điện của cuộc sống như: văn hóa làng, văn hóa tâm linh, văn
hóa đọc, văn hóa tiêu dùng, thậm chí là văn hóa giao thông, văn hóa du lịch hay văn
hóa doanh nghiệp,... xuất hiện ngày càng nhiều trong thư mục các công trình nghiên
cứu văn hóa hiện nay. Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở lĩnh vực nào, các nhà khoa học
đều đi đến những thống nhất cơ bản về nguyên nhân của quá trình vận động và biến
đổi, đó là sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, là sự “cải cách” trong
tư tưởng chính trị, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ, sự giao lưu văn
hóa trong xu thế hội nhập. Theo đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa là
những chất xúc tác mạnh mẽ cho quá trình này.
Tuy tất cả đều cho rằng biến đổi là “hằng số” của văn hóa, là một thực tế
không thể đảo ngược, song các tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị
truyền thống trước những biến đổi mạnh mẽ và nó sẽ chi phối sự lựa chọn của từng
xã hội cụ thể về phương thức, tính chất, quy mô biến đổi của văn hóa. Chính lẽ đó,
càng biến đổi, người ta lại càng trân quý các giá trị truyền thống, những nét văn hóa
cổ xưa, quay về tìm lại, gìn giữ để lưu truyền cho muôn đời sau.
Áp dụng các luận điểm trên vào quá trình nghiên cứu biến đổi lễ hội Bà
Chúa Xứ tại Núi Sam - Châu Đốc, NCS tập trung chú trọng đến tính bền vững của
tín ngưỡng thờ Bà cũng như các giá trị truyền thống trong bối cảnh giao lưu - hội
nhập và tiếp biến văn hóa; đồng thời cân nhắc vai trò của những tác nhân trong quá
trình biến đổi. Các quan điểm khác nhau về biến đổi văn hóa sẽ cung cấp cho NCS
thêm nhiều phương pháp tiếp cận và cái nhìn bao quát, xem xét dưới nhiều góc độ,
chiều cạnh của sự biến đổi. Ứng dụng vào đề tài nghiên cứu, NCS sẽ trình bày
11
những biểu hiện của sự biến đổi trong lễ hội Vía Bà từ nhiều chiều cạnh khác nhau,
tìm hiểu các tác nhân trong đó chú trọng đến vai trò chủ thể của các bên liên quan
trong tổ chức, gìn giữ và phát huy lễ hội để nó có được hình hài như ngày hôm nay.
Tiếp theo là việc lý giải những biến đổi đó nói lên điều gì từ thực tế của sự phát
triển, của Châu Đốc với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, của đời sống cộng đồng
cũng như khách hành hương.
1.1.1.2. Lý thuyết Sáng tạo truyền thống
Truyền thống - Tradition được hiểu là hành vi lưu truyền, xuất phát từ động
từ tradere nghĩa là chuyển sang cho người khác, giao lại, trao lại. Khi nghiên cứu về
các loại hình, thực hành văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu trước đây đã đối lập truyền
thống với biến đổi và như vậy mặc nhiên thừa nhận khái niệm truyền thống mang
nội hàm ổn định, bất biến, xưa cũ. Ngược lại với khuynh hướng cho rằng truyền
thống là một thể chế bất biến, nhiều công trình, lại chứng minh truyền thống qua
quá trình trao truyền được thay đổi, sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
và được chấp nhận của cộng đồng.
Theo R. Aileau, ông nhìn nhận truyền thống không phải chỉ là cái bất biến,
cái nguyên thể lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà bản thân truyền thống
luôn tích hợp trong nó cái mới trong diễn trình lịch sử, nói cách khác đó chính là sự
sáng tạo truyền thống. Theo ông:
... sự thật, truyền thống không tự giới hạn ở sự bảo tồn cũng như ở sự
truyền những sở đắc trước đó: trên dòng đi của lịch sử, truyền thống tích
hợp các hiện thể mới (existants nouveaux) bằng cách thích nghi chúng
với các hiện thể cũ. Bản chất nó không chỉ có tính giáo dục, cũng không
thuần túy mang tính tư tưởng: nó còn thể hiện ra là tính biện chứng và
tính bản thể (ontologique). Truyền thống làm thành mới cái đã là; nó
không bị giới hạn ở làm cho biết một văn hóa, bởi nó đồng nhất hóa với
chính cuộc sống của một cộng đồng (dẫn theo Nguyễn Mạnh Hà, 2014,
[17, tr.12]).
