§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
Lời mở đầu
Xu hướng hội nhập theo cơ chế thị trường, kiểm toán hình thành và phát triển
mạnh mẽ là một nhu cầu tất yếu khách quan. Kiểm toán ngày càng khẳng định vị trí,
vai trò to lớn trong quản lý kinh tế - tài chính cả tầm vĩ mô và vi mô. Kiểm toán với
tư cách là công cụ thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế nhằm cung cấp
những thông tin đúng đắn, trung thực, khách quan, tin cậy. Với chức năng của mình,
kiểm toán ngày càng góp phần làm trong sạch và lành mạnh hoá nền kinh tế. Kiểm
toán được ví như “Quan toà công minh của quá khứ, người dẫn dắt cho hiện tại, và
người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với thông tin và chất lượng hoạt động
kiểm toán độc lập khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, tăng niềm tin của
khách hàng, cũng để đảm bảo uy tín nghề nghiệp cho Công ty kiểm toán khi cung
cấp dịch vụ của mình: Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ra đời là
một vấn đề vô cùng cấp bách và cần thiết.
Hiện nay ở Việt Nam, kiểm toán độc lập là hoạt động khá non trẻ, hành lang pháp
lý còn đang từng bước được hoàn thiện. Nhà nước ta ban hành chưa đầy đủ các chuẩn
mực kiểm toán về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, đồng thời cơ chế kiểm soát
chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập chưa có quy định rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên hoạt
động này ở các Công ty kiểm toán độc lập chưa được thực hiện hoặc nếu có chỉ mang
tính hình thức. Vì vậy, các Công ty kiểm toán độc lập cần tổ chức xây dựng hoàn thiện
hệ thống kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cho mình nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng kiểm toán và dịch vụ cung cấp.
Đó là những lý do em chọn đề tài: “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán ở Việt Nam” cho đề án chuyên nghành của mình.
Em hy vọng đề án này sẽ góp phần hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn cho
công tác tổ chức và xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng tại các Công ty kiểm
toán độc lập ở Việt Nam .
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kiểm soát chất lượng hoạt kiểm toán độc lập
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập
tại Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao công tác kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
1
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT
LƯỢNGHOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1. Tổng quan về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán:
Kiểm toán là một hoạt động đã có lâu đời kể từ thời kỳ thông tin được phê
chuẩn bằng cách đọc lên trong buổi họp công khai. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, sự ra đời của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán đã dẫn đến sự tách
rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý. Từ đó, xuất hiện nhu cầu cần kiểm tra của
người chủ sở hữu để chống lại sự gian lận của người quản lý lẫn người làm công.
Kiểm toán độc lập đã ra đời vào thế kỷ 18 nhằm đáp ứng cho nhu cầu này. Đến thế
kỷ 19, với việc bành trướng thuộc địa của Anh đã kéo theo sự mở rộng đầu tư của
các nhà tư bản Anh sang các quốc gia thuộc địa. Do sự cách trở về địa lý nên các
nhà đầu tư cần có người giám sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, nhiệm vụ này
đã được trao cho các kiểm toán viên. Trong thời kỳ này, để tăng độ tin cậy vào kiểm
toán viên, các nhà đầu tư Anh chỉ cấm kiểm toán viên làm việc cho công ty được
kiểm toán hơn là chú trọng vào chất lượng của các cuộc kiểm toán do kiểm toán
viên thực hiện.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, do có sự dịch chuyển vốn từ quốc gia này
sang quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ,
đường sắt, nhiên liệu,... đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục đích, bản
chất và nguồn vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó nhiệm vụ của kiểm toán viên
chuyển sang phục vụ cho cổ đông trong cộng đồng nhiều hơn là lợi ích của người
chủ sở hữu vắng mặt. Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa
phương, mà thường là các ngân hàng lớn hay các nhà đầu tư lớn và nhóm này ngày
càng gia tăng. Chính nhóm cổ đông này đã làm thay đổi quan điểm về chất lượng
của hoạt động kiểm toán, vì họ mong muốn rằng những thông tin mà họ nhận được
từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán mang tính trung thực và khách quan cao.
Chính vì thế, vào thời gian này các công ty kiểm toán bắt đầu chú trọng đến công 9
tác kiểm soát chất lượng hoạt động của mình với mục tiêu là đem đến cho người sử
dụng những thông tin có chất lượng tốt nhất.
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, yêu cầu của xã hội đối với kiểm toán
ngày càng cao. Kiểm soát chất lượng ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu
của nghề nghiệp.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
2
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
1.1.1. Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán
Chất lượng luôn là sự thách thức, là mối quan tâm hàng đầu mà bất cứ tổ chức
nào đều phải đối mặt trong lĩnh vực hoạt động của mình. Dưới những góc nhìn khác
nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về chất lượng:
- Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của con
người, của một sự vật, sự việc”.
- Theo định nghĩa của tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5200-ISO 9000 thì “chất lượng
là mức độ phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc
định trước của người mua”.
Một sản phẩm có tồn tại được là nhờ chất lượng. Kiểm toán là một ngành
cung cấp dịch vụ với mục đích nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị.
Do vậy, tương tự như các ngành nghề khác, kiểm toán chỉ có thể tồn tại khi cung
cấp dịch vụ có chất lượng cao, được người sử dụng tin cậy. Chất lượng kiểm toán
được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220 - Kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán): “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thỏa mãn
của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý
kiến kiểm toán của kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong muốn của đơn vị
được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý.” Như vậy,
chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ:
- Mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn đối với tính khách quan và độ tin cậy
của kết quả kiểm toán;
- Mức độ đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh;
- Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp
đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý.
Do vậy, muốn nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán đòi hỏi phải có sự
kiểm soát chất lượng. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là một bộ phận cấu
thành trong quy trình thực hiện dịch vụ kiểm toán nhằm cung cấp dịch vụ với chất
lượng cao. Nó là một quá trình trong đó công ty kiểm toán thực hiện nhiều thủ tục
như hướng dẫn, giao việc, giám sát, kiểm tra công việc mà các kiểm toán viên thực
hiện và kiểm tra các nhận xét, kết luận của nhóm kiểm toán trước khi phát hành báo
cáo kiểm toán.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
3
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
1.1.2. Các cấp độ của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Chất lượng kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra uy tín của
các công ty kiểm toán nói riêng và uy tín nghề nghiệp nói chung của mỗi một quốc
gia. Vì vậy, ngoài việc chịu sự kiểm soát của hệ thống kiểm soát chất lượng ngay
trong bản thân công ty, chất lượng kiểm toán còn chịu sự kiểm tra từ bên ngoài của
các cơ quan chức năng, hội nghề nghiệp và các công ty kiểm toán khác.
1.1.2.1. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên trong
Tùy vào quy mô và năng lực, mỗi công ty kiểm toán tự xây dựng một quy
trình kiểm soát chất lượng phù hợp, nhưng nhìn chung quy trình kiểm soát chất
lượng bao gồm các giai đoạn sau: Đánh giá khách hàng trong giai đoạn chấp nhận
khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ, kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán để
nâng cao chất lượng thực hiện kiểm toán, đánh giá sự hài lòng của khách hàng.
1.1.2.2. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên ngoài
Để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, các quốc gia luôn có các tổ chức
độc lập để tiến hành soát xét lại dịch vụ mà các công ty kiểm toán đã cung cấp cho
khách hàng. Tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị và yêu cầu quản lý của từng quốc
gia mà chủ thể kiểm soát độc lập đó có thể là các công ty kiểm toán khác, hội nghề
nghiệp hoặc cơ quan nhà nước phụ trách về kế toán, kiểm toán thực hiện công tác
kiểm soát chất lượng từ bên ngoài. Mặc dù, các chủ thể kiểm soát có thể khác nhau
nhưng nhìn chung quy trình và thủ tục kiểm soát chất lượng từ bên ngoài được thực
hiện qua các giai đoạn: Chuẩn bị kiểm soát, thực hiện kiểm soát, phát hành báo cáo
kiểm soát, theo dõi sau kiểm soát.
