Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 88 trang )

NGUYỄN XUÂN TẠO

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU Ở VIỆT NAM

2015 - 2017

NGUYỄN XUÂN TẠO

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU Ở VIỆT NAM
NGUYỄN XUÂN TẠO

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi, các
kết quả nghiên cứu trong Luận văn này chưa từng được công bố trước đó.
Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận văn cũng đã được trích dẫn
nguồn gốc rõ ràng và được công bố theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm nếu có bất cứ thông tin sai sự thật nào liên quan đến
Luận văn này.

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2017
Học viên thực hiện luận văn

Nguyễn Xuân Tạo


LỜI CÁM ƠN

Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ts. Nguyễn Văn Phương – tác giả của rất
nhiều nghiên cứu về pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu trước
đó, người đã trực tiếp định hướng, hướng dẫn và tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cám ơn chân thành tới các thầy cô giảng viên, các
thầy cô Khoa Sau đại học, trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học của mình.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cám ơn chân thành tới gia đình, bạn
bè và những đồng nghiệp nơi tôi công tác đã giúp đỡ và ủng hộ tôi hoàn thành luận

văn của mình.

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2017
Học viên thực hiện luận văn

Nguyễn Xuân Tạo


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài .................................................................................. 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài ...................................... 3
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ................................................. 4
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn................................................... 4
7. Cơ cấu của luận văn ........................................................................................... 5
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ PHÁP LUẬT MÔI
TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU ........................... 6
1.1. Khái quát về phế liệu và hoạt động nhập khẩu phế liệu .................................. 6
1.1. 1. Khái niệm phế liệu ..................................................................................................... 6
1.1.2. Phân biệt khái niệm phế liệu với khái niệm chất thải ................................................ 8
1.1.3. Khái niệm hoạt động nhập khẩu phế liệu ................................................................. 10
1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu
phế liệu ................................................................................................................. 11
1.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu.. 19
1.3.1. Vai trò đối với việc bảo đảm lợi ích kinh tế ............................................................. 19
1.3.2. Góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên....................................................... 20
1.3.3. Góp phần phát triển ngành công nghiệp tái chế phù hợp với môi trường .............. 21
1.3.4. Thể chế hóa những yêu cầu bảo vệ môi trường của Nhà nước, của cộng đồng đối

với hoạt động nhập khẩu phế liệu ....................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT MÔI
TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU Ở VIỆT
NAM....................................................................................................................24
2.1. Thực trạng pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ....... 24
2.1.1. Các loại phế liệu được phép nhập khẩu ................................................................... 24
2.1.2. Điều kiện về chủ thể được phép nhập khẩu ............................................................. 28
2.1.3. Quy trình, thủ tục kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu và cơ quan kiểm soát
hoạt động nhập khẩu phế liệu ............................................................................................. 32
2.1.4. Về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm quy định pháp luật về môi trường ................ 45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật môi trường trong nhập khẩu phế liệu ............ 50
2.2.1. Tình hình hoạt động nhập khẩu phế liệu .................................................................. 50
2.2.2. Đánh giá chung về thực tiễn thi hành pháp luật môi trường trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu ....................................................................................................................... 53


Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT MÔI
TRƯỜNG TRONG NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU Ở VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT.................................................................61
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật luật môi trường trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu......................................................................................................61
3.1.1. Bảo đảm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng.................... 61
3.1.2. Phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.......63
3.1.3. Bảo đảm hội nhập quốc tế về kinh tế và bảo vệ môi trường.............65
3.2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật môi trường về nhập khẩu phế liệu............67
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phế liệu được phép nhập khẩu và điều kiện
về chủ thể được phép nhập khẩu ........................................................................................ 62
3.2.2. Hoàn thiện quy định về quy trình, thủ tục kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu
và hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu phế liệu..................................... 64
3.2.3. Hoàn thiện quy định về về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm quy định pháp luật về

môi trường ........................................................................................................................... 67
3.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật về nhập khẩu
phế liệu ở Việt Nam .............................................................................................. 69
3.3.1. Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước ..................................................... 69
3.3.2. Giải pháp đối với người dân và doanh nghiệp ......................................................... 73
3.3.3. Giải pháp đối với hiệp hội ngành, nghề ................................................................... 75
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 79


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một số công trình nghiên cứu về hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu ở các
nước trên thế giới như “Pháp luật môi trường của 22 quốc gia thuộc Châu Âu, Châu
Á và Châu Mỹ” của Giáo sư Michael Kloepfer và Ekkehard Mast năm 1995 [15,
tr30-45] hay “Đánh giá các ảnh hưởng môi trường và kinh tế của rác thải độc hại
trong Sub-Saharan Châu Phi” năm 1991 của tác giả Logan đăng trên Tạp chí
Thương mại Thế giới [32, tr 61-76] hoặc “Chính sách môi trường của thương mại
chất thải quốc tế” năm 1993 của tác giả Strohm, đăng trên Tạp chí Môi trường &
Phát triển [33, tr 129-151] đã chỉ ra rằng phế liệu thực chất là chất thải “Waste”, do
đó nhập khẩu phế liệu của các quốc gia cũng có tính tương ứng với hoạt động nhập
khẩu chất thải. Đồng thời, việc quản lý chất thải của các nước trước hết thông qua
các nguyên tắc về bảo vệ môi trường: nguyên tắc phòng ngừa, nguyên tắc gây ô
nhiễm phải trả giá, nguyên tắc hợp tác… vv
Như vậy, có thể thấy rằng xu hướng chung của thế giới là cho phép việc nhập
khẩu chất thải hay phế liệu làm nguyên liệu sản xuất với mục tiêu tiết kiệm nguyên,
nhiên liệu. Tuy nhiên, để cân bằng lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, việc nhập
khẩu chất thải hay phế liệu phải được quản lý bằng quy định pháp luật về bảo vệ
môi trường.
Ở Việt Nam, hoạt động nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất phế liệu được điều chỉnh

bởi hệ thống các văn bản tương đối đa dạng, trước hết phải kể đến Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015), Nghị
định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ về việc quản lý chất thải và phế liệu; Quyết
định số 73/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định danh mục phế
liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; Thông tư
41/2015/TT-BTNMT ngày 09 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường và các tiêu chuẩn về phế liệu, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường. Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu phế liệu còn được điều chỉnh bởi Luật