Nhà nhân học E. Hobsbawm cho rằng, mặc dù tính liên tục và kế thừa quá
khứ của truyền thống được đề cao, nhưng thực ra truyền thống lại bao gồm một tiến
12
trình sáng tạo ra lễ nghi. Ông góp phần khẳng định thêm tính làm mới trong quá
trình trao truyền thông qua công trình Sáng tạo ra truyền thống (the Invention of
Tradition) của mình.
“Truyền thống được sáng tạo” được hiểu là một tập hợp những thực
hành, thường nằm dưới sự chi phối của những luật lệ thành văn hay bất
thành văn, có bản chất nặng tính nghi thức hoặc hình tượng, nhằm khắc
sâu các giá trị và tiêu chuẩn hành vi nhất định vào tâm thức cộng đồng
qua hình thức tái diễn, đồng thời ngụ ý một dòng chảy tiếp nối từ quá
khứ [28, tr.86].
Hobsbawm lý giải việc làm mới truyền thống bắt nguồn từ sự lãng quên, từ
nhu cầu biến đổi để thích nghi của các thực hành văn hóa.
Tuy vậy, có thể đề xuất nhận xét rằng nơi nào truyền thống được hình
thành qua sáng tạo, thì thường không phải do nơi đó không còn duy trì
được những lối xưa, mà bởi những lối xưa ấy bị lãng quên, không vận
dụng, không biến đổi để thích nghi, một cách hữu ý chứ không phải vô
tình bỏ mặc [28, tr.93].
Hobsbawm tổng hợp, có ba loại sáng tạo: loại để gây dựng hay biểu tượng
hóa tình đoàn kết trong một tập thể, loại để gây dựng hay hợp lí hóa (legitimizing)
thể chế và uy quyền xã hội, và loại để giáo dục và gây dựng niềm tin, hệ giá trị, và
phong cách hành xử (dẫn theo Trương Văn Món, 2014, [88, tr.20]).
Đối với các nhà nghiên cứu trong nước, cụm từ truyền thống trước nay đa
phần dùng để chỉ những loại hình, thực hành văn hóa được gìn giữ, lưu truyền qua
nhiều đời, nhiều thế hệ của một quốc gia, một dân tộc hay một cộng đồng cụ thể nào
đó. Nó mang tính bền vững và cốt lõi, ít biến đổi. Song, cũng có không ít nhà
nghiên cứu nhìn nhận sáng tạo truyền thống là một thực tế trong diễn trình văn hóa
của cộng đồng, dân tộc. Nghĩa là, một thực hành văn hóa của một cộng đồng, trên
thực tế đó là một truyền thống được sáng tạo. Trong Bàn về truyền thống và hiện
đại, Nguyễn Hòa đã viết: “truyền thống văn hóa là hệ thống giá trị văn hóa đã hình
thành và luôn được bổ sung để trở thành phẩm chất văn hóa của một dân tộc, và tự
13
thân đã là một khái niệm có tính biện chứng, chuyển tải trong đó nội hàm là hành vi
sáng tạo văn hóa của cộng đồng” [27, tr.1]. Nguyễn Thị Hiền đã phân tích quá trình
sáng tạo truyền thống trong lễ Giỗ tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 âm lịch) qua
bài viết “Sáng tạo truyền thống: nghiên cứu trường hợp Giỗ tổ Hùng Vương vào
ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm”. Sự sáng tạo đó thể hiện trên cả hai bình
diện về thời gian và không gian. Đặt nó trong bối cảnh tác động bởi yếu tố nhà nước
cũng như mối quan hệ với quần chúng nhân dân - chủ thể của lễ hội.
