SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT ĐẶNG THAI MAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỊNH HƯỚNG HỌC TÍCH CỰC VĂN BẢN
TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU BẰNG CÁCH HƯỚNG DẪN
HỌC SINH CHUẨN BỊ BÀI Ở NHÀ
Người thực hiện : Mai Thị Hiền
Chức vụ :
Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn
THANH HOÁ, NĂM 2018
Stt
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3.5
3
3.1
3.2
Mục lục
Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến
Cơ sở lí luận
Thực trạng nghiên cứu vấn đề
Giải pháp và tổ chức thực hiện
Hình thành kĩ năng đọc, trả lời câu hỏi trong SGK
HÌnh thành kĩ năng lập sơ đồ tư duy, lập dàn ý khái quát
Hình thành nhóm học tập và rèn luyện kĩ năng hợp tác nhóm
Hình thành kĩ năng sống
Sưu tầm, khai thác nguồn tài liệu học tập
Đánh giá và kiểm tra kết quả tự học
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
2
Trang
1
1
1
2
2
3
3
4
4
5
6
13
13
15
16
16
17
17
18
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo ngày càng chú trọng nhiều hơn
đến chất lượng giáo dục các cấp nhằm cung cấp kiến thức toàn diện cho người
học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn trong nhà trường
phổ thông. Trên cơ sở đó, rèn luyện cảm thụ văn học, bồi dưỡng tình cảm, tâm
hồn và nhân cách chuẩn bị hành trang cho các em bước vào đời.
Trong dạy và học môn Ngữ Văn nói chung cụ thể là đổi mới trong cách dạy
và học, lấy học sinh làm trung tâm để các em có thể tự học, tự bồi dưỡng nhân
cách thông qua việc tiếp nhận văn bản văn học. Để tiếp cận một văn bản văn học
chúng ta có nhiều con đường đi khác nhau. Nhà trường THPT có vai trò to lớn
tạo ra một công chúng yêu văn học, một lớp người đọc có văn hóa.
Nhưng qua thực tế giảng dạy ở các năm gần đây chúng ta đều nhận ra rằng
học sinh hiện nay không còn yêu thích môn văn học và thi cử chỉ mang tính chất
đối phó, học cho qua và học cho xong không đi sâu và giá trị văn chương và
những tư tưởng tình cảm tốt đẹp đẻ từ đó hình thành nên kĩ năng sống trong mỗi
chúng ta. Đứng trước thực trạng đó là giáo viên trực tiếp tham gia giảng daỵ tôi
muốn các các em trước khi có một bài học trên lớp thì các em phải đọc bài và
chuẩn bị bài ở nhà thật kĩ đến lớp các em phải là người làm chủ kiến thức chứ
không thụ động.
Bên cạnh đó thể loại truyện ngắn là một trong số thể loại các em rất ngại đọc
các em học sinh hiện nay bị chi phối rất nhiều vấn đề của xã hội và luôn luôn
trong tình trạng học tác phẩm mà không đọc tác phẩm Và trong đề tài này tác
phẩm mà tôi lấy làm nghiên cứu áp dụng là tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm có giá trị nhưng nếu các em không có sự
chuẩn bị bài ở nhà thì việc tiệp nhận tác phẩm không đạt kết quả.
Để nâng cao hiệu quả của việc một của tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn
tôi đã hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở nhà thông qua việc đọc tác phẩm và thực
hiện những hướng dẫn tôi giao cho học sinh, để tạo hướng thú các em tiếp cận
và thêm yêu văn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Theo Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “ Dạy văn trước hết là dạy đọc văn”. Dạy
học một tác phẩm văn chương trước hết là dạy cho các em yêu và thích đã sau đó
mới dạy các em học. Để yêu và thích thì các em phải đọc tác phẩm, trước hết đọc
để biết, đọc để có kiến thức và sau cùng là đọc để hình thành nên kĩ năng sống. Ở
bất kì một tác phẩm văn học nào ta đều tiếp cân với ba cấp độ như thế này.
