Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

cảm thức dân tộc trong Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.36 KB, 95 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

CÔNG TRÌNH THAM GIA
GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC EURÉKA
LẦN THỨ XIX NĂM 2017

CẢM THỨC DÂN TỘC
TRONG PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÝ
CỦA PHẠM QUỲNH

LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN: VĂN HỌC VIỆT NAM
SINH VIÊN: ĐINH THỊ OANH


1
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Những thập niên vừa qua, thế giới và Việt Nam có nhiều biến động; kéo theo
là sự mờ nhòa về văn hóa. Chưa bao giờ tính dân tộc được bàn đến một cách kĩ
lưỡng, được nhiều nhà nghiên cứu văn học quan tâm đến như vậy. Đặt trường hợp
Phạm Quỳnh qua điểm nhìn dân tộc hẳn có rất nhiều vấn đề cần bàn tới. Lịch sử
vẫn nhìn về ông như một người vừa có ưu vừa có khuyết, vừa có công vừa có tội
đối với Tổ quốc. Thật vậy, mỗi con người là một sản phẩm của lịch sử. Đánh giá
đúng về một con người trong quá khứ, đặc biệt là con người sống trong những thay
đổi có tính giao thời cao như trường hợp Phạm Quỳnh thật không đơn giản chút
nào. Chúng tôi qua công trình này muốn đóng góp thêm một cái nhìn về ông qua đề
tài Cảm thức dân tộc trong “Pháp du hành trình nhật ký” của Phạm Quỳnh.


Công trình chủ yếu chỉ nghiên cứu về ông như một tác giả văn học và ở một tác
phẩm du kí cụ thể.
Du kí là một thể của kí và kí là một thể loại văn học viết về người thật việc
thật. Vì vậy, khai thác tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh, chúng tôi thiết nghĩ sẽ tìm
được những nỗi niềm sâu kín của ông mà có thể con người chính trị không trực tiếp
nói ra được.
Bằng một số phương pháp văn hóa học, phương pháp liên ngành ngữ văn,
tiếp cận lịch sử - xã hội và vận dụng các thao tác thống kê, so sánh, lập luận, chúng
tôi tiến hành tìm hiểu nhằm bao quát các góc độ “cảm thức dân tộc” của tác phẩm
Pháp du hành trình nhật ký bao trùm từ nội dung tư tưởng đến thể loại và việc sử
dụng ngôn ngữ.
Ở phương diện nội dung, Pháp du hành trình nhật ký đã thể hiện được tư
tưởng dân tộc tiến bộ với việc chọn lựa đề tài thu hút được cái nhìn của công chúng.
Tác phẩm là cái nhìn của một người con trí thức Việt Nam trước nền văn minh
phương Tây với một khát vọng lớn lao canh tân nước nhà trên mặt trận văn hóa.
Ở phương diện thể loại và ngôn ngữ, Pháp du hành trình nhật ký có sự kế
thừa thể loại du kí trung đại và cách tân nó theo chiều hướng phương Tây, làm cho
thể loại du kí hòa nhịp được với hơi thở của thời đại. Qua việc sử dụng hệ thống
ngôn ngữ, Phạm Quỳnh đã góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện chữ quốc ngữ.
Ông nhập tịch vào hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt các thuật ngữ khoa học và góp
phần hiện đại hóa các từ ngữ trước đó còn mang tính cổ. Với lối diễn đạt của Pháp
du hành trình nhật ký, ngôn ngữ dân tộc được nâng lên một bậc khá cao về độ rõ
ràng và duyên dáng.


2

MỤC LỤC
1. Đặt vấn đề............................................................................................................3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................................3