Hầu hết các nhà nghiên cứu nhân học và văn hóa học đều công nhận sự tồn
tại một cách bền bỉ của các yếu tố mang tính truyền thống trong lễ hội song, quan
điểm sáng tạo, bổ sung, làm mới các giá trị ấy cũng rất được nhiều tác gia đồng tình
và khẳng định. Quan điểm sáng tạo truyền thống tuy có khác nhau giữa các tác giả
nêu trên nhưng đều thống nhất ở một điểm, là: truyền thống không phải là cái bất
biến, mà trong quá trình trao truyền giữa các thế hệ, các cộng đồng, dân tộc luôn có
sự sáng tạo, bổ sung. Truyền thống được “sáng tạo” ở từng môi trường văn hóa
khác nhau tuân theo những quy luật riêng thể hiện ở sự chọn lựa của cộng đồng và
dĩ nhiên là được cộng đồng chấp nhận.
Từ những quan điểm nêu trên, NCS áp dụng lý thuyết sáng tạo truyền thống
vào công trình của mình làm hệ quy chiếu, góp phần khẳng định: lễ hội Bà Chúa Xứ
Núi Sam - Châu Đốc có từ lâu đời (xem thêm ở chương 2), song không phải tất cả
các lễ thức lễ nghi đều được bảo tồn vẹn nguyên từ hai thế kỷ qua mà nó được sáng
tạo không ngừng để thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội hiện thời. NCS xem xét,
so sánh lễ hội Vía Bà hiện nay so với trước đây đã diễn ra quá trình sáng tạo như
thế nào, dưới những tác nhân cụ thể ra sao. Quá trình sáng tạo ấy, có đi ngược lại
với lợi ích, nguyện vọng của cộng động địa phương hay được địa phương chấp
nhận, đồng thuận và góp phần làm phong phú thêm cho lễ hội. Dựa trên khẳng định
của các nhà khoa học về tính sáng tạo ra truyền thống, luận án phân tích yếu tố mới
nảy sinh và được cộng đồng bổ sung qua quá trình trao truyền và biến đổi. Tìm hiểu
mục đích của quá trình biến đổi ấy là: (1) để gây dựng tình đoàn kết trong một tập
thể, (2) để hợp lí hóa thể chế và uy quyền xã hội, hay (3) để giáo dục và gây dựng
niềm tin, hệ giá trị. Tất cả để trả lời cho các giả thuyết nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
14
1.1.2. Các khái niệm có liên quan
1.1.2.1. Tín ngưỡng - Tôn giáo
Mặc dù đã có rất nhiều định nghĩa song đây là hai khái niệm vẫn còn khá
nhiều tranh cãi từ các nhà khoa học. Cặp phạm trù Tôn giáo - Tín ngưỡng hay Tín
ngưỡng - Tôn giáo đôi khi đi chung như một thể thống nhất, một đối tượng duy nhất
trong các nghiên cứu nhưng đôi khi lại được tách ra một cách rạch ròi và có sự phân
biệt thấp cao.
Hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có
nghĩa là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm
tin tôn giáo. Thuật ngữ tín ngưỡng có hai nghĩa: tự do tín ngưỡng thì tín ngưỡng là
conscience có thể hiểu là tự do về ý thức, hoặc tự do về tín ngưỡng tôn giáo là
croyance religieuse. Nếu hiểu tín ngưỡng là conscience thì tín ngưỡng bao trùm lên
trên tôn giáo, nhưng nếu hiểu là croyance religieuse thì tín ngưỡng chỉ là bộ phận
chủ yếu nhất cấu thành nên tôn giáo [97, tr.68]. Đặng Nghiêm Vạn không đồng tình
với quan điểm phân định thấp cao cho cặp khái niệm này mà giữa chúng có mối
quan hệ gần gũi và không phân biệt. Theo ông, tín ngưỡng dân gian chính là một
dạng thức của tôn giáo bình dân:
Thuật ngữ đó có thể là cách hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo
tập quán, theo dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo
lối chính thống chủ yếu xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi
giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu là các hình thức tôn giáo dân
tộc được lưu truyền lại từ xa xưa, gần gũi với cộng đồng như các lễ hội,
các cuộc hành hương, các ngày lễ với những rước xách, nhảy múa, thậm
chí các hình thức bói toán, tướng số... [97, tr.91].