Trong đề tài SKKN này, tôi đã nghiên cứu đưa ra cho học sinh khi các em
đọc một tác phẩm phải phân chia theo ba cấp độ dể các em có cái nhìn tổng quát
và học tốt bài trên lớp khi đã có định hướng sẵn ở nhà.
1.3. Đối tượng nhiên cứu
Trong quá trình giảng dạy từ chương trình lớp 10, 11, 12 có rất nhiều tác
phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, nhưng trong đề tài này tôi đặc biệt chú trọng
1
chương trình lớp 12 và tôi lấy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu là một minh chứng cho việc đã có sự trải nghiệm về đề tài.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên tương quan về mặt thể loại tôi đã đưa ra phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thể nghiệm
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng hợp.
2
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong vấn đề giáo dục nói chung và việc tự học nói riêng có một vai trò hết
sức quan trọng. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng và củng cố và ghi nhớ
bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu. Từ
đó có khả năng vận dụng tri thức đã học vào giải quyét những nhiệm vụ học tập
mới. Đồng thời tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập, tự
giác trong học tập cũng như nền nếp làm việc khoa học. Từ đó quyết định sự
phát triển của phẩm chất, nhân cách và quyết định chất lượng học tập của học
sinh.
Tự học giữ một vai trò to lớn trong việc tiếp thu tri thức của học sinh. Tự
học với sự nỗ lực tư duy sáng tạo đã tạo ra điều kiện cho tìm hiểu tri thức một
cách sâu sắc, hiểu rõ hơn bản chất của chân lí. Trong quá trình tự học học sinh
gặp phải vấn đề mới và việc đi tìm giải pháp cho vấn đề là cách tốt nhất kích
thích trí tuệ cho học sinh. Theo Aditxerre: “ Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo
viên mà thôi thì dù nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo việc lĩnh
hội tri thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự, lĩnh hội chân lí cái đó
phải tự mình làm lấy bằng trí tuệ của bản thân”.[1]
Vì vậy, việc định hướng cho các em tự học đó là việc làm rất cần thiết, phù
hợp với nhu cầu của xã hội bởi: “ Tự học là một quá trình tự bản thân người học
thu thập thông tin, xử lí thông tin để biến kiến thức của sách vở trở thành kiến
thức của mình”[2]. Vậy với bản thân giáo viên muốn phát huy tính tự học của
học sinh phải đinh hướng học tích cực bằng phương pháp dạy học tích cực, lấy
học sinh làm trung tâm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học,
lấy học sinh làm trung tâm. Trong cách học này học sinh là chủ thể hoạt động,
giáo viên là người thiết kế tổ chức, hướng dẫn tạo nên sự tương tác tích cực giữa
người dạy và người học.
Văn bản truyện ngắn chiếm một số lượng lớn trong chương trình THPT. Tổng
số tiết của phần đọc hiểu văn bản là 167 tiết chiếm 50,2%. Trong số đó số tiết
giờ đọc truyện ngắn là 26 tiết chiếm 22%. Vì vậy, đọc hiểu truyện ngắn được sự
quan tâm của nhiều giáo viên và học sinh trong nhà trường. Trong quá trình dạy
học phần đông giáo viên đều gặp khó khăn khi học và dạy thể loại này bởi nó
mang một đặc trưng riêng như: tình huống truyện, cốt truyện, nhân vật, ngôn
ngữ.
Vì thế, để hướng dẫn các em biết tự học , thích đọc một tác phẩm văn học
trước khi tìm hiểu đó là một khó khăn đối với xu hướng học môn Ngữ văn như
bây giờ. Bởi vì để chuẩn bị bài, đọc bài ở nhà là khó xảy ra nếu như các em
không được các thầy cô giáo yêu cầu trực tiếp. Các em chỉ chuẩn bị nhà mang
tính đối phó, chép cho đủ. Học sinh không ý thức được rằng khi đọc một tác
phẩm văn học trước khi tìm hiểu có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Yêu cầu đầu
tiên với các em học sinh khi đọc tác phẩm văn học là phải nắm được kiến thức
hàn lâm cơ bản nhất và sau đó mới đi vào những nội dung cơ bản chi tiết hàm
3
ẩn vốn có của nó, bước cuối cùng của nó các em phải đọc tác phẩm hình thành
kĩ năng sống cho chính bản thân. Và đặc biệt là trong một văn bản truyện ngắn
việc tự học, tự đọc, tự tìm hiểu trước là khó với thời đại công nghệ thông tin như
hiện nay.