Công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài nhằm mục tiêu:
- Giúp cho các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng liên quan kiểm soát việc xây
dựng và thực hiện các chính sách, thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán của các
công ty kiểm toán độc lập có được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán
từ đó đề xuất các biện pháp thích hợp;
- Giúp cho các công ty kiểm toán kịp thời khắc phục những sai sót, tồn tại trong
quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán, cũng như tìm ra nguyên nhân và hoàn
thiện các phương pháp, kỹ năng làm việc của các kiểm toán viên nhằm góp phần
hoàn thiện quy trình nghiệp vụ đem lại một dịch vụ kiểm toán có chất
lượng cao cho người sử dụng.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
4
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
1.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế
1.2.1. Lịch sử phát triển chuẩn mực kiểm soát chất lượng
Nhằm phát triển và tăng cường phối hợp của ngành nghề một cách hài hòa
trên toàn thế giới, vào năm 1977 Liên đoàn các nhà kế toán quốc tế (IFAC) đã được
thành lập. Năm 1981, Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) trực thuộc IFAC
đã ban hành Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế. Trong các nguyên tắc chỉ đạo
kiểm toán quốc tế, có nguyên tắc số 7 bàn về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán. Nguyên tắc này đưa ra hướng dẫn về những phương pháp mà công ty kiểm
toán áp dụng nhằm kiểm soát các công việc ủy thác cho các trợ lý trong một cuộc
kiểm toán; những qui chế, các bước công việc mà một công ty kiểm toán cần thiết
lập để đảm bảo chất lượng kiểm toán như :
- Giao việc: công việc kiểm toán phải được giao cho kiểm toán viên có đầy đủ năng
lực và trình độ; kiểm toán viên phải xem xét kỹ năng và trình độ của các trợ lý trong
quá trình làm việc để xác định phạm vi hướng dẫn, giám sát và soát xét lại.
- Hướng dẫn: những trợ lý được giao việc đều phải được hướng dẫn cặn kẽ. Việc
hướng dẫn bao gồm: thông báo cho họ về trách nhiệm, mục đích, các bước công
việc cần thực hiện và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, những vấn đề cần
lưu ý khi thực hiện công việc kiểm toán.
- Giám sát: trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán cán bộ phụ trách giám sát
nhằm bảo đảm rằng: các trợ lý tỏ ra có đầy đủ kỹ năng, trình độ nghiệp vụ để thực
hiện công việc mà mình được giao; các trợ lý hiểu rõ các hướng dẫn kiểm toán. Tiến
hành giải quyết sự khác nhau về mặt xét đoán nghiệp vụ giữa các cán bộ cùng tham
gia cuộc kiểm toán.
- Soát xét lại: các phần việc do các trợ lý thực hiện cần phải được người thứ hai có
trình độ tương đương hoặc cao hơn soát xét lại. Trong một cuộc kiểm toán có thể
xác định các giai đoạn soát xét chính sau: Soát xét kế hoạch kiểm toán và chương
trình kiểm toán ban đầu; Soát xét việc nghiên cứu và đánh giá các quy chế kiểm
soát nội bộ kể cả các phương pháp tuân thủ; Soát xét các bằng chứng kiểm toán đã
thu thập được và các kết luận rút ra từ bằng chứng này; Soát xét báo cáo tài chính
và dự thảo báo cáo kiểm toán.
- Kiểm tra chất lượng nói chung: kiểm tra chất lượng là quy chế các bước
công việc mà các hãng kiểm toán phải làm theo để có các cam kết hợp lý rằng mọi
phần việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty kiểm toán đã thực hiện là phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán. Nội dung và phạm vi của các thủ tục kiểm tra
chất lượng tùy thuộc vào các yếu tố như quy mô và loại hình hành nghề, địa bàn
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
5
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
hoạt động, cơ cấu tổ chức, chi phí thích hợp và sự cân nhắc về lợi ích của công ty
kiểm toán.
Đến năm 1994, IAPC đã sửa đổi các nguyên tắc thực hành kiểm toán quốc tế
và ban hành chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 (ISA 220 - Kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán).
Cuối thế kỷ 20, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển thị trường tài chính
quốc tế đã làm tăng nhu cầu thông tin phục vụ cho các nhà đầu tư. Sự phát triển của
công nghệ thông tin đòi hỏi việc kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các hệ thống và quy
trình liên quan đến thông tin. Các thay đổi này dẫn đến sự hình thành hàng loạt nhu
cầu xã hội đối với việc nâng cao chất lượng thông tin. Cũng trong thời gian này, sự
sụp đổ hàng loạt các công ty hàng đầu trên thế giới như Enron, Worlcom,... trong đó
có lỗi của công ty kiểm toán. Sự sụp đổ và thất bại trong các cuộc kiểm toán buộc
nghề nghiệp phải xem xét lại các chuẩn mực đã được ban hành. Vào năm 2002,
IFAC ban hành chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo có tên là ISAE100. Tầm quan trọng
của dịch vụ đảm bảo được thể hiện thông qua việc Ủy ban thực hành kiểm toán
quốc tế (IAPC) đổi tên thành Ủy ban quốc tế về chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ
đảm bảo (IAASB). Trong cấu trúc các chuẩn mực ban hành bởi IAASB, chuẩn mực
kiểm soát chất lượng quốc tế (ISCQ) được áp dụng cho tất cả các dịch vụ nằm trong
phạm vi quy định bởi IAASB và chuẩn mực ISA 220 “Kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán áp dụng cho kiểm toán các thông tin tài chính lịch sử”.
1.2.2. Nội dung của chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 hiện hành
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 hiện hành (có hiệu lực 15/02/2009) có
tên là Kiểm soát chất lượng cho các cuộc kiểm toán về thông tin tài chính lịch sử .
Chuẩn mực trình bày các nội dung cơ bản sau:
a. Mục đích của chuẩn mực là qui định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn
thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản trong việc kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán trên các phương diện:
- Các chính sách và thủ tục của công ty kiểm toán liên quan đến hoạt động kiểm
toán;
- Những thủ tục liên quan đến công việc được giao cho kiểm toán viên và trợ lý
kiểm toán trong một cuộc kiểm toán cụ thể.
b. Trách nhiệm của người lãnh đạo về chất lượng cuộc kiểm toán:
Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng phải chịu trách nhiệm chung về chất lượng
của hợp đồng kiểm toán mà họ phụ trách.
c. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp:
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
6
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
Cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp của công ty kiểm toán phải tuân thủ các
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp được quy định ở phần A và B của chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp do IFAC ban hành, gồm: chính trực, khách quan, năng lực chuyên
môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp.
d. Tính độc lập:
Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng kiểm toán cần đưa ra kết luận về sự tuân
thủ yêu cầu độc lập áp dụng cho cuộc kiểm toán phù hợp phần B của chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp do IFAC ban hành.
e. Chấp nhận khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ:
Chủ phần hùn phụ trách hợp đồng kiểm toán và các cam kết đặc biệt cần bảo
đảm rằng họ đã áp dụng thủ tục thích hợp trong việc chấp nhận khách hàng mới và
duy trì khách hàng cũ cũng như đã tài liệu hóa việc đánh giá này.
f. Chỉ định nhóm kiểm toán:
Công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên chuyên
nghiệp được đào tạo và có đầy đủ kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng được
yêu cầu thực tế.
g. Hướng dẫn và giám sát:
Công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ ở tất cả
các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo là công việc kiểm toán đã được thực hiện
phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan.
h. Tham khảo ý kiến: Khi cần thiết, chủ phần hùn phụ trách hợp đồng nên:
- Chịu trách nhiệm tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia trong công ty hoặc
ngoài công ty về các vấn đề phức tạp hay đang tranh tụng;
- Cần thỏa mãn rằng các thành viên nhận được sự tư vấn thích hợp;
- Thỏa mãn rằng bản chất, phạm vi, kết luận đạt được đều được tài liệu hóa và có
sự đồng ý của bên tư vấn;
- Xác định rằng kết luận từ việc tư vấn đã được thực hiện.