1


Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn Luật Thương mại về hoạt động
mua bán hàng hóa quốc tế, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và một số văn bản pháp luật chuyên
ngành khác có liên quan...
Tuy nhiên, thông qua các phương tiện truyền thông vẫn cho thấy, tình trạng
nhập khẩu phế liệu vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường vẫn diễn ra phổ biến
và xuất hiện các vụ việc lợi dụng nhập khẩu phế liệu để vận chuyển chất thải nguy
hại vào Việt Nam.
Chính vì vậy, trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành
«bãi rác công nghiệp» của thế giới, việc lựa chọn đề tài và nghiên cứu «Pháp luật
môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam» là cần thiết, nhằm
đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật môi trường trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu ở Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhập khẩu phế liệu là một vấn đề “nóng” được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu nhằm đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về quản lý nhập khẩu
phế liệu với các mục tiêu khác nhau. Các công trình này không chỉ đa dạng về nội
dung mà cả về hình thức như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ,

nghiên cứu khoa học… vv.
Trong đó, các nghiên cứu tập trung vào đánh giá hiện trạng quy định pháp luật
hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 về nhập khẩu phế liệu và trên cơ sở
nghiên cứu kinh nghiệm các nước, các nghiên cứu đưa ra đề xuất hoàn thiện Luật
Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn về nhập khẩu phế liệu tại
thời điểm nghiên cứu. Điển hình như: “Pháp luật môi trường về hoạt động nhập
khẩu phế liệu ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Văn Phương năm
2007; “Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu tại Việt
Nam” khoá luận tốt nghiệp của tác giả Dương Thị Minh Thuý năm 2008; “Pháp luật
về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu” khoá luận tốt nghiệp của

2


tác giả Nguyễn Thị An Hà năm 2011; “Nghiên cứu cơ sở khoa học về tiêu chuẩn
phế liệu về đề xuất giải pháp kiểm soát ô nhiễm trong hoạt động nhập khẩu phế liệu
làm nguyên liệu sản xuất” của Tổng cục Môi trường Bộ Tài nguyên và Môi trường
năm 2009; Nghiên cứu các căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng quy định về
nhập khẩu phế liệu thép, nhựa, giấy cho sản xuất công nghiệp, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ của tác giả Phan Công Hợp năm 2011 [2], [3], [4], [6], [7],
[8]…vv.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ đề xuất các giải pháp giải quyết những
vướng mắc pháp luật tại thời điểm thực hiện nghiên cứu (Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005 và các văn bản hướng dẫn). Trong khi đó, ngày 23 tháng 6 năm 2014
Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thay thế Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 và tại thời điểm hiện nay, các quy định về quản lý nhập khẩu phế
liệu cũng đã có những thay đổi nhất định.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là cần thiết, có giá trị lý luận và thực tiễn quan
trọng, không trùng lặp với các công trình đã được công bố. Kết quả nghiên cứu của
đề tài này để góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật hiện hành về nhập khẩu phế

liệu tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với tên đề tài «Pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu
ở Việt Nam», tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau: Nghiên cứu lý luận,
đánh giá hiện trạng và đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật môi trường trong
hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu đầu vào trong sản xuất ở Việt Nam.
Do đó, đối với những nội dung, vấn đề ngoài phạm vi này, tác giả sẽ không
có nhiều các phân tích, đánh giá.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Về phương pháp luận

3


Về cách tiếp cận thực hiện đề tài: Tác giả tiến hành nghiên cứu tổng quan cơ sở
lý luận về hoạt động nhập khẩu phế liệu; Đánh giá thực trạng hoạt động nhập khẩu
phế liệu trong thời gian gần đây.
Xuất phát từ các kết quả phân tích thực trạng nhập khẩu phế liệu, tác giả đề
xuất giải pháp hoàn thiện văn bản pháp luật và giải pháp nâng cao năng lực thi hành
pháp luật trong thời gian tới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn…
Thu thập thông tin, dữ liệu thứ cấp: đây là các thông tin, dữ liệu đã được công
bố, đề tài sẽ thu thập chủ yếu thông qua việc liên hệ trực tiếp với đơn vị cung cấp
thông tin, thu thập qua internet, sách báo, tạp chí, tài liệu xuất bản.
Về phương pháp xử lý, phân tích thông tin, dữ liệu: đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Đề tài có mục đích nghiên cứu lý luận, rà soát, đề xuất hoàn thiện quy định
pháp luật bảo vệ môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu của Việt Nam, do đó
để thực hiện được mục tiêu nói trên, đề tài xác định các nhiệm vụ sau:
(i) Nghiên cứu cơ sở lý luận về phế liệu và hoạt động nhập khẩu phế liệu;
(ii) Rà soát pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu và thực
trạng thi hành trong hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam;
(iv) Đề xuất hoàn thiện pháp luật môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, làm rõ tính tính thống nhất của các văn bản
hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường về nhập khẩu phế liệu phế liệu với hệ thống

4


pháp luật hiện hành có liên quan, từ đó, đề tài sẽ đánh giá thực trạng quy định pháp
luật và thực tiễn áp dụng và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được bố cục nội dung chính
gồm 3 chương như sau:
Chương I. Lý luận về nhập khẩu phế liệu và pháp luật môi trường trong hoạt
động nhập khẩu phế liệu;
Chương II. Thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu ở Việt Nam;
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật môi trường trong
hoạt động nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam.