2.1 Những công trình, bài viết về du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX....................3
2.2 Những công trình, bài viết về du kí trên Nam phong Tạp chí...........................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................8
4. Mục tiêu - Phương pháp nghiên cứu..................................................................8
4.1 Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................8
4.2 Phương pháp nghiên cứu..................................................................................8
5. Kết quả - Thảo luận.............................................................................................8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG................................................................9
1.1 Mấy nét về đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX............9
1.1.1 Đời sống xã hội.............................................................................................9
1.1.2 Đời sống văn hóa........................................................................................10
1.2 Phạm Quỳnh – cuộc đời và văn nghiệp..........................................................11
1.2.1 Cuộc đời Phạm Quỳnh................................................................................11
1.2.2 Văn nghiệp..................................................................................................13
1.3 Tiến trình phát triển của du kí Việt Nam đến nửa đầu thế kỉ XX và Nam
Phong Tạp chí........................................................................................................16
1.3.1 Khái niệm du kí...........................................................................................16
1.3.2 Du kí Việt Nam thời kì trung đại.................................................................16
1.3.3 Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX...............................................................18
1.3.4 Nam Phong tạp chí với “Pháp du hành trình nhật ký”...............................20
1.4 Khái niệm Cảm thức dân tộc...........................................................................22
Chương 2: CẢM THỨC DÂN TỘC TRONG PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT
KÝ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG.......................................................24
2.1 Cảm thức dân tộc thể hiện qua đề tài.............................................................24
2.2 Cảm nhận nền văn minh từ điểm nhìn tính cách người Việt Nam..............40
2.3 Khát vọng canh tân đất nước, giữ gìn bản sắc dân tộc của Phạm Quỳnh...49
2.3.1 Thao thức với nền giáo dục:.......................................................................49
2.3.2 Khai phóng về tư tưởng...............................................................................54
Chương 3: CẢM THỨC DÂN TỘC TRONG PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT
KÝ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ..........................62

3.1 Góp phần hiện đại hóa nền văn học Việt Nam ở thể loại du kí....................62
3.1.1 Mở rộng đường biên thể loại......................................................................62
3.1.2 Đa dạng về cảm hứng sáng tác...................................................................64
3.2 Góp phần hoàn thiện chữ quốc ngữ...............................................................68
6. Kết luận và Đề nghị...........................................................................................89
7. Tài liệu tham khảo.............................................................................................91
DANH MỤC BẢNG BIỂU....................................................................................94


3

1. Đặt vấn đề
1.1 Những thập niên vừa qua, thế giới và Việt Nam có nhiều biến động; kéo theo
là sự mờ nhòa về văn hóa, giao thoa văn hóa và có thể đã và đang diễn ra hiện
tượng “xâm lăng” văn hóa. Chưa bao giờ tính dân tộc trong quan hệ với tính toàn
cầu được bàn đến một cách kĩ lưỡng, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến như
vậy. Ở nước ta, từ nghìn năm trước, nhiều tác phẩm văn học đã mang tính dân tộc.
Từ khi có văn học viết, tính dân tộc đã đậm đà trong những sáng tác của Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du,…; rồi khi có văn học viết bằng chữ quốc ngữ la tinh, tính dân tộc
càng sâu sắc hơn. Cho đến đầu thế kỉ XX, hàng loạt các nhà văn đã cưu mang một
cảm thức dân tộc sâu sắc và hoài thai nên những nét bút rất riêng. Trường hợp Phạm
Quỳnh nhìn từ góc nhìn dân tộc chưa bao giờ hết sôi nổi với những ý kiến trái chiều
giữa con người chính trị và con người văn học. Việc nhìn nhận lại lịch sử về ông
chắc chắn cần những cứ liệu xác đáng và những bộ óc vô tư, chân chính.
1.2 Trong nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu thường có xu hướng tập
trung vào những đối tượng mang tính truyền thống như tiểu thuyết, truyện, thơ,
kịch,…; còn những bộ phận văn học nằm giữa lằn ranh như tản văn, bút kí, hồi kí,
du kí,… thường ít được chú ý. Xu hướng này đã làm cho du kí Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX nhìn chung chưa trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu, trong khi du kí có vai trò quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt

Nam đầu thế kỷ XX. Tính cấp thiết ấy, như nhà nghiên cứu Phong Lê đã cho biết:
"(…) du ký trong hai thập niên trước mốc lịch sử 1930, thì đến bây giờ mới được
làm, trong khi đáng lẽ có thể làm sớm hơn" [16, tr.4].
Xuất phát từ tình hình trên, cùng với nhu cầu nhận thức đời sống văn học
hiện nay, đặc biệt là trường hợp Phạm Quỳnh, chúng tôi mạnh dạn triển khai đề tài
“Cảm thức dân tộc trong Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh”. Thực hiện
đề tài này, người nghiên cứu mong muốn đóng góp một góc nhìn về cảm thức dân
tộc của ngòi bút Phạm Quỳnh qua tác phẩm du kí. Bởi lẽ, du kí là một thể loại văn
học đặc biệt. Nó ghi lại được người thật việc thật, lưu giữ được những tâm trạng
chân thật nhất của nhà du kí trong những khoảnh khắc nhất định. Tìm về du kí là
cuộc hành trình tìm về con người của tác giả và vì vậy, đề tài Cảm thức dân tộc
trong “Pháp du hành trình nhật ký” của Phạm Quỳnh của chúng tôi hi vọng đóng
góp một cái nhìn mới, cái nhìn từ góc độ văn học về Phạm Quỳnh. Từ đó có thể góp
một tiếng nói cho việc đánh giá lại nhân vật lịch sử này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1 Những công trình, bài viết về du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
Tiếp cận từ phương diện thể tài, Nguyễn Hữu Sơn có nhiều bài nghiên cứu
như: Du ký viết về Sài Gòn – Gia Định nửa đầu thế kỷ XX từ điểm nhìn những năm
đầu thế kỷ XXI (Tạp chí Khoa học xã hội số 11/2008), Du ký của người Việt Nam
viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt – Pháp giai đoạn cuối thế kỷ XIX – nửa đầu


4
thế kỷ XX (Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 Việt Nam hội nhập
quốc tế và phát triển), Du ký viết về Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XX (Tạp chí Kiến thức
ngày nay số 688), Đạm Phương nữ sử và những trang du ký viết về xứ Huế (Tạp
chí Kiến thức ngày nay số 751), Du ký của người Việt Nam viết về các nước và
những đóng góp vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX, Thể tài văn xuôi du ký chữ Hán thế kỷ XVIII - XIX và những
đường biên thể loại (Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 5/2012). Trong một lần

trả lời phỏng vấn, Nguyễn Hữu Sơn đã khẳng định: “Du ký cần quan niệm như là
một thể tài. Thể tài du ký cần phải hiểu là nhấn về phía đề tài, nội dung và cảm
hứng nghệ thuật của người viết chứ không phải phía thể loại”.
Cùng với quan điểm của Nguyễn Hữu Sơn, trong bài Du ký như một thể tài
đăng trên báo Thể thao và Văn hóa (26/4/2007), Phạm Xuân Nguyên quan niệm:
“Đi và Thấy cảnh và người, sự và việc, rồi Viết ra cảnh ấy người ấy, sự ấy việc ấy,
kèm theo nghĩ suy, cảm xúc của mình, có khi còn là phân tích, khảo cứu, ấy là du
kí”. Ông đã đề cập đến ba thành tố của sự Đi: không gian đi, thời gian đi, thành
phần người đi để xác định tính chất của từng bài du kí. Trong bài Đọc sách để đi
chơi đăng trên báo Tuổi trẻ (23/3/2007), Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Đọc du kí,
để hiểu biết, có thêm thông tin tri thức là một lẽ. Đọc những tác phẩm du kí này
còn để hiểu thêm suy nghĩ, cảm xúc của những con người đứng ở buổi đầu nền văn
học hiện đại, muốn truyền tải và gửi gắm tới quốc dân trong một nước đang tìm
cách thoát lạc hậu đến văn minh”. Cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học do nhà
nghiên cứu Mã Giang Lân chủ biên cũng nói tới thể tài du kí: “Thể tài văn học đầu
tiên viết bằng chữ quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây là một hình thức bút ký văn
học được ghi lại bằng văn xuôi. Thuật lại những chuyến đi của tác giả đến những
vùng đất khác nhau. Nguồn gốc của du ký cần tìm trong những hình thức tùy bút,
ký sự truyền thống” [7].
Tiếp cận trên phương diện văn hóa, với bài Giá trị văn hóa và văn học của
du ký, Nguyễn Thúy Hằng tập trung khảo sát các tác phẩm trong bộ Du kí Việt
Nam trên Tạp chí Nam phong ở ba phương diện: tác giả, bối cảnh văn hóa – xã hội
và thể tài để tìm ra những giá trị văn hóa và văn học của du kí. Trong bài viết này,
tác giả khẳng định các tác phẩm du kí Việt Nam nói chung và các tác phẩm du kí
trên Nam phong Tạp chí nói riêng đều là những trang viết dưới góc nhìn văn hóa
thể hiện tình yêu tổ quốc, dù là phê phán hay ca ngợi cũng đều hướng đến mong
muốn xây dựng một nước Việt phồn vinh. Chính từ mong muốn tha thiết bảo tồn
các di sản văn hóa dân tộc, muốn xây dựng một ngôn ngữ tiếng Việt giàu và đẹp
mà các tác giả, thông qua tác phẩm của mình, đã làm nên giá trị văn hóa và văn
học của thể du kí.