i. Khác biệt về ý kiến: Nếu có sự khác biệt ý kiến của nhóm kiểm toán với ý kiến
của người tư vấn, giữa chủ phần hùn phụ trách hợp đồng với người xét duyệt, nhóm
kiểm toán nên tuân thủ chính sách và các thủ tục giải quyết mâu thuẫn ý kiến của
công ty.
k. Soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng:
Đối với các cuộc kiểm toán cho các công ty niêm yết, chủ phần hùn nên:
- Chỉ định người soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng kiểm toán;
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
7
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
- Thảo luận các vấn đề phát sinh trong cuộc kiểm toán gồm cả những người được
chỉ định soát xét việc kiểm soát chất lượng hợp đồng;
- Dừng việc phát hành báo cáo cho đến khi thực hiện đầy đủ việc kiểm soát
chất lượng hợp đồng.
l. Giám sát:
Công ty cần thiết lập chính sách và thủ tục để cung cấp bảo đảm hợp lý rằng
chính sách thủ tục liên quan đến hệ thống kiểm soát là phù hợp, đầy đủ, hoạt động
hữu hiệu và áp dụng trong thực tế.
1.3. Bài học kinh nghiệm từ các mô hình kiểm soát chất lượng cho Việt Nam
Thông qua khảo sát mô hình kiểm soát chất lượng của các quốc gia trên thế
giới và chuẩn mực quốc tế, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
như sau:
1.3.1. Việc tiến hành kiểm soát chất lượng là yêu cầu tất yếu khách quan
Thực vậy, kiểm soát chất lượng là phương tiện để nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm toán. Bản chất của kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là việc rà
soát lại quá trình cung cấp các dịch vụ mà kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán đã
thực hiện có phù hợp các qui định của luật pháp và chuẩn mực nghề nghiệp hay
không và do vậy, nó là khâu không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
kiểm toán.
1.3.2. Vai trò của kiểm soát chất lượng đối với sự phát triển, hoàn thiện của nghề
nghiệp kiểm toán
Ngay từ khi ra đời cho đến những năm đầu thế kỷ 20, việc kiểm soát chất
lượng hoạt động kiểm toán chưa được quan tâm đúng mức. Những năm cuối thế kỷ
20, đầu thế kỷ 21, nhiều vụ gian lận về tài chính đã dẫn đến sự sụp đỗ của các tập
đoàn lớn trong đó có lỗi rất lớn của các công ty kiểm toán thì chất lượng kiểm toán
đã trở thành một nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại hay phá sản của một công
ty kiểm toán.
Lịch sử phát triển kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán cho thấy công tác
kiểm soát chất lượng là một bộ phận không thể thiếu trong tổng thể dịch vụ kiểm
toán. Nếu các chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên
tắc và thủ tục kiểm toán thì riêng các quy định của chuẩn mực kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán sẽ giúp nâng cao khả năng áp dụng các chuẩn mực này vào
thực tế .
Để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán, chất lượng dịch vụ kiểm toán phải ngày
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
8
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
càng được nâng cao. Có thể nói, công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
là một công cụ giúp tăng cường chất lượng các thông tin niêm yết trên thị trường
chứng khoán, từ đó góp phần ổn định và phát triển thị trường chứng khoán. Ngược
lại, nếu công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán không đáp ứng được với
sự phát triển của nền kinh tế và không đáp ứng được nhu cầu thông tin của công
chúng thì sẽ cản trở việc phát triển thị trường chứng khoán.
Hơn nữa nhờ có công tác kiểm soát chất lượng mà các nhà quản lý có thể nhận
thấy những yếu kém trong quy trình kiểm toán để từ đó có thể nhanh chóng đưa ra
những biện pháp giải quyết kịp thời, hạn chế được những hậu quả nghiêm trọng xảy
ra, luôn kiện toàn lại bộ máy tổ chức nhằm cung cấp cho khách hàng một dịch vụ
ngày càng tốt hơn. Qua đó, ta có thể thấy công tác kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển thị trường và
hoàn thiện nghề nghiệp kiểm toán.
1.3.3. Các cấp độ của hệ thống kiểm soát chất lượng
Hoa Kỳ và Pháp là hai quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời và phát triển.
Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán đều bao gồm hai cấp độ cơ bản sau:
1.3.3.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài
Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài thường bao gồm:
- Kiểm soát hệ thống: là việc xem xét cách thức tổ chức của công ty kiểm
toán, đánh giá tình hình tuân thủ các quy định của Nhà nước và Hội nghề nghiệp
trong quá trình hoạt động và cung cấp dịch vụ của công ty kiểm toán, đồng thời chỉ
ra được những điểm mạnh và những yếu kém trong các phương pháp và quy trình
kiểm toán của các công ty kiểm toán. Kiểm soát hệ thống được tiến hành dựa trên
cơ sở các quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp, do đó các kiểm soát viên phải dựa vào
các quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp để đánh giá xem phương pháp tổ chức của
công ty kiểm toán có cho phép thực hiện được các nghiệp vụ của mình một cách
hợp lý hay không.
- Kiểm soát kỹ thuật: là việc lựa chọn một số hồ sơ kiểm toán nhằm đánh giá
việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp. Việc chọn hồ sơ kiểm toán được dựa trên
cơ sở kết luận từ cuộc kiểm soát hệ thống, đặc biệt cần chú ý đến các điểm mạnh
yếu mà kiểm tra hệ thống đã chỉ ra, cũng như các chương trình do công ty kiểm toán
đảm nhận được tiến hành dựa trên các chuẩn mực và quy tắc hiện hành. Kiểm soát
kỹ thuật được tiến hành dựa trên các quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp có hiệu lực
tại thời điểm tiến hành các nghiệp vụ.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
9
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
1.3.3.2. Kiểm soát chất lượng từ bên trong
Để thực hiện công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên trong,
các công ty kiểm toán thường thiết lập các chính sách và thủ tục kiểm soát tập trung
vào:
- Đạo đức nghề nghiệp;
- Kỹ năng và trình độ của nhân viên kiểm toán;
- Tuân thủ một cách đầy đủ theo các chuẩn mực nghề nghiệp đã qui định.
Việc kiểm tra này thường được tiến hành bởi một nhân viên có trình độ cao hơn.
1.3.4. Vai trò của Hội nghề nghiệp, Nhà nước trong kiểm soát chất lượng
Qua nghiên cứu kinh nghiệm kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của
một số quốc gia trên thế giới cho thấy có hai mô hình chính đó là: mô hình tự kiểm
soát và mô hình theo luật định. Mô hình tự kiểm soát là việc kiểm soát chất lượng
được tiến hành bởi hội nghề nghiệp mà tiêu biểu là Hoa Kỳ và mô hình theo luật
định là việc kiểm soát chất lượng được tiến hành dựa trên cơ sở sắc lệnh của Chính
phủ tiêu biểu là Pháp. Tuy nhiên đến năm 2002, mô hình tự kiểm soát đã có những
thay đổi nhất định thông qua sự can thiệp nhất định của Nhà nước. Như vậy có thể
thấy, xu hướng hiện nay là Nhà nước ngày càng can thiệp sâu trong lĩnh vực kiểm
soát nhằm nâng cao chất lượng hoat động kiểm toán.
Ngoài ra, tại hai quốc gia khi tiến hành kiểm soát chất lượng đối với các
công ty niêm yết, thường có sự kết hợp giữa hội nghề nghiệp và ủy ban chứng
khoán. Ở Hoa Kỳ đó là Ủy ban giám sát hoạt động kiểm toán (PCAOB), ở Pháp đó
là Ủy ban kiểm tra quốc gia về hoạt động kiểm toán (CENA). Như vậy khuynh
hướng chung để kiểm soát chất lượng cho các công ty niêm yết thường phải có sự
kết hợp với Ủy ban chứng khoán.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
10
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về hệ thống các quy định liên quan đến kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam
2.1.1. Chuẩn mực Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán (VSA 220)
Nội dung, quy mô và trình tự tiến hành thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán được vận dụng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng cuộc kiểm toán.