Ngô Đức Thịnh cho rằng tín ngưỡng là cách con người ứng xử với các lực
lượng siêu nhiên, với thế giới mà con người trong hiểu biết hạn chế của mình không
thể tác động và trở nên sợ hãi. Từ đó, tín ngưỡng chính là chất kết dính để cố kết
cộng đồng nhằm đối mặt hay cùng nhau vượt qua những thế lực siêu nhiên đó và là
đặc trưng phân biệt các cộng đồng với nhau. Theo ông:
15
Đó là một bộ phận của đời sống văn hóa tinh thần con người mà ở đó
con người cảm nhận được sự tồn tại của các vật thể, lực lượng siêu
nhiên, mà những cái đó chi phối, khống chế con người, nó nằm ngoài
giới hạn hiểu biết của con người hiện tại; sự tồn tại của các phương tiện
biểu trưng giúp con người thông quan với các thực thể, các sức mạnh
siêu nhiên đó; đó là chất kết dính, tập hợp con người thành một cộng
đồng nhất định và phân định với cộng đồng khác [77, tr.14].
Bàn về tôn giáo, thật thiếu sót nếu không nhắc đến Edward B.Tylor người có
công tạo ra nền tảng của những nghiên cứu nhân học tôn giáo. Trong lý thuyết nổi
tiếng của mình, ông cho rằng cơ sở của tôn giáo nguyên thủy là thuyết vạn vật hữu
linh (animism), là niềm tin vào thần thánh và ông chỉ ra rằng niềm tin này được bắt
nguồn từ một giải thích tuy sai lầm nhưng rất nhất quán về những giấc mơ, ảo
mộng, ảo giác, những trạng thái vô thức và các hiện tượng tương tự như vậy [34,
tr.147]. Tuy quan điểm của Tylor về tôn giáo nguyên thủy rất quan trọng đối với
ngành nhân học nhưng lại mắc một thiếu sót nghiêm trọng là chỉ dựa vào một hệ
thống thực tế rất hạn hẹp. Những điền dã gần đây do các chuyên gia thực hiện đã
chỉ ra rất nhiều khía cạnh của tôn giáo thời sơ khai mà không thể đặt vào khuôn khổ
thuyết vạn vật hữu linh của Tylor.
Một số nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, chính sự sợ hãi của con người
vào thế giới mà con người không thống trị được đã là nguyên nhân sản sinh ra các
vị thần thánh, như là một cách sản sinh ra tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo không chỉ là
sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và trong xã hội, vì thiếu
hiểu biết dẫn đến sự sợ hãi, không tự tin phải thờ cúng, cầu xin thần thánh; mà theo
Đặng Nghiêm Vạn, tôn giáo còn hướng con người đến cuộc sống có hậu, tốt đẹp
sau này, một cuộc đời thánh thiện, có quá khứ, hiện tại và tương lai [97, tr.63].
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, tôn giáo và tín ngưỡng lại là hai
khái niệm tách rời bởi ngay trong định nghĩa đã cho thấy rõ điều này. Theo đó, “Tín
ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền
với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá
nhân và cộng đồng” [119]. Còn “tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ
16
thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức” [119].
Như vậy, tín ngưỡng là niềm tin của con người vào một sự vật, hiện tượng
nào đó, cho rằng chúng có tác động đối với cuộc sống của họ. Từ xa xưa, con người
cảm nhận thế giới qua niềm tin. Họ hình dung ra những vị thần, thánh, những loài
ma quỷ có sức mạnh siêu việt, mặc nhiên thống trị cuộc sống nhân gian. Niềm tin
đó tạo nên những hoạt động tương ứng, biểu hiện qua việc thờ cúng một số sự vật
hiện tượng nào đó [40, tr.165]. Tôn giáo, theo cách hiểu thông thường là một dạng
sinh hoạt tâm linh trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu
nhiên, có quyền lực siêu phàm có thể tác động đến đời sống của con người khi còn
sống cũng như khi đã chết, tin vào sự bất tử của linh hồn và một thế giới sau cái
chết trong đó linh hồn của những người đã chết vẫn còn tồn tại trong một cuộc sống
khác [75, tr.44].