5


Chương 1: LÝ LUẬN VỀ NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU VÀ

PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG TRONG HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU PHẾ LIỆU
1.1. Khái quát về phế liệu và hoạt động nhập khẩu phế liệu
1.1. 1. Khái niệm phế liệu
Xung quanh khái niệm phế liệu và các khái niệm có liên quan, đến nay vẫn
còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để trên cả phương diện lý luận cũng như
luật thực định. Trong khi đó, một vật chất cụ thể nào đó được nhìn nhận là sản
phẩm hay là phế liệu hoặc là chất thải có vai trò quyết định trong việc áp dụng
những quy định khác nhau của pháp luật.
Dưới giác độ môi trường, việc xem xét, đánh giá một vật chất là phế liệu hay
là chất thải có ý nghĩa quyết định trong việc áp dụng các quy định khác nhau của
pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu, như về điều kiện nhập khẩu, kiểm
soát hoạt động nhập khẩu và trách nhiệm pháp lý khi xuất hiện hành vi vi phạm.
Trong điều kiện như vậy, việc làm rõ những tiêu chí cơ bản và bản chất pháp lý của
khái niệm phế liệu có ý nghĩa quan trọng, là một nội dung trọng tâm cho việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật môi trường nói chung và pháp luật môi
trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu nói riêng.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa: “Phế liệu là vật
bỏ đi từ những nguyên liệu đã qua chế biến" [12, tr. 776]. Theo cách hiểu này, tất cả
những vật chất phát sinh sau quá trình sử dụng nguyên liệu bị chủ sở hữu bỏ đi đều
trở thành phế liệu. Điều này đồng nghĩa với việc, phế liệu chỉ phát sinh trong quá
trình sản xuất của con người. Về quy định pháp lý, khái niệm phế liệu được định
nghĩa lần đầu tiên tại khoản 1 Điều 3 Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 02
tháng 4 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành
quy định về bảo vệ môi trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất,

6


trong đó quy định: “Phế liệu là sản phẩm, vật liệu được loại ra trong sản xuất hoặc

tiêu dùng nhưng đáp ứng yêu cầu làm nguyên liệu sản xuất, bao gồm:
a) Nguyên liệu thứ phẩm là nguyên liệu không đáp ứng yêu cầu về quy cách,
phẩm chất để sản xuất một loại sản phẩm nhất định nhưng có thể được gia công để
sản xuất lại sản phẩm ấy hoặc để sản xuất các loại sản phẩm khác;
b) Nguyên liệu vụn là nguyên liệu được loại ra của một quá trình sản xuất
(đầu mẩu, đầu tấm, đầu cắt, phoi, sợi rối, mảnh vụn);
c) Vật liệu tận dụng là vật liệu đồng nhất về chất được tháo gỡ, bóc tách, thu
hồi từ sản phẩm đã qua sử dụng hoặc từ thứ phẩm, phế phẩm”.
Tiếp đến, Luật Bảo vệ môi trường 2014 định nghĩa phế liệu tại khoản 13 Điều
3 như sau: “Phế liệu là vật liệu được thu hồi, phân loại, lựa chọn từ những vật liệu,
sản phẩm đã bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng để sử dụng làm nguyên
liệu cho một quá trình sản xuất khác”.
Như vậy, mặc dù có sự khác biệt về việc sử dụng một số từ ngữ nhưng có thể
thấy giữa các định nghĩa này không có sự khác biệt về bản chất. Theo các định
nghĩa trên, vật chất sẽ trở thành phế liệu khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí sau:
Thứ nhất, là sản phẩm hoặc vật liệu. “Sản phẩm” là những thứ do lao động
của con người tạo ra [12, tr.114]. Các sản phẩm mà con người tạo ra có thể tồn tại
dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Dưới góc độ luật môi trường thì đó chỉ có thể là
những sản phẩm tồn tại dưới dạng vật thể thuộc thành phần môi trường. Do đó,
những sản phẩm phi vật thể không thuộc khái niệm phế liệu. “Vật liệu” là những vật
để làm cái gì đó [12, tr.1107]. Như vậy, vật liệu có thể là những vật chất từ tự nhiên
hoặc đã qua chế biến để có thể sử dụng trong sản xuất.
Thứ hai, bị loại bỏ từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng.
“Bị loại bỏ” được hiểu là các sản phẩm hoặc vật liệu được đưa ra khỏi quá
trình sản xuất hoặc tiêu dùng. Đối với hoạt động tiêu dùng, được coi là “bị loại bỏ”
khi chủ sở hữu không đưa nó vào khai thác giá trị, công dụng của vật chất đó. Trong
trường hợp sản xuất, hành vi “loại bỏ” cần có sự phân biệt giữa hành vi của người