2.2. Thực trạng nghiên cứu vấn đề
Trong thực tế giảng dạy chương trình Ngữ văn nói chung, chương trình
Ngữ văn 12 nói riêng , chúng tôi luôn nhận thức được việc chuẩn bị bài dựa vào
sách giáo khoa là yêu cầu thiết yếu nhất nhưng cả giáo viên và học sinh đều gặp
một số khó khăn sau:
1. Đối với giáo viên
- Ở một số bài, do phân phối thời gian chưa hợp lí nên phần củng cố và dặn dò
còn qua loa đại khái.
- Hoặc có hướng dẫn cho học sinh nhưng còn sơ sài ví dụ như: học theo câu hỏi
sách giáo khoa, xem bài tiếp theo …
- Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa định
hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược.
2. Đối với học sinh
Học sinh về nhà có sử dụng soạn bài nhưng không hiệu quả, không biết chổ
nào là quan trọng. Vì vậy các em khó nắm bắt kiến thức một cách cụ thể, có
trình tự, do đó gây cho các em cảm giác lười, không tự tìm tòi kiến thức mới,
không học bài cũ, luôn ỷ lại và chờ đợi vào bài giảng của giáo viên để chép. Ở
nhà không chuẩn bị bài, trên lớp cô lại giảng với lượng kiến thức nhiều, cô nói
điều gì trò cũng cảm thấy mới tinh cho nên có em thì cắm cúi chép bài mà
không nghe giảng, có em mệt quá thiếu tập trung, không ghi bài thậm chí nghịch
phá. Kết quả không cao đã đành, các em càng ngày càng thấy chán học môn
văn.
Theo kết quả khảo sát ở một số lớp học, tôi thu được kết quả đáng lo ngại,
mặc dù đã có sự hướng dẫn, động viên khích lệ nhưng việc tự đọc, tự học không
được chú trọng, văn hóa nghe nhìn chiếm tỉ lệ trên 85%, học sinh có thể dành
nhiều thời gian để xem một bộ phim, thức thâu đêm để chơi game nhưng khi
được giao bài học sinh không làm, có chăng chỉ mang tính chất đối phó.
Mặt khác các em chỉ quan tâm học các môn tự nhiên để thi khối A hoặc B
hoặc có học chỉ để xét thi trung học phổ thông quốc gia để xét tốt nghiệp, tỉ lệ
thi khối C ít học sinh chỉ học vẹt, hoặc lạm dụng tài liệu tham khảo hoàn thiện
bài cho cô.
Một bộ phận không nhỏ học sinh học sinh không thích học môn Ngữ văn,
yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương, hoặc trình bày về một vấn đề nào đó
gây bi quan với dư luận xã hội mà còn tác động tiêu cực đến người dạy. Nhiều
thầy cô giáo chán nản, buông xuôi không có động lực trao dồi chuyên môn: Môn
Văn thực sự có “lửa” khi có sự hợp tác giữa thầy và trò
4
Bên cạnh đó có sự xâm lấn bành trướng của nhiều loại hình giải trí đã tiêu tốn
khá nhiều thời gian không nhỏ của mỗi học sinh cho nên học sinh không có thời
gian để tiếp cận tác phẩm ngẫm ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học.
Với phương pháp dạy văn theo lối thuyết giảng một chiều đã áp đặt kiến thức
của bộ phận giáo viên hiện nay đã làm triệt tiêu tính sáng tạo, tính chủ động của
học sinh trong việc tiếp cận những tác phẩm có giá trị.