Tín ngưỡng, tôn giáo thuộc lĩnh vực niềm tin trong đời sống tinh thần của
con người. Chúng ta đều thừa nhận, tôn giáo tín ngưỡng là sản phẩm của chính hoạt
động của con người, phản ánh một bình diện của đời sống tinh thần nhân loại, phát
sinh và tồn tại từ buổi bình minh của văn minh nhân loại và là một kết tinh văn hóa.
Tôn giáo tín ngưỡng là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển cùng với xã hội
loài người và sẽ tồn tại cùng với xã hội loài người trong một thời gian khó mà đoán
định được. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo tín ngưỡng ảnh hưởng khá
sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong
tục tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Bản thân tôn giáo tín ngưỡng chứa
đựng nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa, chính
trị... Nó thực sự là nhu cầu của con người, nhu cầu của xã hội, và một khi những
nhu cầu ấy chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn
thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị
đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý [75, tr.9-10].
1.1.2.2. Lễ hội
Alessandro Falasi giải thích và định nghĩa về lễ hội như sau: “festival” có
nghĩa là “lễ hội” bắt nguồn từ festum tiếng Latinh mà ban đầu có nghĩa là “sự vui
17
chơi, vui mừng, hân hoan của công chúng” [67, tr.130]. Theo cách sử dụng hiện nay
trong ngành khoa học xã hội nhân văn ở phương Tây, “Festivals có nghĩa là một
hoạt động kỷ niệm định kỳ bao gồm vô số hình thức và các sự kiện nghi lễ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động lên tất cả các thành viên của một cộng đồng và công khai
hoặc ngấm ngầm biểu lộ giá trị cơ bản, hệ tư tưởng và thế giới quan của thành viên
trong cộng đồng đó, và là nền tảng bản sắc xã hội của họ” [67, tr.131].
Ở trong nước, cho đến nay, khái niệm “lễ hội” vẫn chưa nhận được sự thống
nhất trong cách định nghĩa. Bởi lễ hội là đối tượng nghiên cứu phức hợp, hình thành
và tồn tại theo suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Năm 1993, nhà nghiên cứu
Nguyễn Duy Quý đã đưa ra khái niệm: “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt tổng
hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ
thuật, linh thiêng và đời thường…” [71, tr.82]. Trong khi đó, Trần Ngọc Thêm và
các cộng sự lại cho rằng:
Lễ hội là sự tổng hợp cái linh thiêng và cái trần thế, nhằm thể hiện lòng
biết ơn và bày tỏ nguyện vọng cùng sự cầu mong của mình đối với tổ
tiên và các thế lực siêu nhiên trong vũ trụ; phân bố theo không gian; có
khuynh hướng thiên về tinh thần; mang đặc tính mở (lôi cuốn mọi người
tìm đến); mục đích nhằm duy trì quan hệ bình đẳng giữa các thành viên
trong làng xã [72, tr.269].
Tuy có cách tiếp cận khác nhau, song thực tiễn cho thấy các nhà nghiên cứu
đều thống nhất việc lễ hội là sản phẩm cấu thành từ hai hoạt động (hay thành tố): Lễ
và Hội. Hai phần này gắn bó chặt chẽ với nhau, đan quyện vào nhau trong một
chỉnh thể nguyên hợp [50, tr.21]. “Phần Lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh
bảo trợ cho cuộc sống của mình và phần Hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức
phong phú” [73, tr.153]. Trong lễ có hội và trong hội có lễ, đó là định nghĩa của Bùi
Thiết (1993): “Lễ là phần tín ngưỡng là phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con
người, là phần đạo; còn hội là phần tập trung vui chơi giải trí, là đời sống văn hóa
thường nhật, phần đời của mỗi con người, của cộng đồng. Hội gắn liến với lễ và
chịu sự qui định của lễ, có lễ mới có hội” [74, tr.93].