Tuy nhiên, có những chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán mà các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện trong mọi cuộc kiểm
toán để phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, các công ty kiểm toán phải luôn xem xét về tính tuân thủ nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên của mình. Việc theo dõi, kiểm tra sự tuân
thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực,
khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp.
Phân công một người hoặc một nhóm người chịu trách nhiệm hướng dẫn và giải
quyết những vấn đề về tính độc lập, tính chính trực, tính khách quan và tính bí mật,
công ty kiểm toán có thể yêu cầu cán bộ, công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản
giải trình về tính độc lập đối với khách hàng. Trong quá trình đào tạo và quá trình
hướng dẫn, giám sát và kiểm tra một cuộc kiểm toán cần nhấn mạnh đến tính độc
lập và tư cách nghề nghiệp.
Thứ hai, công ty kiểm toán phải xem xét đến kỹ năng và năng lực chuyên môn
của các nhân viên chuyên nghiệp. Muốn cung cấp một dịch vụ với chất lượng cao
không những phải tuyển chọn các nhân viên có kỹ năng và năng lực chuyên môn
cao mà còn phải thường xuyên duy trì, cập nhập và nâng cao kiến thức cho họ trong
quá trình đào tạo và đào tạo lại.
Thứ ba, công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên
chuyên nghiệp được đào tạo và có đầy đủ kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng
được yêu cầu thực tế. Cần lập kế hoạch về thời gian và nhân sự cho một cuộc kiểm
toán, phân công công việc cho họ một cách cụ thể rõ ràng.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
11
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
Thứ tư, công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ
ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo là công việc kiểm toán đã được
thực hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan.
Thứ năm, các công ty kiểm toán khi cần thiết có thể tham khảo ý kiến tư vấn
của chuyên gia trong công ty hoặc ngoài công ty. Việc tham khảo ý kiến tư vấn của
chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn
phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức tạp.
Thứ sáu, việc duy trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm năng, công
ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, năng lực phục vụ khách hàng của công
ty kiểm toán và tính chính trực của Ban lãnh đạo của khách hàng, là nhân tố quan
trọng quyết định đến chất lượng kiểm toán.
Thứ bảy, công ty kiểm toán phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình
thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của
công ty dưới nhiều hình thức như: đánh giá tính độc lập của kiểm toán viên, lựa
chọn để kiểm tra chất lượng và công việc từng hợp đồng kiểm toán.
Bên cạnh chuẩn mực này, xuyên suốt trong hệ thống các chuẩn mực kiểm toán
đều có những quy định về tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến
kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Việc áp dụng các quy định này nhằm
giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán thực hiện công việc một cách khoa
học, trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu trong công tác kiểm soát chất lượng
dịch vụ kiểm toán.
2.1.2. Các quy định pháp lý liên quan đến kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán độc lập từ bên ngoài
Trước tiên vào năm 1994, chính phủ ban hành Nghị định số 07-CP ngày
29/01/1994 về “Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”, trong đó quy định
Bộ tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ trực tiếp thực hiện chức năng kiểm
soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập.
Đến năm 2004, Chính phủ ban hành nghị định 105/2004/NĐ-CP về việc
kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập. Trong nghị định này, việc kiểm
soát chất lượng vẫn do Bộ tài chính thực hiện. Theo quy định tại điều 33 của Nghị
định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/03/2004 thì Bộ tài chính có nhiệm vụ :
1. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nghề
nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
12
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
2. Ban hành, phổ biến, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chuẩn mực kiểm toán và các
hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kiểm toán và phương pháp chuyên môn nghiệp vụ
kiểm toán.
3. Ban hành và tổ chức thực hiện quy chế đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
và cập nhật kiến thức hàng năm; quy định thể thức thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm
toán viên; thành lập Hội đồng thi cấp Nhà nước, tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ
kiểm toán viên.
4. Quản lý thống nhất danh sách kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán đang
hành nghề kiểm toán độc lập trong cả nước. Định kỳ 2 năm, Bộ Tài chính thông báo
công khai danh sách kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán đăng ký hành nghề.
5. Thực hiện kiểm tra tuân thủ pháp luật về kiểm toán độc lập, chuẩn mực kiểm
toán và các quy định liên quan trong các doanh nghiệp kiểm toán.
6. Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những quy định, quyết định của doanh
nghiệp kiểm toán trái với quy định của pháp luật về tổ chức doanh nghiệp kiểm toán
và hành nghề kiểm toán.
7. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề nghiệp kiểm toán độc lập.
8. Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về kiểm toán.
Chức năng kiểm soát được quy định cụ thể hơn tại phần C Thông tư số
64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều
của Nghị định 105/2004/NĐ-CP. Vào ngày 15/4/2005, Hội Kiểm toán viên hành
nghề Việt Nam (VACPA) được thành lập tại Hà Nội và chính thức đi vào hoạt động
từ 1/1/2006, Bộ tài chính chuyển giao chức năng kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán cho VACPA (được quy định tại Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày
14/07/2005 của Bộ tài chính về việc “Chuyển giao cho Hội nghề nghiệp thực hiện
một số nội dung công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán”), còn Bộ Tài
chính chỉ thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc thực thi nhiệm vụ đã giao
cho VACPA. Tuy nhiên, do mới đi vào hoạt động nên Bộ tài chính chỉ chính thức
giao nhiệm vụ này cho VACPA kể từ ngày 01/01/2007 theo công văn số 8907/BTCVP về việc “Chuyển giao chức năng quản lý hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm
toán cho Hội”, VACPA sẽ có nhiệm vụ thực hiện các công việc sau đây :
a) Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cho
kiểm toán viên và kiểm toán viên hành nghề. Thực hiện cập nhập kiến thức hàng
năm theo quy định cho kiểm toán viên hành nghề;
b) Quản lý thống nhất danh sách kiểm toán viên hành nghề và danh sách doanh
nghiệp kiểm toán theo quy định của pháp luật;
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
13
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
c) Xem xét điều kiện và công khai danh sách kiểm toán viên và danh sách doanh
nghiệp kiểm toán đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật;
d) Thực hiện kiểm tra tuân thủ pháp luật về kế toán, kiểm toán, chất lượng dịch vụ
trong các doanh nghiệp kiểm toán. Khi phát hiện các sai phạm pháp luật thì báo cáo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý. Hàng năm, thực hiện tổng kết, đánh giá
chất lượng dịch vụ và hoạt động nghề nghiệp của kiểm toán viên, hoạt động kiểm
toán và báo cáo với Bộ tài chính;
e) Đảm nhận các công việc cụ thể như: Cử đại diện của Hội trong thành phần thi
tuyển kiểm toán viên hành nghề cấp nhà nước; tham gia tổ chức thi tuyển kiểm toán
viên như: phát hồ sơ thi theo mẫu của Hội đồng thi; tổ chức bồi dưỡng, ôn tập trước
khi thi. Bộ tài chính đang trong quá trình soạn thảo “Quy chế kiểm soát chất lượng
dịch vụ kế toán, kiểm toán”, qua nhiều đợt dự thảo quy chế này cơ bản đã hoàn
thành và được Bộ tài chính dự kiến sẽ ban hành trong thời gian tới.