7



trực tiếp sản xuất (công nhân) với hành vi loại bỏ của chủ sở hữu hoặc người đại
diện hợp pháp của chủ sở hữu. Chỉ được nhìn nhận là “được loại bỏ” khỏi quá trình
sản xuất khi chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu chủ động từ bỏ ý định sử
dụng sản phẩm hoặc vật liệu đó vào quá trình sản xuất và tiêu dùng. Điều này có
nghĩa là một vật chất tồn tại dưới dạng phế liệu hay không phụ thuộc vào hành vi
của chủ sở hữu (hoặc người đại diện hợp pháp) sản phẩm hoặc vật liệu đó. Hành vi
từ bỏ của chủ sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động.
Thứ ba, được thu hồi, phân loại, lựa chọn để sử dụng làm nguyên liệu cho một
quá trình sản xuất khác.
Sản phẩm hoặc vật liệu có trở thành phế liệu hay không phụ thuộc vào việc
đánh giá trên thực tế đối với hành vi “từ bỏ ý định khai thác giá trị, công dụng” của
chủ sở hữu và phải được xem xét một cách cụ thể đối với từng trường hợp, như thu
hồi để bán dưới hình thức hàng hóa, để sử dụng làm nguyên liệu hoặc để xử lý. Khó
có thể đưa ra những nguyên lý chung cho việc đánh giá mục đích thu hồi của chủ sở
hữu. Trên thực tế, việc đánh giá mục đích thu hồi chỉ có thể thực hiện được trong
những trường hợp cụ thể thông qua việc xem xét, đánh giá hành vi, biểu hiện của
chủ sở hữu.
1.1.2. Phân biệt khái niệm phế liệu với khái niệm chất thải
Cùng với khái niệm phế liệu, Luật Bảo vệ môi trường 2014 còn đề cập tới một
khái niệm khác là «chất thải». Định nghĩa chất thải được đưa ra tại khoản 12 Điều 3
Luật Bảo vệ môi trường 2014 như sau: “Chất thải là vật chất được thải ra từ sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Theo định nghĩa này,
vật chất sẽ trở thành chất thải khi đáp ứng: Thứ nhất, vật chất bị chủ sở hữu thải ra
trong các hoạt động của mình, cả trường hợp chủ động và bị động, sẽ trở thành chất
thải. Thứ hai, vật chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi chủ sở hữu hoặc người
sử dụng hợp pháp thải ra cho tới khi đưa nó vào sử dụng trong một chu trình sản
xuất hoặc chu trình sử dụng khác [23, tr.43].

8



Căn cứ các khái niệm về chất thải và phế liệu, có thể phân biệt: Thứ nhất, các
yếu tố có thể trở thành chất thải bao gồm các loại vật chất trong đó có sản phẩm và
vật liệu, là yếu tố có thể trở thành phế liệu. Thứ hai, với phế liệu, việc từ bỏ giá trị,
công dụng của chủ sở hữu vật chất mang tính chủ động. Tuy nhiên, với chất thải,
việc từ bỏ giá trị công dụng của chủ sở hữu vật chất bao gồm cả trường hợp chủ
động và bị động. Thứ ba, khái niệm chất thải không đề cập tới mục đích sau quá
trình thải ra và pháp luật coi thu hồi là một trong những nghĩa vụ của người sản sinh
chất thải. Trong khi đó, mục đích “sử dụng làm nguyên liệu cho một quá trình sản
xuất khác” là một tiêu chí của khái niệm phế liệu. Tiêu chí “sử dụng làm nguyên
liệu cho một quá trình sản xuất khác” là tiêu chí mang tính định tính, khó có thể
đánh giá được một chất thải cụ thể được thu hồi có thể “dùng làm nguyên liệu” cho
một chu trình sản xuất nào đó, được thực hiện ở đâu đó trên lãnh thổ Việt Nam hoặc
trên thế giới hay không. Thực tế, pháp luật các nước không sử dụng tiêu chí này để
xác lập khái niệm phế liệu và từ đó không phân biệt phế liệu với chất thải mà chỉ sử
dụng khái niệm duy nhất: chất thải (tiếng Anh: waste, tiếng Đức: Abfall), kể cả
trong trường hợp thu hồi để tái chế, tái sử dụng và trường hợp thu hồi để xử lý.
Theo phụ lục I của Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy
hiểm qua biên giới và việc tiêu hủy chúng, hoạt động thu hồi để tái sử dụng cũng là
một công việc tiêu hủy và vì vậy, vật chất thải ra của các hoạt động khác nhau
nhưng được thu hồi “dùng làm nguyên liệu” cũng là chất thải [21, tr.30]. Do đó, chỉ
có thể căn cứ vào khả năng sử dụng của chất thải, mới có thể phân loại chất thải
thành hai loại: chất thải không còn giá trị sử dụng (chất thải cuối cùng) và chất thải
còn khả năng sử dụng vào sản xuất (phế liệu).
Từ đây có thể khẳng định rằng, nội hàm của khái niệm chất thải rộng hơn và
bao trùm cả khái niệm phế liệu. Hay nói một cách khác, phế liệu cũng chỉ là một
dạng của chất thải. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 cấm nhập khẩu
chất thải dưới mọi hình thức nhưng lại cho phép nhập khẩu phế liệu để phục vụ cho
quá trình sản xuất công nghiệp. Vì vậy, việc phân định giữa phế liệu và chất thải là

rất quan trọng. Đồng thời việc quản lý quá trình nhập khẩu và xử lý phế liệu cũng