Tiếp cận trên phương diện ngôn ngữ, bài viết Nghệ thuật ngôn từ du ký
Quốc ngữ Việt Nam giai đoạn giao thời của Trần Thị Tú Nhi nói rằng: “Ngôn ngữ
nghệ thuật của tác phẩm du kí luôn có sự hỗn dung cả hai tư duy: truyện và nghiên
cứu để thỏa mãn mục đích trình bày nhận thức và thể hiện kĩ năng văn chương. Bất
kì tác phẩm du kí nào cũng tồn tại hai hệ thống ngôn từ: ngôn từ khoa học và ngôn


5
từ nghệ thuật” [30, tr.214]. Dựa trên quan điểm coi du kí là tiểu loại của kí, tác giả
đã phân tích ngôn từ khoa học và ngôn từ nghệ thuật trong các tác phẩm viết bằng
chữ quốc ngữ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sau đó đưa ra những nhận định về
các đặc điểm ngôn từ du kí trong từng giai đoạn. Trần Hữu Tá trong Du kí Việt
Nam - một bộ sách quý chú ý tới văn phong của du kí. Theo ông, “đọc lại văn
chương quốc ngữ đầu thế kỉ XX của Phạm Quỳnh, Trần Tiến Lãng, Nguyễn Trọng
Thuật, Huỳnh Thị Bảo Hòa,… về cơ bản, ta vẫn có được cái nhã hứng của người
khát khao tri âm tri kỷ với văn chương” [30].
Gần đây hơn, một công trình rất đáng kể là Đặc điểm du kí Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX của Nguyễn Hữu Lễ (Luận án tiến sĩ, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa
học, Huế, 2015) bàn kĩ về đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Tác giả
khẳng định du kí nửa đầu thế kỉ XX phong phú về về tài, đa dạng về cảm hứng. Bên
cạnh những đề tài truyền thống như danh lam thắng cảnh, ngoại quốc, còn xuất hiện
một số đề tài mới như: khảo cứu văn hóa, lịch sử, dân tộc thiểu số. Du kí đầu thế kỉ
XX đã vẽ nên bức tranh nhiều sắc màu về non nước và con người Việt Nam. Cảm
hứng sáng tác giai đoạn này không hoàn toàn bắt nguồn từ cảm hứng du quan, du
lịch mà phần lớn xuất phát từ tư tưởng. Mỗi tác phẩm mang một tiếng nói khác
nhau về đất nước, lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Vì vậy, du kí nửa đầu
thế kỉ XX nổi lên với tư cách là một thể loại văn học với nhiều đặc điểm và có khả
năng tạo ra sự đa dạng về phong cách. Sự đa sắc trong vườn hoa du kí như thế là sự
kết hợp hài hòa giữa dòng du kí truyền thống dân tộc và hội nhập du kí phương Tây
hiện đại.