18
Xét ở phương diện cấu trúc lễ hội, tác giả Nguyễn Chí Bền cho rằng: lễ hội
cổ truyền là sinh hoạt của cộng đồng làng xã diễn ra trong một khoảng thời gian và
trong một không gian đã được xác định một cách hữu thức. Theo ông, cấu trúc của
lễ hội cổ truyền của người Việt gồm ba bộ phận tạo thành. Đó là (1) Nhân vật
phụng thờ, (2) Các thành tố hiện hữu và (3) Các thành tố tàng ẩn nhưng hiện hữu
trong thời gian thiêng [4, tr.112-113]. Cái mới trong nghiên cứu này là việc tác giả
không còn khuôn khổ trong mối quan hệ giữa lễ hội - hội lễ mà nhìn rộng ra về mặt
không gian - thời gian và đối tượng được thờ tự. Về nhân vật phụng thờ, điều tất
nhiên, là thành tố quan trọng nhất, quyết định các thành tố còn lại. Đây là nhân vật
mà bất cứ lễ hội nào cũng hướng đến, gắn với một loại hình tín ngưỡng nhất định,
và là nơi người dân ký thác niềm tin. Các thành tố hiện hữu là không gian thiêng,
không gian tổ chức lễ hội như: đình, đền, chùa, miếu, quán, biển, sông, hồ... Ngược
lại, các thành tố tàng ẩn chỉ xuất hiện trong thời gian thiêng, là thời gian tổ chức lễ
hội, gồm: trò diễn, trò chơi, lễ vật dâng cúng, các huyền thoại, nghi thức cúng tế và
sự kiêng kỵ [4, tr.113-114].
Như vậy, lễ hội hay lễ hội dân gian là một nghi thức tế lễ của một cộng đồng
người hướng đến một đối tượng suy tôn nào đó, diễn ra trong một không gian - thời
gian nhất định, trong đó quần chúng nhân dân là chủ thể chính. Lễ hội dân gian còn
bao gồm cả phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và một số sinh hoạt văn hóa
tinh thần của một cộng đồng người [15, tr.20]. Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín
ngưỡng tập thể được tổ chức theo lễ nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh
thần của cộng đồng [119].
Trong phạm vi luận án này, chúng tôi thống nhất những tổng kết của tác giả
Lê Hồng Lý về lễ hội truyền thống như sau:
- Là một sự kiện trọng đại của một cộng đồng cư dân (thường là một
làng) tập trung nhau lại để tưởng niệm một (hay nhiều) vị thần do có
công lao với cộng đồng hoặc phù trợ cho cộng đồng ấy trong cuộc sống.
- Tại thời điểm xảy ra sự kiện ấy, cộng đồng cư dân tiến hành những
nghi lễ, phong tục nhằm bày tỏ lòng ngưỡng mộ tới các vị thần và cầu
mong họ tiếp tục giúp đỡ họ trong năm mới.
19
- Những nghi lễ ấy được tiến hành kèm theo những lễ vật của cải được
cộng đồng quý trọng nhất dâng lên các thần linh bằng các nghi thức tế lễ
có nhạc, múa hay ca xướng phụ họa…
- Bên cạnh những nghi lễ là các cuộc vui chơi, ăn uống cộng cảm của
cộng đồng nhằm thỏa mãn sau những ngày lao động vất vả, đồng thời là
dịp để cố kết cộng đồng xung quanh một vị thần chung của cộng đồng.
Nhiều sinh hoạt văn hóa văn nghệ được diễn ra trong những ngày này,
một mặt để dâng lên thần linh, mặt khác cũng là dịp để con người giải trí,
xả láng sau những ngày lao động vất vả [9].
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Nghiên cứu về lễ hội
Lễ hội truyền thống - một trong những hiện tượng văn hóa độc đáo của
người Việt, từ lâu đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội.
Trong tiến trình phát triển của dân tộc, lễ hội đã góp phần không nhỏ vào việc lưu
giữ những nội dung lịch sử, những hình thức văn hoá mang đậm dấu ấn lịch sử [48,
tr.932], phản ánh toàn bộ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của con người qua từng
thời kỳ. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về lễ hội của các tác giả trong và
ngoài nước. Ở đây, trong giới hạn của sự hiểu biết, cũng như phạm vi nghiên cứu
của đề tài, người viết chỉ xin điểm lại một số công trình có liên quan đến nội dung
nghiên cứu của mình.