9


đòi hòi phải có quy định rõ ràng cụ thể để đảm bảo các doanh nghiệp không nhập
khẩu “nhầm” chất thải.
1.1.3. Khái niệm hoạt động nhập khẩu phế liệu
Khi xem xét hoạt động nhập khẩu phế liệu, có thể đặt trong mối quan hệ với
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật điều chỉnh mối quan hệ đó. Dưới
góc độ này, hoạt động nhập khẩu phế liệu có thể được tiếp cận theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học giải thích
« Nhập khẩu là việc đưa hàng hóa hay tư bản của nước ngoài vào nước mình. Theo
định nghĩa này, hoạt động đưa hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam là hoạt động
nhập khẩu» [12, tr.73].
Theo nghĩa rộng, hoạt động nhập khẩu phế liệu bao gồm tất cả những hành vi
tác nghiệp ngoại thương hay còn gọi là “hoạt động ngoại thương” hoặc “hoạt động
mua bán hàng hóa quốc tế” để thương nhân Việt nam có thể sở hữu đối với phế liệu.
Các hành vi này, gồm: tìm kiếm đối tác; thực hiện hoạt động mua bán; thực hiện
nghĩa vụ tài chính theo quy định... Các hoạt động này có thể cấu thành bởi các hoạt
động khác, ví dụ như thực hiện hoạt động mua bán gồm ký kết và thực hiện hợp
động; hoạt động thực hiện hợp đồng lại bao gồm các hoạt động cơ bản như: vận
chuyển, thanh toán, giao hàng, thủ tục hải quan.
Với cách hiểu này, Điều 28 khoản 2 Luật Thương mại năm 2005 xác định:
“Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước
ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật.”
Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 giải thích: “Hoạt động ngoại thương là
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất; tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh và các

hoạt động khác có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định
của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên”. Đồng thời, tại Khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý ngoại thương cũng định

10


nghĩa thêm về khu vực hải quan riêng như sau: “Khu vực hải quan riêng là khu vực
địa lý xác định trên lãnh thổ Việt Nam được thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên; có quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa với phần lãnh thổ còn lại và
nước ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu”.
Như vậy, được xem là hoạt động nhập khẩu không chỉ là việc đưa hàng hóa từ
nước ngoài vào Việt Nam mà còn bao gồm hoạt động đưa hàng hóa từ nhưng khu
vực có quy chế đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam ra bên ngoài khu vực này và vào thị
trường Việt Nam. Tuy nhiên, khi xem xét dưới góc độ môi trường, những nguy cơ
gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và sức khỏe con người trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu chỉ phát sinh từ hành vi vận chuyển những phế liệu không đảm bảo
chất lượng về môi trường hoặc chất thải độc hại vào Việt Nam. Các hành vi khác
như: tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng... không làm ảnh hưởng tới môi trường. Do
đó, khi xem xét trong Luận văn này, chỉ xem xét nhập khẩu phế liệu có ảnh hưởng
tới môi trường và vì vậy khái niệm nhập khẩu phế liệu sẽ được tiếp cận theo nghĩa
hẹp. Như vậy, hoạt động nhập khẩu phế liệu là việc thương nhân đưa phế liệu từ
quốc gia khác vào Việt Nam hoặc đưa phế liệu từ những khu vực có quy chế thương
mại đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam ra ngoài khu vực đó một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp qua người được ủy thác với mục đích phục vụ sản xuất và do đó sẽ không
bao gồm hoạt động tạm nhập tái xuất, quá cảnh [7, tr.20-23].
1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật môi trường trong hoạt động nhập
khẩu phế liệu
Hoạt động nhập khẩu phế liệu, khi được pháp luật thừa nhận, là hoạt động

thương mại quốc tế. Hoạt động này một mặt chịu sự điều tiết của quy luật thị
trường, mặt khác chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, mà cụ thể là pháp luật do
Nhà nước ban hành. Phế liệu là những vật chất người chủ sở hữu không mong muốn
sử dụng và phải áp dụng những biện pháp thải bỏ, mặc dù có thể hữu ích cho người
khác. Theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá, chủ sở hữu phải chi trả
những chi phí này. Do đó, giá của phế liệu rất rẻ, nhiều trường hợp không phải trả

11


tiền, thậm chí còn có thể được nhận thêm chi phí xử lý. Nhiều trường hợp, vì lợi ích
kinh tế, thương nhân nhập khẩu chất thải độc hại dưới hình thức nhập khẩu phế liệu.
Mâu thuẫn giữa lợi ích mà thương nhân nhận được từ việc thực hiện hoạt động nhập
khẩu với lợi ích môi trường của cộng đồng từ nhập khẩu phế liệu sẽ xuất hiện. Nhà
nhập khẩu thì thu được lợi nhuận còn môi trường thì có nguy cơ bị hủy hoại. Do đó,
cần có sự can thiệp từ Nhà nước, kiểm soát hoạt động nhập khẩu chất thải và phế
liệu nhằm bảo đảm lợi ích môi trường của cộng đồng. Một trong những công cụ mà
Nhà nước có thể sử dụng để kiểm soát hoạt động này là pháp luật. Từ đây xuất hiện
pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu. Pháp luật môi trường là một
lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc
pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác,
sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết
hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ môi trường một cách có
hiệu quả mô trường sống của con người [11, tr.37]. Như vậy, đối tượng điều chỉnh
của luật môi trường là những mối quan hệ phát sinh trong quá trình con người khai
thác, sử dụng hoặc tác động đến môi trường và quy phạm pháp luật môi trường
được ban hành và thực thi nhằm bảo vệ môi trường sống của con người.
Quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật môi trường có thể được phân
loại theo hai nhóm sau đây:
(i) Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình con người thực hiện hoạt động

khai thác, sử dụng các thành phần môi trường như nguồn nước; thủy sản, rừng,
khoáng sản. (ii) Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình con người tạo ra hoặc có
nguy cơ tạo ra những tác động đến một hoặc một vài thành phần môi trường như
hoạt động phát triển, hoạt động sử dụng những chất có nguy cơ cao cho môi trường
như chất nổ, chất phóng xạ, hoạt động có liên quan đến chất thải như sản sinh ra
chất thải, xử lý chất thải, xuất nhập khẩu chất thải .... Theo cách phân loại này, mối
quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hành vi nhập khẩu phế liệu thuộc đối
tượng điều chỉnh của luật môi trường. Các quy phạm pháp luật môi trường điều
chỉnh nhóm quan hệ này nhằm mục đích loại trừ hoặc hạn chế các nguy cơ cho môi
trường và sức khỏe của con người do hoạt động nhập khẩu phế liệu gây ra. Hệ