Kết quả thực trạng nghiên cứu
Trong năm học 2017 – 2018, tôi được phân công dạy hai lớp: 12A2, 12A5 tôi đã
khảo sát học sinh như sau:
Lớp/ sĩ số
Đã đọc bài ở nhà
Chưa đọc bài ở nhà
Đã soạn bài
12A2/ 37
2/ 37
35/37
36/37
12A5/ 35
3/ 35
32/35
33/35
Từ kết quả khảo sát trên, tôi đã có cách đổi mới trong quá trình dạy học, tìm
ra biện pháp khắc bằng cách định hướng các em chuẩn bị bài ở nhà theo hệ
thống đã cho sẵn tạo sự hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, lĩnh hội được tác phẩm văn học rất gần vời hoàn cảnh sống của các
em nêu cao tinh thần tự học.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1 Hình thành kỹ năng đọc, trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa
Tri thức được đưa vào sách giáo khoa có tính tinh giản, cô đọng, súc tích
phong phú. Để giúp học sinh có phương pháp tự học, tự nghiên cứu, giáo viên
cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc với sách
giáo khoa, tập trung các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình lĩnh
hội tri thức.
Khi đọc sách giáo khoa, học sinh cần thực hiện các công việc sau: Đọc âm
vang và cả đọc thầm để tưởng tượng; đọc và ghi lại những cảm nhận, những ấn
tượng ban đầu về tác phẩm; đọc để tìm nội dung chính, xác định những kiến
thức cơ bản trọng tâm.
Với công việc soạn bài, trước hết và quan trọng nhất vẫn là trả lời câu hỏi ở
phần Hướng dẫn học bài; trong đó hướng vào những ý trọng tâm, câu hỏi trọng
tâm. Điều này rất có ích trong việc đọc văn bản trên lớp.
Muốn làm được điều này giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước.
Đối với mỗi tác phẩm truyện ngắn đọc để nắm bắt kiến thức ban đầu quan trọng
giúp học sinh có cái nhìn nhận ban đầu và làm quen với tác phẩm. Với bước 1
này tôi đưa ra hệ thống câu hỏi ở 3 cấp độ, từ kiến thức cơ bản đến khái quát
trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Ở cấp độ nhận biết, tôi cung cấp cho các em các câu hỏi như sau:
Câu 1: Nêu những nét chính về tác giả Nguyễn Minh Châu. Nội dung văn
học mà ông quan tâm?.
Câu 2: Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
Câu 3: Tác phẩm được rút ra trong tập truyện nào? Thể loại?
5
Câu 4: Phương thức biểu đạt chính của tác phẩm? Truyện được kể ngôi thứ
mấy? Ai kể?
- Ở cấp độ thông hiểu: Khi các đọc tác phẩm, tôi hướng dẫn học sinh trả
lời một số câu hỏi xem các em hiểu tác phẩm đến đâu.
Câu 1: Bố cục văn bản có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung của từng phần.
Câu 2: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng phát hiện được điều gì khi đến bãi biển?
Câu 3: Vì Sao người đàn bà hàng chài lại xin với chán án Đẩu đừng bắt bà
bỏ chồng.
Câu 4: Nghệ thuật đặc sắc mà em rút ra được là gì?
- Ở cấp độ vận dụng: Tôi giúp học sinh bằng cách đưa ra hệ thống câu hỏi mà
phần trả lời không có trong sách giáo khoa mà các em phải trực tiếp suy luận.
Câu 1: Khi chứng kiến cảnh đối ngược ở bãi biển qua sự khám phá của nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng gợi cho suy nghĩ gì?
Câu 2: Tại sao người đàn ông trong tác phẩm lại đánh vợ một cách vô cớ như
vậy ?
Câu 3: Với những trận đòn roi “ năm ngày một trận nặng, ba ngày một trận
nhẹ” nhưng người đàn bà dứt khoát không bỏ chồng?
Câu 4: Phùng và Đẩu rút ra được bài học gì về câu chuyện người đàn bà hàng
chài?
2.3.2 Hình thành kỹ năng lập sơ đồ tư duy, dàn ý khái quát bài học
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ tư duy, thành
dàn ý theo suy nghĩ của mình. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế nào là phụ
thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người.
Một số cách ghi tóm tắt học sinh có thể dùng trong khi học môn Ngữ văn như:
Trình bày dưới dạng dàn bài; trình bày dưới dạng bảng biểu; trình bày dưới dạng
sơ đồ tư duy.