2.2. Thực trạng về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam
2.2.1 Thực trạng việc thiết lập chính sách kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán tại các công ty kiểm toán
2.2.1.1. Đối với các công ty kiểm toán thuộc Big four tại Việt Nam
Các công ty kiểm toán này đã sớm nhận ra sự cần thiết của công tác kiểm soát
chất lượng kiểm toán và đã xây dựng chính sách kiểm soát chất lượng một cách
nghiêm ngặt. Chính sách này không những tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của chuẩn
mực kiểm toán quốc tế mà còn đưa ra nhiều quy định chi tiết hơn. Dưới đây là một
ví dụ minh họa cho việc thiết lập chính sách kiểm soát chất lượng tại các công ty
này:
Tại Công ty TNHH KPMG:
Theo quy định của công ty, việc kiểm toán cần phải được chỉ đạo, giám sát và
soát xét ở tất cả các cấp. Các kiểm toán viên cao cấp nhất (thường là chủ phần hùn)
phải phân công công việc cho các nhân viên trong công ty, nhưng họ không thể
chuyển giao trách nhiệm của mình cho một nhóm kiểm toán. Một trong những qui
định về kiểm soát chất lượng chủ yếu là tất cả các công việc phải được soát xét bởi
một thành viên cao cấp hơn trong nhóm kiểm toán.
Công tác kiểm soát chất lượng của KPMG trong một số trường hợp cụ thể cần
có sự tham gia của một “chủ phần hùn thứ hai”. Đó là trường hợp kiểm toán báo
cáo tài chính của khách hàng là công ty cổ phần niêm yết, hay trường hợp có ý kiến
kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần. Chủ phần hùn thứ hai phải độc
lập với cuộc kiểm toán để có một cái nhìn thực sự khách quan, tổng quát về các vấn
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
14
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
đề mà không bị ảnh hưởng từ phía khách hàng. Việc tham khảo ý kiến đồng nghiệp
và các chuyên gia làm tăng một cách đáng kể chất lượng của hoạt động kiểm toán.
Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán bắt đầu với việc đánh giá một cách độc lập
“ngay lập tức” các báo cáo tài chính được xếp vào hạng “rủi ro cao” trước khi công
ty đưa ra ý kiến kiểm toán. Tiếp theo, sẽ có một quá trình rà soát đột xuất trong nội
bộ công ty (“rà soát sau”) - công việc của từng chủ phần hùn cũng được một chủ
phần hùn khác đánh giá một cách độc lập theo từng giai đoạn.
Trong cùng một văn phòng, hàng năm giữa chủ phần hùn và Giám đốc kiểm
toán sẽ thực hiện soát xét chéo nhau. Ngoài việc xây dựng chương trình kiểm soát
chất lượng trong nội bộ, KPMG còn xây dựng chương trình đánh giá hoạt động
kiểm toán của KPMG tại từng nước và mức độ thường xuyên của việc đánh giá này
dựa theo mức kinh nghiệm của các chủ phần hùn ở từng nước. Chương trình này
được áp dụng đối với tất cả các nước và tất cả các chủ phần hùn của KPMG.
Việc “rà soát sau” được thực hiện khi KPMG đã phát hành báo cáo, nên bất cứ một
sai sót nhỏ nào được phát hiện đều được giải quyết một cách nghiêm túc. Những sai
sót này sẽ được xem xét ở mức cao nhất trong công ty và các kiến nghị sẽ được bổ
sung vào qui trình kiểm toán thông qua đào tạo và cập nhật chuyên môn.
2.2.1.2. Đối với các công ty kiểm toán Việt Nam
Hầu hết các công ty đều đã xây dựng các chính sách và các thủ tục kiểm soát
chất lượng, tuy nhiên các chính sách này chỉ dừng lại ở việc tuân thủ các quy định
VSA 220 và thường tập trung vào những nội dung sau:
a/ Tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
Các công ty này tuy có thiết lập một số chính sách về việc tuân thủ đạo đức nghề
nghiệp nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp. Công ty chỉ đưa ra một số yêu cầu căn bản như là:
- Yêu cầu các nhân viên không nên quá thân thiện với khách hàng, không được
nhận bất kỳ một khoản tiền hay quà của khách hàng;
- Yêu cầu các nhân viên không được làm điều gì gây ảnh hưởng, làm mất uy tín của
công ty nói riêng và nghề nghiệp nói chung;
- Không được tiết lộ bất kỳ một thông tin nào về khách hàng khi chưa được sự
đồng ý của khách hàng, trừ khi có yêu cầu của các cơ quan chức năng được luật
pháp quy định.
b/ Kỹ năng và năng lực chuyên môn
Phần lớn các công ty đã:
- Xây dựng một quy trình tuyển dụng nhân viên chuyên nghiệp;
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
15
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
- Xây dựng các tiêu chuẩn cần thiết cho mọi người ở mọi cấp độ trách nhiệm khác
nhau trong công ty;
- Thiết lập những hướng dẫn, thường xuyên bồi dưỡng cập nhập kiến thức cho
nhân viên;
- Có chính sách hỗ trợ nhân viên tham gia các chương trình đào tạo mang chất
lượng quốc tế.
c/ Giao việc
- Lập kế hoạch và xác định nhu cầu nhân viên cho toàn công ty trên cơ sở tổng thể
và chi tiết;
- Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và học vấn của các thành viên khi tham gia
cuộc kiểm toán;
- Thời gian thực hiện hợp đồng kiểm toán, thời gian và mức độ tham gia của các
thành viên để thực hiện cuộc kiểm toán đúng thời gian;
- Lập kế hoạch giám sát và các việc có liên quan, phân công cán bộ giám sát.
d/ Hướng dẫn và giám sát
- Phân công trách nhiệm lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm
toán;
- Đưa ra những hướng dẫn về mẫu biểu, giấy làm việc và kết cấu của hồ sơ kiểm
toán;
- Quy định hình thức, cách đánh tham chiếu và nội dung ghi chép của nhân viên;
- Hầu hết các công ty đều tiến hành soát xét chất lượng qua ba cấp, việc soát xét lại
chưa được chú trọng nhiều;
- Đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe về trình độ và năng lực chuyên môn đối với
nhân viên phụ trách kiểm soát.
e/ Tham khảo ý kiến
- Thông báo cho nhân viên biết các thủ tục và quy chế tư vấn của công ty;
- Xác định những lĩnh vực cụ thể và tình huống chuyên môn phức tạp đòi hỏi phải
có sự tham khảo của các chuyên gia;
- Chỉ định một số cá nhân với tư cách là những chuyên gia về mặt pháp lý;
- Khuyến cáo các nhân viên về mức độ và phạm vi phải nghe ý kiến của chuyên
gia;
f/ Duy trì và chấp nhận khách hàng
- Thu thập và rà soát lại các thông tin tài chính về khách hàng tiềm năng như báo
cáo tài chính, tờ khai nộp thuế;
- Trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm của khách hàng để thu thập thông tin;
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
16
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
- Đánh giá tính độc lập của công ty và khả năng phục vụ khách hàng tiềm năng;
- Đánh giá khách hàng vào thời điểm cuối kỳ hoặc căn cứ vào các điều kiện phát
sinh để xác định xem có tiếp tục duy trì quan hệ với khách hàng nữa không.
g/ Kiểm tra
- Xây dựng chu kỳ và xác định thời gian hoạt động kiểm tra;
- Quy định cấp bậc, trình độ của nhân viên kiểm tra và phương pháp tuyển chọn
nhân viên kiểm tra;
- Rà soát lại những công việc đã được lựa chọn xem các công việc này có tuân theo
các chuẩn mực nghề nghiệp và các thủ tục kiểm soát chất lượng của công ty không;
- Thảo luận và thông báo kịp thời những sai sót trong quá trình kiểm tra với cấp có
thẩm quyền liên quan;
- Đề ra các biện pháp sửa chữa những sai sót và yêu cầu sửa đổi các chính sách và
thủ tục kiểm soát chất lượng xuất phát từ kết quả của cuộc kiểm tra.