12


thống các quy định của pháp luật môi trường liên quan đến hoạt động nhập khẩu
phế liệu chủ yếu là:
Thứ nhất, phế liệu được phép nhập khẩu: Phế liệu là một loại hàng hóa đặc
biệt vì nó có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Do đó, Nhà nước cần có
những quy định chuyên biệt về điều kiện nhập khẩu phế liệu.
Quy định về điều kiện đối với phế liệu được phép nhập khẩu xác định những
loại phế liệu được phép nhập khẩu, loại phế liệu không được phép nhập khẩu và
điều kiện về bảo vệ môi trường cần đáp ứng đối với phế liệu được phép nhập khẩu.
Thứ hai, điều kiện chủ thể nhập khẩu phế liệu: Nhập khẩu, trong đó có nhập
khẩu phế liệu là một trong những hoạt động thương mại, theo đó chủ thể kinh doanh
phải đáp ứng những điều kiện nhất định theo quy định của luật thương mại mới
được quyền kinh doanh trong ngành, nghề, lĩnh vực đó, cụ thể ở đây là điều kiện
chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các điều kiện về giao kết hợp
đồng. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thương mại, để có đủ tư cách pháp lý
thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhập khẩu phế liệu), các nhà kinh doanh
(thương nhân) còn phải thực hiện hoạt động đăng ký kinh doanh và được cơ quan

có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Luật Doanh nghiệp; Luật
Hợp tác xã)
Ngoài ra, đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì thương nhân
còn phải được cấp giấy phép kinh doanh, mà giấy phép này rất đa dạng về hình
thức: giấy chứng nhận đủ điều kiện, giấy phép hoạt động, giấy phép kinh doanh,
giấy xác nhận, thông báo chấp thuận. Tương tự như vậy, thực hiện hoạt động nhập
khẩu phế liệu, các thương nhân kinh doanh phải đồng thời đáp ứng nhiều điều kiện
theo quy định của pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành. Pháp luật chung: yêu
cầu về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; điều kiện về đăng ký kinh
doanh. Pháp luật riêng: điều kiện về giấy phép kinh doanh chuyên ngành, điều kiện
về cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ thể nhập khẩu phế liệu nhằm đảm bảo cho quá
trình vận chuyển, lưu giữ, bao quản, tái chế phế liệu và xử lý chất thải có trong phế
liệu phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường. Đồng thời, về mặt quản lý nhân sự, chủ
thể này cũng cần những cán bộ có chuyên môn phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện

13


hoạt động quản lý phế liệu nhập khẩu. Như vậy, phù hợp với các định hướng pháp
luật, các quy định cụ thể về chủ thể nhập khẩu phế liệu không chỉ được xây dựng
trên cơ sở khả năng hiện tại của các cơ sở tái chế phế liệu và xử lý chất thải mà còn
phải đảm bảo việc nâng cao khả năng này trong tương lai.
Thứ ba, trình tự, thủ tục kiểm soát, cơ quan thực hiện hoạt động kiểm soát
khi các chủ thể thực hiện hoạt động nhập khẩu:
Các quy định về trình tự, thủ tục kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu có
vai trò quan trọng đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đối với cả chính
các chủ thể thực hiện hoạt động nhập khẩu phế liệu, cụ thể: các quy định này xác
định thứ tự và nội dung thực hiện hoạt động kiểm soát của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Các quy định này càng hợp lý thì việc quản lý, kiểm soát càng chặt
chẽ, tránh được sự tùy tiện, duy ý chí; đồng thời hoạt động kiếm soát nhập khẩu phế

liệu càng thống nhất và ít xảy ra các vưỡng mắc. Còn đối với các nhà nhập khẩu,
khi tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục nhập khẩu phế liệu, các chủ thể
này càng ít gặp các rủi ro về mặt pháp lý, từ đó sẽ giảm bớt thiệt hại về kinh tế cũng
như thời gian để tập trung sản xuất. Tuy nhiên, để vai trò này được thực hiện, thì
các trình tự, thủ tục nhập khẩu phế liệu phải đáp ứng các nguyên tắc như sau:
- Trình tự, thủ tục này phải được xây dựng trên cơ sở nhu cầu bảo vệ môi
trường trước những tác hại có thể gây ra từ hoạt động nhập khẩu phế liệu và các
trình tự, thủ tục này phải thực sự cần thiết và ở mức chấp nhận được, nghĩa là nó
phải phù hợp với mặt bằng thực hiện của các các chủ thể hập khẩu phế liệu, đồng
thời nó được xây dựng lên trên nhu cầu tự thân của hoạt động quản lý.
- Trình tự, thủ tục này phải đảm bảo tính phòng ngừa trước những ảnh hưởng
tiêu cực cho môi trường và phát triển kinh tế. Để làm được điều này thì hoạt động
kiểm soát này phải thực hiện ngày từ trước khi doanh nghiệp thực hiện hoạt động
vận chuyển phế liệu vào Việt Nam.
- Trình tự thủ tục này phải đảm bảo tinh khả thi với cả chủ thể nhập khẩu phế
liệu và cả cơ quan quản lý nhà nước. Nghĩa là, phải phù hợp với điều kiện đáp ứng
và khả năng thực hiện, phải tình toán về chi phí tuân thủ để đảm bảo khả thi và hiệu quả.