Với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu), tôi đã
định hướng và yêu cầu học sinh lập một số sơ đồ tư duy sau:
6
Sơ đồ 1: Phát hiện 1: Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp
Sơ đồ 2: Phát hiện 2: Bức tranh cuộc sống
7
Sơ đồ 3: Hình tượng người đàn bà hàng chài
Với những gợi ý trên, tôi đã thu được rất nhiều ý kiến. Chẳng hạn, một số
sơ đồ tư duy sau:
2.3.3. Hình thành nhóm học tập và rèn luyện kĩ năng hợp tác nhóm
Sau kết thúc một giờ học, tôi thường dặn dò học sinh về nhà học bài và
chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. Vì vậy, tổ chức phân công vấn đề cho
học sinh chuẩn bị trước là bước đệm rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả.
Để làm việc này có chất lượng tôi đã thực hiện những bước sau: chuẩn bị
trước các vấn đề; chia nhóm; phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm. ( Tôi
thường dành khoảng 5 phút cuối mỗi giờ học để làm việc này.)
Chẳng hạn khi dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu,
ngoài việc học sinh chuẩn bị bài theo phần hướng dẫn trong sách giáo khoa, giáo
viên có thể chuẩn bị trước các vấn đề sau giao cho học sinh và yêu cầu mỗi
nhóm phải chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình:
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm đều có nhóm trưởng, nhóm
phó để đôn đốc các thành viên và chịu trách nhiệm chung cho cả nhóm của
mình.
Nhóm 1: Đọc tác phẩm và trả lời toàn bộ phần câu hỏi của bước 1: Các
cấp độ của câu hỏi
Nhóm 2: Thực hiện vẽ sơ đồ tư duy theo mẫu đã có sẵn
Nhóm 3:Thực hiện yêu cầu ở phần thực hành kĩ năng sống: vẽ tranh và
cách ứng xử trước các tình huống.
Yêu cầu về thời gian: 3 ngày.
Nếu làm công việc này một cách đều đặn và tâm huyết thì khả năng tự
học tự nghiên cứu của học sinh sẽ được nâng cao. Đây cũng là một trong những
hình thức tốt để nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn chương ở trường phổ
thông.
Ưu điểm của cách làm này là tiết kiệm thời gian khi lên lớp, phát huy
được cách học hợp tác, vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách
sâu sắc hơn.
8
Tuy nhiên, điều quan trọng khi thực hiện điều này, giáo viên phải nắm sát đối
tượng để khuyến khích, động viên một cách kịp thời, chân thành kể cả học sinh
làm tốt và học sinh chưa làm tốt
2.3.4. Hình thành kĩ năng sống qua tác phẩm
Để góp phần giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua việc đọc tác phẩm và
chuẩn bị bài ở nhà thể hiện cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống đa
dạng của cuộc sống, mặt khác kỹ năng sống qua việc đối thoại vơí người đọc để
đọc được vận hành tốt hơn.
Tôi yêu cầu học sinh ở nhà chuẩn bị một số vấn đề sau:
1. Khuyến khích học sinh có năng khiếu hội họa vẽ hai phát hiện của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, cơ hội phát hiện và phát triển tài năng của học sinh.
Với yêu cầu này, chúng tôi nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các em,
đó là những bức tranh được phác họa theo trí tưởng tượng của các em. Mặc dù
không được đẹp nhưng rõ ràng các em đã bắt đầu nắm bắt được nội dung của
văn bản.
9
Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó bồng bềnh trên mặt biển mù sương
Cảnh bạo hành gia đình
2. Qua đọc tác phẩm học sinh thấy được ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với
đời sống hiện thực và trăn trở trước vấn đề nóng bỏng của hiện thực cuộc sống.
3. Em rút ra được kĩ năng sống gì thông qua tình huống truyện.
4. Điểm nhìn trần thuật và nghệ thuật trong câu chuyện giúp em điều gì về
nhìn nhận cuộc sống và nghệ thuật.