Công trình ghi chép về lễ hội sớm nhất phải kể đến là hoa văn trên trống
đồng. Những hình ảnh mang tính chất mô phỏng được khắc họa trên mặt trống giúp
các nhà nghiên cứu khẳng định về thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội, về trang phục
hội, lễ vật dâng cúng, các trò chơi dân gian… Người ta chia trống đồng ra thành 4
loại thì trên cả 4 loại này, đều tìm thấy hoa văn lễ hội.
Thời Pháp thuộc, bài viết về lễ hội làng Phù Đổng của G. Dumoutier được in
trên “Revue d' histoire des religions” năm 1891 có lẽ là nghiên cứu sớm nhất viết về
lễ hội cổ truyền Việt Nam. Tiếp sau đó phải kể đến các công trình của một số nhà
nghiên cứu người Pháp về Đông Dương như: Lễ động thổ của M.J. Przyluski
(1910), Paul Giran với Ma thuật và tôn giáo An Nam (1912), Tế Nam Giao của L.
20
Cadière và R. Orbard, Lễ rước sắc thần Thiên Yana ở điện Huệ Nam (1915) của H.
Délétie…
Những công trình nghiên cứu trong nước về lễ hội cổ truyền Việt Nam ra đời
muộn hơn với nội dung giới thiệu mang tính khái quát về văn hóa Việt trong đó có
lễ hội. Đó là các tác phẩm Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (1915); Nguyễn
Văn Khoan với Các buổi cúng tế trong đình, Tục lệ thờ cúng, Một số hèm đặc biệt
(1930); Đào Duy Anh với cuốn Việt Nam văn hóa sử cương (1938). Đến những
năm 60 của thế kỷ XX, đề tài lễ hội cổ truyền lại xuất hiện trên các văn đàn và trong
một số công trình. Theo đó, trên Văn đàn Tuần san năm 1960, Toan Ánh đã viết về
hội hè và phong tục mùa thu, mở đầu cho những tập sách Nếp cũ - hội hè đình đám
quyển Thượng (1969) và quyển Hạ (1974) mà nội dung chính là miêu tả các lễ hội
cổ truyền trên mọi miền đất nước. Tuy chỉ dừng ở việc miêu thuật, song Nếp cũ hội hè đình đám của ông là bộ sưu tập đầu tiên, dày dặn về 54 lễ hội cổ truyền Việt
Nam, góp phần rất lớn trong lịch sử nghiên cứu và sưu tầm lễ hội của dân tộc.
Nửa cuối thế kỷ XX đầu XXI, các công trình nghiên cứu lễ hội tăng lên cả về
số lượng lẫn chất lượng. Các công trình ở giai đoạn này đi tìm về nguồn gốc và lịch
sử hình thành lễ hội, quá trình phát triển, cơ cấu và việc tổ chức lễ hội. Các công
trình nêu ra nhiều tiêu chí để phân loại lễ hội, trình bày khái quát về đối tượng suy
tôn, địa điểm mở hội và những nét đặc thù, vị trí của lễ hội trong đời sống tinh thần
của người Việt. Các đề tài còn dày công phân tích chủ thể/khách thể của lễ hội cũng
như cấu trúc của lễ hội cổ truyền. Đó là nội dung nghiên cứu có thể tìm thấy trong
các công trình của Đinh Gia Khánh (1989), Lê Trung Vũ (1992), Hoàng Lương
(1993, 1994), Thạch Phương - Lê Trung Vũ (1995), Lê Văn Kỳ (2002), Ngô Thị
Kim Doan (2003), Đặng Văn Lung (2005), Lê Trung Vũ - Lê Hồng Lý (2005),
Thuận Hải (2007), Thích Minh Nghiêm (2010), Lê Hồng Lý (2011), Trần Đình Ba
(2012), Nguyễn Chí Bền (2000, 2013, 2015). Bên cạnh đó, cũng đã có một số nhà
nghiên cứu tiếp cận lễ hội ở góc độ tính thẩm mỹ, như Hồ Hoàng Hoa trong cuốn
Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng (1998) [4], [41], [44], [49],
[48], [51], [66], [102].
21