2.2.2. Thực trạng việc thực hiện chính sách kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán tại các công ty kiểm toán
2.2.2.1. Tại các công ty kiểm toán thuộc Big four ở Việt Nam
Phần lớn các công ty này áp dụng một cách thường xuyên liên tục các quy
định trong chính sách kiểm soát chất lượng đã được thiết lập trên các mặt như:
a/ Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
Các công ty luôn có biện pháp để giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
của kiểm toán viên.
b/ Kỹ năng và năng lực chuyên môn
Quy trình tuyển dụng nhân viên được đặt ra hết sức chặt chẽ nhằm tuyển
chọn được các nhân nhân viên có trình độ cao. Trong tổng chi phí hàng năm, khoản
chi cho công tác đào tạo và bồi dưỡng nhân viên chiếm một tỷ trọng cao. Do vậy,
hầu hết đội ngũ kiểm toán viên đều đã tiếp nhận được công nghệ kiểm toán, quản lý
quốc tế và được đào tạo một cách bài bản theo chương trình đào tạo quốc tế.
c/ Giao việc
Khi giao việc cho các nhân viên, công ty rất chú trọng đến năng lực và trình
độ của các nhân viên tham gia vào hợp đồng. Cơ chế lựa chọn nhân viên được thực
hiện theo cơ chế động, nghĩa là tùy thuộc vào độ khó của từng hợp đồng và tính
phức tạp trong từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của khách hàng mà công ty sẽ
chọn ra những thành viên có năng lực và trình độ chuyên môn phù hợp để tham gia
thực hiện hợp đồng. Nhân viên được lựa chọn có thể thuộc ở các phòng ban khác
nhau nhưng phải phù hợp về chất lượng với hợp đồng sẽ thực hiện.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
17
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
d/ Hướng dẫn và giám sát
Các công ty kiểm toán nước ngoài do phải tuân thủ và áp dụng các quy định
kiểm soát từ công ty mẹ nên hầu hết các công ty này đều xây dựng được một hệ
thống kiểm soát chất lượng khá tốt, biểu mẫu, giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán
được quy định thống nhất và rõ ràng. Hàng năm đều tổ chức thực hiện công tác
kiểm tra chéo giữa các công ty con ở các nước khác nhau.
e/ Tham khảo ý kiến
Các công ty này rất chú trọng đến việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
quy định rõ những trường hợp cần sự tư vấn về chuyên môn của các chuyên gia,
tiêu chuẩn của các chuyên gia, và việc lưu trữ vào hồ sơ kiểm toán những tài liệu về
kết quả tham khảo để làm bằng chứng kiểm toán.
f/ Duy trì và chấp nhận khách hàng
Tại các công ty này thường tổ chức một bộ phận riêng thực hiện việc thu thập
và đánh giá thông tin khi đưa ra quyết định tiếp tục duy trì khách hàng hiện có và
chấp nhận một khách hàng mới. Khi chấp nhận một khách hàng mới, bộ phận này
thường tìm hiểu rất kỹ thông tin về khách hàng thông qua việc khảo sát sơ bộ về qui
mô hoạt động và lĩnh vực kinh doanh của khách hàng, ngoài ra họ còn thu thập
thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, trao đổi với bên thứ ba hoặc kiểm
toán viên tiền nhiệm trước khi ra quyết định.
c/ Kiểm tra
Công việc kiểm tra luôn được duy trì trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán
và sau khi cuộc kiểm toán hoàn thành. Trong các biểu mẫu, giấy tờ làm việc tại các
công ty này, dấu vết soát xét được thể hiện rất rõ và yêu các các nhân viên tham gia
công việc kiểm toán phải làm đầy đủ các thủ tục kiểm soát khi thực hiện công việc
của mình trước khi trình lên cấp cao hơn soát xét và lưu trữ vào hồ sơ làm việc.
2.2.2.2. Tại các công ty kiểm toán Việt Nam
Công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán trong các công ty được thể hiện
qua các mặt hoạt động chủ yếu sau:
a/ Tuân thủ các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp
Tuy có đề ra các chính sách và thủ tục liên quan đến tính độc lập, chính trực,
khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp
nhưng việc tổ chức đánh giá lại chưa được thực hiện đầy đủ như yêu cầu của chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp. Để thu hút khách hàng không ít các công ty kiểm toán
này đã thực hiện việc chi hoa hồng cho những người môi giới (thường là các kế
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
18
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
toán trưởng, hoặc những người thân quen, bạn bè hiện đang công tác tại đơn vị cần
kiểm toán).
Trong quá trình kiểm toán có trường hợp kiểm toán viên xét thấy có những
hành vi sai phạm, gian lận về thương mại về hoàn thuế giá trị gia tăng nhưng đã
không thông báo với các cơ quan chức năng. Không ít kiểm toán viên đã không loại
trừ những khoản mục có nghi vấn trong báo cáo tài chính, bỏ qua những sai sót
trọng yếu đáng ra phải được điều chỉnh, thậm chí có thể thay đổi ý kiến trên báo cáo
kiểm toán.
Với việc được tiếp nhận thông tin một cách sớm nhất so với các nhà đầu tư,
nhiều kiểm toán viên đã tiến hành kinh doanh chứng khoán để kiếm lời. Đặc biệt,
dựa vào kinh nghiệm và trình độ hiểu biết của mình khi thực hiện dịch vụ xác định
giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa, không ít kiểm toán viên đã tư vấn cho
khách hàng những phương thức hợp thức hóa để xác định giá trị tài sản thấp hơn
mức giá trị thật, đổi lại điều đó các kiểm toán viên đã được khách hàng bán cho một
số lượng cổ phiếu với giá ưu đãi.
b/ Kỹ năng và năng lực chuyên môn
Chất lượng hoạt động kiểm toán chủ yếu phụ thuộc vào trình độ và năng lực
của các nhân viên, nhận thức được điều này các công ty kiểm toán xem đội ngũ
nhân viên là tài sản lớn nhất của công ty. Chính vì vậy, công tác tuyển dụng nhân
viên đầu vào được đặt ra chặt chẽ. Nhìn chung các công ty kiểm toán này hầu hết đã
xây dựng quy chế thi tuyển nhân viên, chẳng hạn tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài
chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) quy trình tuyển dụng nhân viên qua 4 vòng;
tại Công ty Kiểm toán Việt Nam TNHH (VACO), quy trình thi tuyển gồm 3 vòng.
Về công tác đào tạo. Chi phí đào tạo và bồi dưỡng cho nhân viên còn ở mức
khiêm tốn (khoảng 20%), chủ yếu là đào tạo kèm cặp qua làm việc thực tế. Các
công ty gặp rất nhiều khó khăn trong công tác đào tạo về kinh phí, nội dung chương
trình đào tạo, đặc biệt là đào tạo cho các kiểm toán viên chính.
Tuy có thiết lập tiêu chuẩn và hướng dẫn việc đánh giá nhân viên dự tuyển ở
từng chức danh nhưng chưa được thực hiện triệt để, việc đề bạt còn mang nặng tính
cảm tính thân quen, bè phái chưa hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ
của ban lãnh đạo và các cấp trưởng phòng.
c/ Giao việc
Tuy có xem xét trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực của kiểm toán
viên để phân công thực hiện hợp đồng kiểm toán nhưng việc thực hiện lại không
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
19
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
quán triệt, một số công ty khi xem xét vấn đề này còn mang tính hình thức hơn là đi
vào chất lượng của công việc.
d/ Hướng dẫn và giám sát
Hầu hết các công ty đều tiến hành lập kế hoạch kiểm toán, chương trình kiểm
toán và hồ sơ kiểm toán mẫu, nhưng chưa cập nhập đầy đủ các bổ sung, sửa đổi
theo các chuẩn mực, chế độ về kế toán, kiểm toán đã ban hành và chưa có quy định
chi tiết cho từng loại khách hàng và dịch vụ.