5. Khi đọc một tác phẩm văn học em cần phải nắm bắt được gì?
2.3.5. Sưu tầm, khai thác nguồn tài liệu học tập
Ngoài sách giáo khoa, tài liệu học tập cho môn Ngữ văn vô cùng phong phú.
Đây là phương tiện rất cần thiết đối với người học văn.
Ngoài các loại sách tham khảo, học sinh có thể tìm thấy những tài liệu về văn
học trên các báo, tạp chí văn học, internet…
Để giúp học sinh tìm và sử dụng tài liệu vào việc chuẩn bị bài cho giờ đọc
Văn, giáo viên cần giới thiệu cụ thể tên sách tham khảo, các bài viết, tài liệu có
liên quan trực tiếp đến bài học; hướng dẫn học sinh tìm sách, tài liệu tham khảo
ở thư viện trường, nhà sách trên địa bàn, ở thầy cô giáo…
Giáo viên cũng có thể cung cấp cho học sinh một số địa chỉ trên mạng
internet để tự tìm tài liệu, sử dụng trong học tập.
Sau đó, hướng dẫn học sinh xử lí tài liệu bằng cách: Đọc kĩ, tóm tắt ý chính,
tách nội dung liên quan để minh họa cho bài học.
Tóm lại, để giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn trong nhà trường THPT, giáo
viên phải hướng dẫn, và quan trọng hơn là xây dựng ở các em ý thức, thói quen
đi tìm tài liệu liên quan đến bài học.
10
Điều này rất quan trọng đối với việc bổ trợ thêm kiến thức, bồi dưỡng niềm
say mê đọc sách, rèn luyện tác phong làm việc nghiêm túc khoa học cho học
sinh khi đứng trước một vấn đề cần giải quyết.
2.3.6. Đánh giá và kiểm tra kết quả của học sinh
Để đánh giá kết quả chuẩn bị bài cuả học sinh, tôi thu bài và chấm chữa cụ
thể. Kết quả của sản phẩm được cụ thể bằng bảng đánh giá sau:
Nhóm Công việc được giao Chất lượng sản phẩm
Kết quả thu nhận
1
2
3
- Giáo viên thu bài học sinh về kiểm tra
- Vào hôm có tiết, có bài giáo viên trả cho học sinh để trực tiếp ứng dụng
bài học trực tiếp.
- Cho điểm, khen, chê, phê bình.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với giáo viên:
- Tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách học hợp tác, vấn
đề trọng tâm của bài được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn.
- Nắm sát, đúng với từng đối tượng, phát hiện kịp thời học sinh chăm chỉ
hoặc chây lười, để khuyến khích, động viên kịp thời.
- Giáo viên tạo cho mình tính sáng tạo và chủ động trong việc truyền đạt kiến
thức.
* Đối với học sinh:
- Tích cực đọc tác phẩm, sưu tầm nghiên cứu, tham khảo tài liệu.
- Việc đọc bài và chuẩn bị bài ở nhà là rất tốt sẽ giúp cho các em học sinh có
thêm kiến thức, bồi dưỡng niềm say mê đọc sách, rèn luyện tác phong nghiên
cứu khoa học cho học sinh đứng trước một vấn đề cần giải quyết.
- Thêm yêu môn, thực sự yêu thích văn học đã một phần nào đó giải quyết
được tình trạng ngại học văn của học sinh hiện nay.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Ý nghĩa của đề tài với công tác
11
Xã hội càng phát triển đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo và có khả
năng giải quyết những tình huống có vấn đề cuộc sống đặt ra. Môn Ngữ văn
trong nhà trường là một trong những môn có khả năng giúp học sinh hình thành
rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo và giải quyết vấn đề.
Để học sinh học tốt môn học học này đặc biệt với thể loại truyện ngắn giáo viên
phải tạo ra hứng thú, lấy học sinh làm trung tâm, gợi cho học sinh thích học,
thích đọc, thích khám phá, tìm tòi và qua đó góp phần giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh.