14


- Hoạt động kiểm soát này phải thống nhất từ khâu trước, trong thông quan và
phải có hoạt động giám sát sau thông quan. Có như vậy, mới có thể đảm bảo được
môi trường từ khi nhập khẩu đến khi đưa phế liệu nhập khẩu vào sử dụng. Như vậy,
để đáp ứng được các nguyên tắc này thì hoạt động kiểm soát nhập khẩu phế liệu
phải bao gồm những quy định như sau:
- Quy định trách nhiệm thông bao hoặc xin phép của chủ thể nhập khẩu trước
khi tiến hành hoạt động nhập khẩu (vận chuyển phế liệu), các thông tin cần thông
báo gồm: thương nhân và quốc gia xuất khẩu (cho mục đích truy suất nguồn gốc),
số lượng và chất lượng của phế liệu nhập khẩu, xác nhận của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền của nước xuất khẩu vế số lượng, chất lượng của phế liệu nhập khẩu; địa
điểm của cửa khẩu nhập khẩu, thời gian dự kiến nhập khẩu đến địa điểm cửa khẩu
nhập khẩu. Các yêu cầu này phải được chủ thể tiến hành trước khi vận chuyển phế
liệu sang Việt Nam.
- Quy định về tiếp nhận thông báo, thời gian xem xét và trả lời của cơ quan
tiếp nhận thông báo, giá trị pháp lý của văn bản trả lời.
- Thủ tục hải quan: các giấy tờ cần thiết khi làm thủ tục hải quan; quy trình thủ
tục kiểm hóa của cơ quan hải quan và nội dung kiểm soát cần có sự phối hợp của cả
cơ quan hải quan và cơ quan về môi trường.
- Quy định sau thông quan: các giấy tờ cần thiết để lưu thông tin về phế liệu
nhập khẩu và quy định về giám sát trong quá trình vận chuyển, sử dụng phế liệu
nhập khẩu.
Thứ tư, các quy định về thẩm quyền của cơ quan kiểm soát hoạt động nhập
khẩu phế liệu
Mô hình kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu hiệu quả cần có sự kết hợp
của cả cơ quan hải quan và cơ quan quản lý về môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả
thực tế của mô hình này lại phụ thuộc vào việc thực thi các quy định về thẩm quyền
của các cơ quan và sự phối kết hợp của các cơ quan này. Do đó, đối với pháp luật,
để mô hình này hiệu quả, các quy định pháp luật về thẩm quyền của các cơ quan
nhà nước kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu phải đảm bảo [7, tr.65]:

15


Một là, pháp luật phải quy định rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan hải quan
và cơ quan quản lý về môi trường. Từng nội dung trong trình tự, thủ tục kiểm soát
hoạt động nhập khẩu phế liệu phải được pháp luật trao quyền cho từng cơ quan.
Trong đó, phải lưu ý đến vấn đề phối kết hợp giữa các cơ quan này để đảm bảo việc
thực thi là thống nhất, nhịp nhàng.
Hai là, Nhà nước phải đảm bảo các điều kiện cận thiết cho việc thực hiện

chức năng kiểm soát của các cơ quan này. Các điều kiện này bao gồm: nhân lực, tài
chính, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động kiểm soát, công cụ thực hiện hoạt động
kiểm soát.
Ba là, các quy định về thẩm quyền của của các cơ quan này phải đảm bảo hiệu
quả về mặt kinh tế và hiệu quả về mặt quản lý. Tuy nhiên, làm thế nào để cân đối về
cả hai mặt này cũng là một yêu cầu khó khăn, thường thì nhà nước nên tính toán để
không sử dụng quá nhiều nhân lực mà nên hiện đại hóa vật chất, kỹ thuật, trước mắt
thì chưa hẳn hiệu quả về mặt kinh tế, nhưng về lâu dài sẽ mang lại hiệu quả theo cả
hai mặt như trên.
Bốn là, các quy định về thẩm quyền, về nhiệm vụ phải thể hiện sự minh bạch
của quá trình kiểm soát. Các quy định này phải xác định trách nhiệm của hoạt động
kiểm soát phải rõ ràng về mặt thời gian, kết quả của hoạt động kiểm soát; trách
nhiệm khi vi phạm các quy định về thời gian hoặc không thực hiện đúng trách
nhiệm. Việc quy định đảm bảo tính minh bạch trong quá trình kiểm soát sẽ trách
được nguy cơ dẫn đến sự lạm quyền, tham nhũng của các cơ quan này. Để đáp ứng
các nguyên tắc trên thì thẩm quyền của các cơ quan được quy định như sau:
a) Cơ quan quản lý về môi trường
- Thẩm tra điều kiện đối với doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu
- Thẩm quyền thẩm tra hồ sơ về hoạt động nhập khẩu phế liệu của doanh
nghiệp. - Phối hợp với cơ quan hải quan trong hoạt động kiểm tra, giám sát ở cửa
khẩu: trong trường hợp cần thiết, đặc biệt là trong trường hợp xuất hiện những dấu
hiệu vi phạm pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, với tư cách là cơ
quan quản quản lý nhà nước chuyên ngành, cần phối hợp với cơ quan hải quan thực
hiện hoạt động kiểm tra, giảm sát những hành vi nhập khẩu phế liệu. Như vậy, pháp