Thủ tục kiểm toán còn bị bỏ sót nhiều như thiếu bằng chứng về đánh giá hệ
thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán của khách hàng; bỏ qua những đánh giá về
khả năng hoạt động liên tục, về cách thức chọn mẫu, về ước tính mức trọng yếu, về
thủ tục kiểm toán năm đầu tiên.
e/ Tham khảo ý kiến
Khi gặp những vấn đề phức tạp hoặc vượt quá khả năng chuyên môn của
mình hầu hết các công ty đều cộng tác với những chuyên gia trong từng lĩnh vực cụ
thể. Những tài liệu về kết quả tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn chưa
được các công ty lưu trữ một cách cẩn thận, bổ sung vào ngân hàng tài liệu của
công ty để làm tài liệu nghiên cứu, đào tạo cho các nhân viên trong công ty sau này.
f/ Duy trì và chấp nhận khách hàng
Chỉ có một số công ty thực hiện nghiêm túc việc đánh giá lại khách hàng trong
một khoảng thời gian nhất định hay khi có thay đổi lớn trong công ty khách hàng
trước khi chấp nhận ký kết lại hợp đồng với khách hàng, đa số các công ty còn lại
chỉ thực hiện một cách sơ sài hoặc không thực hiện.
Nhiều công ty đã tiến hành tổ chức những buổi tọa đàm với khách hàng về
những nghị định, thông tư, chuẩn mực mới ban hành để cùng nhau gỡ bỏ những
vướng mắc, những vấn đề chưa hiểu nhằm giúp cho khách hàng cập nhập kiến thức
chuyên môn, nắm vững chính sách, chế độ một cách kịp thời. Tuy nhiên, việc làm
này chỉ mới được một số công ty chú trọng triển khai như VACO, A & C, AASC,...
g/ Kiểm tra
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, phần lớn các công ty đã áp dụng một
cách đầy đủ các chính sách kiểm soát chất lượng từ việc chấp nhận khách hàng, xét
duyệt hồ sơ kiểm toán cho đến phát hành báo cáo.
2.2.3. Thực trạng về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài
2.2.3.1. Hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Bộ tài chính
Kể từ khi thành lập công ty kiểm toán đầu tiên cho đến nay, việc xác định và
đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán vẫn thuộc trách nhiệm của các công ty. Bộ
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
20
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
tài chính vẫn chưa tổ chức được hoạt động kiểm soát chất lượng một cách có hệ
thống, ngoại trừ mỗi năm Bộ tài chính tổ chức kiểm soát chuyên môn khoảng 7 đến
8 công ty hàng năm. Tính từ cuộc kiểm tra đầu tiên thực hiện vào năm 1998, thì đến
năm 2006 các đoàn kiểm soát do Bộ tài chính chủ trì đã thực hiện được 9 đợt kiểm
soát với số công ty được kiểm soát là 65 công ty. Từ năm 2007, thực hiện Quyết
định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/07/2005 về việc chuyển giao cho Hội nghề
nghiệp thực hiện một số nội dung công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán,
Quyết định số 32/QĐ-BTC ngày 15/05/2007 của Bộ Tài chính ban hành Quy chế
kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, với sự trợ giúp của Bộ Tài chính,
Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã tiến hành đợt 10 năm 2007
kiểm tra 16 công ty tại Hà Nội và TP HCM; đợt 11 năm 2008 kiểm tra 33 công ty
tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP HCM; đợt 12 năm 2009 kiểm tra 35 công ty tại
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, TP HCM.
Nội dung và cách thức triển khai kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
được thể hiện như sau:
a/ Nội dung của công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập: Việc
kiểm soát chất lượng tập trung vào:
- Quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các Công ty kiểm toán;
- Việc đăng ký hành nghề và thực tế hành nghề của các kiểm toán viên đã đăng ký
hành nghề;
- Xem xét việc ký kết hợp đồng dịch vụ về nội dung, hình thức;
- Tình hình tuyển dụng, đào tạo và quản lý kiểm toán viên;
- Quy trình lập, nội dung và cách thức lưu trữ hồ sơ kiểm toán;
- Kiểm soát báo cáo kiểm toán;
- Kiểm tra tình hình tuân thủ chuẩn mực kiểm toán đã ban hành. Đây là nội dung
chính của cuộc kiểm soát. Việc kiểm soát tập trung vào những nội dung sau:
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Xem xét liệu kiểm toán viên và công ty kiểm toán có tuân thủ một số nội dung
cơ bản của chuẩn mực kiểm toán có liên quan hay không khi thực hiện kiểm toán,
mà cụ thể tập trung vào:
Hiểu biết về khách hàng. VSA 300 “Lập kế hoạch kiểm toán”, VSA 310 “Hiểu
biết về tình hình kinh doanh”. Đoàn kiểm soát sẽ xem xét việc trình bày trong kế
hoạch kiểm toán các thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán đủ để có thể
đánh giá và phân tích được có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đến công
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
21
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
tác kiểm toán; xem xét hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, môi trường tin
học của đơn vị được kiểm toán để thiết kế chương trình kiểm toán thích hợp và có
hiệu quả.
Xác định mức trọng yếu. Đoàn kiểm soát sẽ xem xét KTV và công ty kiểm
toán xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được để làm tiêu chuẩn phát hiện ra
những sai sót trọng yếu về mặt định lượng và định tính hay không?
Đánh giá rủi ro. Đoàn kiểm soát sẽ xem xét KTV và công ty kiểm toán có
đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán,
đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản
hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
Phân tích sơ bộ. Thể hiện ở đoạn 9 của VSA 520 “Quy trình phân tích”, đoàn
kiểm soát xem xét nhóm kiểm toán có áp dụng quy trình phân tích trong quá trình
lập kế hoạch kiểm toán để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị được kiểm toán
và xác định những vùng rủi ro.
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Đoàn kiểm soát xem xét hồ sơ kiểm toán nhằm xác định liệu kiểm toán viên và
công ty kiểm toán có tuân thủ một số nội dung cơ bản về kiểm soát chất lượng kiểm
toán trong các chuẩn mực như:
VSA 500 “Bằng chứng kiểm toán”. Yêu cầu nhóm kiểm toán phải thu thập và
lưu trữ đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở dẫn liệu đưa ra ý
kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán thông qua
các phương pháp kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và quy trình phân
tích.
VSA 501 “Bằng chứng kiểm toán bổ sung đối với các khoản mục và sự kiện
đặc biệt”. Khi hàng tồn kho được xác định là trọng yếu thì nhóm kiểm toán có thực
hiện tham gia công việc kiểm kê hàng tồn kho để thu thập bằng chứng về sự hiện
hữu và tình trạng của hàng tồn kho không. Khi các khoản phải thu được xác định là
trọng yếu thì nhóm kiểm toán có tiến hành lập kế hoạch yêu cầu khách nợ xác nhận
trực tiếp các khoản phải thu hoặc các số liệu tạo thành số dư các khoản phải thu,...
Các bên liên quan. Thể hiện ở đoạn 2 của VSA 550 “Các bên liên quan”, yêu
cầu nhóm kiểm toán phải thực hiện những thủ tục kiểm toán để thu thập đầy đủ
bằng chứng kiểm toán thích hợp cho việc xác định sự hiện hữu của các bên liên
quan và những giao dịch giữa các bên liên quan.
VSA 520 “Quy trình phân tích”. Yêu cầu kiểm toán viên phải thực hiện phân
tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất tài chính quan trọng để tìm ra những xu hướng
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
22
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
biến động và những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác
hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.
VSA 240 “Gian lận và sai sót”. Yêu cầu kiểm toán viên ghi chép đầy đủ, thực
hiện các thủ tục đánh giá rủi ro về những gian lận và sai sót có thể có, làm ảnh
hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính và phải trao đổi với người đứng đầu đơn vị
được kiểm toán về mọi hành vi gian lận, sai sót quan trọng phát hiện được.
VSA 530 “Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác”. Yêu cầu nhóm
kiểm toán khi lấy mẫu thực hiện thử nghiệm cơ bản cần lựa chọn các phương pháp
xác định cỡ mẫu phù hợp với các quy định trong công tác kiểm soát chất lượng của
công ty.
VSA 580 “Giải trình của Ban giám đốc”. Yêu cầu kiểm toán viên phải thu
thập và lưu vào hồ sơ bản giải trình của Giám đốc đơn vị được kiểm toán. Cần tìm
hiểu nguyên nhân khi giải trình của Giám đốc mâu thuẫn với bằng chứng kiểm toán
khác và có xác minh lại mức độ tin cậy của các bằng chứng kiểm toán và giải trình
của Giám đốc.
Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán:
Trong giai đoạn này, đoàn kiểm tra sẽ xem xét việc tuân thủ một số nội dung cơ bản
về kiểm soát chất lượng kiểm toán trong các chuẩn mực như:
VSA 230 “Hồ sơ kiểm toán”. Yêu cầu kiểm toán viên phải lập và lưu trữ hồ sơ
theo theo hai loại: Hồ sơ kiểm toán chung và Hồ sơ kiểm toán năm; số liệu trong hồ
sơ kiểm toán phải được tham chiếu và trình bày rõ ràng; Hồ sơ kiểm toán năm phải
bao gồm đầy đủ các thông tin, tài liệu theo yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán.
VSA 520 “Quy trình phân tích”. Yêu cầu kiểm toán viên phải áp dụng quy
trình phân tích trong giai đoạn soát xét tổng thể cuộc kiểm toán, để có kết luận tổng
quát về sự phù hợp trên các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính với những
hiểu biết của kiểm toán viên về tình hình kinh doanh của đơn vị, đồng thời đánh giá
việc cần thiết phải thực hiện công việc kiểm toán bổ sung.
VSA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán”. Yêu cầu kiểm toán viên trong giai
đoạn soát xét tổng thể phải xem xét lại kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro
kiểm toán để xem các đánh giá này có còn phù hợp không.
VSA 560 “Các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ kế toán lập Báo cáo tài
chính”. Yêu cầu kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập đầy
đủ bằng chứng kiểm toán về các sự kiện phát sinh từ ngày khóa sổ kế toán đến ngày
ký báo cáo kiểm toán có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, và đã yêu cầu đơn vị
được kiểm toán điều chỉnh hoặc thuyết minh trong báo cáo tài chính.
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
23
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
b/Phương pháp tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập
- Hằng năm căn cứ vào số lượng các công ty kiểm toán đang hoạt động Bộ tài
chính chọn ra những công ty cần kiểm soát chất lượng theo nguyên tắc xoay vòng,
nếu là các công ty có quy mô lớn thì thời gian xoay vòng là khoảng ba năm, còn
những công ty có quy mô nhỏ thì thời gian xoay vòng là khoảng năm hoặc sáu năm.
- Bộ tài chính lập ra đoàn kiểm soát, thành viên đoàn kiểm soát chủ yếu được
huy động từ cán bộ của Vụ chế độ kế toán kết hợp với các Giám đốc, Chủ phần hùn
có kinh nghiệm lâu năm tại các công ty kiểm toán mà không nằm trong danh sách
các công ty chịu sự kiểm soát chất lượng của năm hiện hành.
- Căn cứ vào các quy định pháp lý và hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam, đoàn kiểm soát lập ra bảng câu hỏi về kiểm soát chất lượng và gửi cho các
công ty kiểm toán.
- Dựa vào bảng câu hỏi và thông tin mà các công ty được kiểm soát cung cấp,
đoàn kiểm soát tiến hành đối chiếu từng vấn đề thực tế tại đơn vị và đưa ra ý kiến
nhận xét cho từng vấn đề.
- Sau khi kết thúc đợt kiểm soát tại từng công ty, đoàn kiểm soát sẽ lập biên
bản kiểm soát chất lượng ghi nhận tình hình thực hiện và những những điểm còn
tồn tại và cần khắc phục trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
tại từng công ty được kiểm soát.
- Trên cơ sở những biên bản kiểm soát chất lượng của các công ty được kiểm
soát, Bộ tài chính lập Báo cáo tổng kết kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
trong năm, đây là một tài liệu dùng cho cuộc họp thường niên Giám đốc các công ty
kiểm toán hàng năm. Báo cáo tổng kết thường tập trung vào các nội dung sau:
+ Quy trình về kiểm toán và hồ sơ kiểm toán;
+ Báo cáo kiểm toán;
+ Tình hình tuyển dụng và đào tạo nhân viên;
+ Đăng ký hành nghề kiểm toán và thực hiện hành nghề;
+ Tình hình ký kết hợp đồng dịch vụ;
+ Khung giá phí dịch vụ;
+ Tuân thủ chuẩn mực kiểm toán.
Thông qua các cuộc kiểm tra hàng năm, Bộ tài chính đã kịp thời phát hiện
những vấn đề có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng kiểm toán như: nhiều công ty
chưa có chương trình đào tạo toàn diện và liên tục cho các cấp nhân viên, còn tình
trạng cho thuê chứng chỉ kiểm toán viên, quy trình soát xét hồ sơ kiểm toán và giấy
tờ làm việc chưa được thực hiện và tuân thủ đầy đủ, có trường hợp chỉ soát xét qua
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
24
Líp: KiÓm
§Ò ¸n m«n häc
Thanh DiÖp
GVHD: Th.S NguyÔn ThÞ
1 hoặc 2 cấp,.... Dựa trên những vấn đề đã phát hiện, các đoàn kiểm tra đã đưa ra
những kiến nghị, giúp các công ty kiểm toán hoàn thiện hệ thống để không ngừng
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và uy tín nghề nghiệp.
Căn cứ vào những thiếu sót và sai phạm qua các đợt kiểm tra, Bộ tài chính đã
tiến hành nghiên cứu và tổ chức đánh giá để đưa ra những cải tiến trong việc ban
hành các văn bản pháp lý về hoạt động kiểm toán, để ngày càng nâng cao chất
lượng trong công tác quản lý chất lượng kiểm toán.
Nhìn chung công tác kiểm soát, giám sát chất lượng kiểm toán mà Bộ tài
chính tổ chức hàng năm chưa thật sự đi vào nội dung kiểm soát chất lượng một cách
toàn vẹn mà chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra mang tính hình thức, chỉ nặng về kiểm
tra các loại: giấy phép, chứng chỉ, lưu trữ hồ sơ kiểm toán,.... Trên thực tế Bộ tài
chính chưa có đủ cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ để tiến hành kiểm soát chất lượng
kiểm toán. Việc thành lập mới nhiều công ty kiểm toán nhưng thiếu sự kiểm tra,
giám sát chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như Hội nghề nghiệp
đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán. Chính vì vậy, việc vi phạm
đạo đức nghề nghiệp, vi phạm quy trình tiếp nhận khách hàng,… vẫn chưa được
phát hiện qua các cuộc kiểm soát.
2.2.3.2. Hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán của Hội nghề nghiệp:
Sau khi thành lập, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã lập ra 4 ban
chuyên môn để góp phần duy trì và phát triển nghề nghiệp, nâng cao chất lượng
dịch vụ kiểm toán của Việt Nam thông qua hoạt động đào tạo, cập nhập kiến thức,
trao đổi thông tin quản lý đạo đức nghề nghiệp và kiểm soát chất lượng dịch vụ của
Hội nghề nghiệp.
Ban kiểm tra là một trong số bốn ban chuyên môn thay mặt Hội thực hiện
chức năng kiểm soát, giám sát nghề nghiệp kiểm toán được chuyển giao từ Bộ tài
chính theo Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/7/2005 của Bộ trưởng Bộ tài
chính. Tháng 11 năm 2006 Bộ tài chính đã phối hợp với Hội kiểm toán viên hành
nghề Việt Nam (VACPA) tổ chức tiến hành kiểm soát chất lượng tại mười công ty
kiểm toán độc lập đang hoạt động tại Việt Nam.
2.2.3.3. Hoạt động kiểm soát chất lượng của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước:
Hiện nay Ủy Ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan phê duyệt danh sách các
công ty kiểm toán được kiểm toán cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán, và là cơ quan công bố thông tin một cách đáng tin cậy về tình hình tài chính
các công ty niêm yết cho công chúng. Tuy nhiên, Ủy Ban chứng khoán Nhà nước
lại chưa có sự kết hợp với Hội nghề nghiệp trong việc kiểm soát, giám sát chất
SV: NguyÔn QuyÕt Th¾ng
to¸n 49A
25
Líp: KiÓm