Đặc biệt với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, đây là
tác phẩm hay mang lại cho người đọc nhiều giá trị, nhưng lại thuộc thể loại
truyện ngắn, với thể loại này các em cũng rất ngại đọc ở nhà, với thời lượng trên
lớp hạn chế nên người dạy cần phải khai thác thời gian nhàn rỗi của học sinh ở
nhà, tạo nền nếp tích cực cho môn Văn và các môn học khác.
1.2 Khả năng áp dụng
Với hình thức học như thế này bản thân tôi thấy có thể áp dụng được trong
môn Ngữ văn gắn liền với các thể loại văn học như: Truyện ngắn, Tiểu thuyết,
Kịch…
Kết quả thực nghiệm
Lớp/ sĩ số
Đã đọc bài ở nhà
Chưa đọc bài ở nhà
Thích học
12A2/ 37
35/ 37
2/37
34/37
12A8/ 35
30/ 35
5/ 35
33/35
1.3. Kinh nghiệm thực hiện trong thời gian qua
Một là: Có thể áp dụng vào một số thể lọai như: Truyện, Kí, Kịch….và đã
thu nhận được kết quả đáng mừng trong học tập.
Hai là: Cần dạy học “ cá biệt hóa đối tượng” khi vận dụng hình thức, hướng
dẫn học sinh làm bài ở nhà đặc biệt với học sinh nông thôn sẽ gặp nhiều khó
khăn, sẽ không đáp ứng được nhu cầu nên giáo viên phải hướng dẫn tìm hiểu,
giúp đỡ kịp thời.
Ba là: Giáo viên phải dành nhiều thời gian hướng dẫn cho học sinh tự học và
tạo cơ hội cho học sinh thể hiện kết quả tự học của mình. Bên cạnh đó cần phải
có sự khen chê kịp thời, kích động tinh thần học tập của học sinh đối với học
sinh chây lười.
2. Kiến nghị
- Đối với giáo viên chủ nhiệm:
Cần có sự phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc giáo dục ý thức học
sinh học bài ở nhà, kiểm tra, nhắc nhở kịp thời.
Trong tiết sinh hoạt – tổng kết tuần cần phải quan tâm đến việc tự học của
học sinh, nhất là học sinh trung bình, yếu, kém.
- Đối với tổ bộ môn:
Cần tổ chức chuyên đề về ý thức tự học của học sinh, nhất là học sinh học
yếu, kém, tạo điều kiện cho các em chuẩn bị bài tốt hơn.
12
Cần tổ chức, tổng kết rút kinh nghiệm các hình thức giúp học sinh học tập ở
nhà, phổ biến giáo viên vận dụng.
- Đối với nhà trường:
Nên tạo điều kiện về cơ sở vật chất, bố trí mỗi phòng học một máy chiếu để
giáo viên và học sinh có điều kiện thực hiện tốt tiết học và sử dụng kết quả học
của bài ở nhà của học sinh tốt hơn.
Tăng cường đầu sách tham khảo cho học sinh tại thư viện trường để học sinh
có thể tự đọc và khai thác văn bản văn học.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Mai Thị Hiền
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Châu, Truyện ngắn, Nxb Văn học 2003.
2. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương, Nxb Giáo
dục, 2009.
3. Đặng Thành Hưng, Bản chất và điều kiện của việc tự học – Tạp chí KHGD
số 78/ 2012.
4. Nguyễn Cảnh Toàn ( Chủ biên) 2004, Học và dạy cách học Nxb Đại học sư
phạm.
5. Hoàng Phê ( chủ biên), Từ điển Tiếng Việt NXB Khoa học xã hội.
6. Nghị quyết TW 04 ( khóa VII), Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và
đào tạo – Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam.
7. Phan Trọng Luận ( Chủ biên) 2016, Ngữ văn 12 ( tập 2), Nxb Giáo dục Việt
Nam.
8. Phan Trọng Luận ( Chủ biên), Phương pháp dạy học văn ( Tập 1) Nxb Đại
học Sư phạm.
9. Đỗ Ngọc Thống ( 2004) “ Đổi mới căn bản và toàn diện chương trình Ngữ
văn”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh
10. Tài liệu Internet
- Nguồn Internet [ 1]
- Nguồn Internet [2]
14