16


luật cần xác định những trường hợp cần có sự kết hợp giữa hai cơ quan này; trong
đó phải xác định được nhiệm vụ nào do cơ quan nào chủ trì, cơ quan nào phối hợp. Giám sát quá trình sử dụng phế liệu nhập khẩu: Pháp luật cần quy định trách nhiệm

giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Các loại giấy tờ cần thiết để
giám sát. - Trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm:
b) Thẩm quyền của cơ quan hải quan
- Kiểm tra hồ sơ hải quan
- Kiểm tra thực tế phế liệu nhập khẩu
- Phát hiện và ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
Thứ năm, trách nhiệm pháp lý khi xuất hiện hành vi vi phạm pháp luật môi
trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu:
Để đảm bảo xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, tránh những hậu quả
do hành vi vi phạm pháp luật môi trường kéo dài gây ra, pháp luật cần quy định cụ
thể trách nhiệm pháp lý khi xuất hiện hành vi vi phạm và thẩm quyền xử lý vi phạm
pháp luật.
Trong khoa học pháp lý, vi phạm pháp luật được định nghĩa là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý . Tương tự, vi phạm pháp luật môi trường về hoạt
động nhập khẩu phế liệu là hành vi không tuân thủ các quy định của pháp luật môi
trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Vi phạm pháp luật môi trường về hoạt động
nhập khẩu phế liệu là một dạng vi phạm pháp luật, do đó chủ thể của hành vi vi
phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý. Các trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người
có hành vi vi phạm này không những buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp
lý mà còn phải có tính chất răn đe, phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm
trong tương lai, đồng thời phải hạn chế hoặc loại trừ những ảnh hưởng xấu cho môi
trường của hành vi vi phạm pháp luật gây ra [7, tr.60].
Do đó, trường hợp tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động nhập khẩu phế liệu thì tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý vi phạm theo các
quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, trách nhiệm dân sự hoặc hình sự.

17



- Trách nhiệm hành chính: được áp dụng khi tổ chức, cá nhân không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật môi trường
về hoạt động nhập khẩu phế liệu. Nội dung của trách nhiệm hành chính phải xác
định được: Đối tượng và hành vi vi phạm; các trách nhiệm hành chính cùng với các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; trình tự thủ tục và thẩm quyền áp dụng.
- Trách nhiệm dân sự: Trách nhiệm dân sự xuất hiện khi phế liệu nhập khẩu
gây ảnh hưởng xấu cho môi trường, gây thiệt hại cho người khác. Trách nhiệm này
sẽ bù đắp được những thiệt hại xảy ra cho người bị thiệt hại nhằm thiết lập lại
những quyền của những người có liên quan. Khi xác định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, cần xem xét về các đặc thù của thiệt hại trong lĩnh vực môi trường.
- Trách nhiệm hình sự: Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm nghiêm khắc nhất
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật môi trường vè hoạt động nhập khẩu phế
liệu. Trách nhiệm hình sự được áo dụng đối với những trường hợp các đối tượng có
hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường khi các mục đích răn đe, giáo
dục và việc áp dụng các trách nhiệm khác không đạt được kết quả mong muốn [7,
tr. 69-71]. Ví dụ: Khi tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu có các hành vi vi phạm
hành chính về bảo vệ môi trường thì phải chịu chế tài xử phạt theo quy định tại
Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 02 năm 2017) và nếu hành vi vi pham có cấu thành tội phạm thì
người vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật hình sự. Trường hợp, gây thiệt hại sẽ phải
bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, hoạt động nhập khẩu phế liệu còn là một hoạt động mua bán hàng
hóa quốc tế nên nó chịu sự điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này gồm: Pháp luật
về hợp đồng trong thương mại quốc tế; Pháp luật về thanh toán quốc tế; Pháp luật
về kiểm dịch động vật, thực vật; Pháp luật về thuế; Pháp luật về hải quan; Pháp luật
về ngoại thương: trong đó chủ yếu là điều kiện đối với hành hóa nhập khẩu.
Căn cứ vào mục đích của các nhóm quy phạm trên thì pháp luật về hải quan và
pháp luật về điều kiện đối với hàng hóa nhập khẩu là hai lĩnh vực pháp lý tác động

trực tiếp đến bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu phế liệu. Các nhóm quy

18


định này chủ yếu là: (i) Kiểm soát hoạt động nhập khẩu đối với hàng hóa là phế liệu
và (ii) Các điều kiện cần đáp ứng khi nhập khẩu phế liệu (các loại giấy phép, điều
kiện đối với phế liệu được phép nhập khẩu).
Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định: pháp luật môi trường
về hoạt động nhập khẩu phế liệu có sự đan xen và giao thoa với pháp luật về hoạt
động nhập khẩu hàng hóa. Do đó, nó bao gồm:
- Điều kiện về phế liệu được phép nhập khẩu
- Điều kiện chủ thể nhập khẩu phế liệu
- Trình tự, thủ tục kiểm soát, cơ quan thực hiện hoạt động kiểm soát khi các
chủ thể thực hiện hoạt động nhập khẩu và sau hoạt động nhập khẩu
- Trách nhiệm pháp lý khi xuất hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường
trong hoạt động nhập khẩu phế liệu.
Tóm lại, có thể hiểu pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu là
tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh cac quan hệ xã
hội liên quan trực tiếp đến quá trình con người tiến hành hoạt động nhập khẩu phế
liệu, nhằm bảo vệ có hiệu quả môi trường sống của con người [7, tr.31].
1.3. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu
1.3.1. Vai trò đối với việc bảo đảm lợi ích kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất với
giá thành rẻ là một trong những điều kiện để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển,
do đó, nhu cầu sử dụng phế liệu, trong đó có phế liệu nhập khẩu là một giải pháp
được các chủ thể sản xuất hướng đến.Chính vì thế, quy định của pháp luật môi
trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu phải phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp
và của nền kinh tế. Các nhu cầu này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhu cầu về nguyên liệu phục vụ cho sản xuất ngày càng tăng nhằm

thỏa mãn mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước và thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
ngày càng tăng của người dân. Do nguồn tài nguyên làm nguyên liệu phục vụ sản
xuất là hữu hạn và năng lực khai thác, chế biến cung cấp nguyên liệu trong nước

19


×