2.2 Những công trình, bài viết về du kí trên Nam phong Tạp chí
Một số bài viết mang tính nhận định về hiện tượng du kí trên Nam phong
tap chí như Du ký trên Tạp chí Nam phong đăng trên báo Người đại biểu nhân dân
số 91/2009 của tác giả Phong Lê. Tác giả cho rằng du kí trên Nam phong là minh
chứng về một giai đoạn quan trọng của lịch sử văn học dân tộc - giai đoạn bản lề
trên tất cả các phương diện của ngôn ngữ và thể loại, của tác giả và công chúng,
của nội dung học thuật và tư duy nghệ thuật, hội đủ các tri thức về địa dư và lịch
sử cùng những cảm khái và suy ngẫm về thời thế; đồng thời xen với việc kể, tả,
các tác giả luôn gửi gắm nơi tác phẩm của mình tình yêu và niềm tự hào về đất
nước. Bài viết của Trung Sơn trên báo Doanh nghiệp ra ngày 13/5/2007 với tựa đề
Viết của sự đi cũng nêu lên một vài đặc điểm nổi bật của du kí trên Nam phong tạp
chí: điều kiện ra đời, đặc trưng không gian - thời gian. Tác giả nhận định: “Bộ du
kí Việt Nam trên Nam phong tạp chí là một kho tư liệu quí, một chứng tích của
thời gian”.
Tiếp cận từ phương diện thể tài du kí nói riêng trên Nam phong, tạp chí
Nghiên cứu văn học số 04 năm 2007 có bài Thể tài du ký trên Tạp chí Nam Phong
(1917 - 1934), Du ký của người Việt Nam viết về các nước và những đóng góp vào
quá trình hiện đại hóa văn xuôi tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
của Nguyễn Hữu Sơn. Ông cho rằng mặc dù giới hạn ở thể tài du kí, nhưng các tác


6
phẩm du kí của người Việt Nam viết về các nước được đăng tải trên Nam phong
tạp chí đã đánh dấu sự vận động, đổi thay, mở rộng, hoàn chỉnh dần tất cả các cấp
độ hình thức ngôn từ nghệ thuật như hệ từ vựng, cách kí âm, chính tả, ngữ pháp,
dung lượng, thể văn, thể tài, bút pháp, văn phong, phong cách,... Tác giả khẳng
định bên cạnh vai trò “người môi giới” văn hóa - văn học Việt Nam với thế giới,
các tác phẩm du kí nói riêng và Nam phong tạp chí nói chung đã có những đóng
góp đặc biệt quan trọng vào tiến trình phát triển văn xuôi tiếng Việt nửa đầu thế kỷ
XX. Cũng theo hướng tiếp cận thể tài trên Nam phong, trong bài Nhân đọc du kí

trên Tạp chí Nam Phong, Phong Lê đề xuất: “Do nhu cầu tìm hiểu về du kí nên
trong bài này tôi muốn tìm một cách tiếp cận với đặc trưng và mục tiêu của du kí
qua các câu hỏi chung quanh việc Đi. Đó là: Đi đâu? Bằng phương tiện gì? Ai đi?
Đi với ai? và Đi với mục đích gì?” [48, tr.52]. Với tác phẩm Nhà văn hiện đại, Vũ
Ngọc Phan đã khái lược về thể tài du kí khi nói tới nhóm nhà văn trên Nam phong
tạp chí. Ông cũng nhắc tới một số tác phẩm du kí như: Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất
Hợi của Trương Vĩnh Ký, Ba tháng ở Pari (rút từ Pháp du hành trình nhật ký) của
Phạm Quỳnh. Trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ
bàn về thể tài du kí trong sáng tác của Phạm Quỳnh. Ông đưa ra nhận xét: “Du ký
Phạm Quỳnh thiên về biên khảo, văn nghị luận nhiều hơn văn cảm giác. Như bài
Trẩy chùa Hương mở đầu bằng một khúc đại luận về tôn giáo, rồi dọc đường chỉ
thấy những lời bình phẩm, suy xét về phong tục, tín ngưỡng của người mình (…).
Phạm Quỳnh đã biết thuật chuyện có duyên, biết điểm vào những đoạn tả cảnh
xinh tươi, nhất là khéo biết sử dụng một lời văn thanh thoát trang nhã, nhưng từ
năm 1925 trở đi, ngòi bút hướng vào giản dị và chuẩn xác hơn” [24].
Một hướng tiếp cận khác nhằm tìm hiểu tính cách con người trong đối
tượng phản ánh của du kí, Võ Thị Thanh Tùng có bài Tính cách người Nam Bộ dấu ấn đặc sắc trong du kí Nam Bộ nửa đầu thế kỉ XX. Trên cơ sở khảo sát các tác
phẩm du kí của Đông Hồ, Khuông Việt, Phạm Quỳnh đăng trên Tạp chí Nam
Phong, tác giả đã phác họa tính cách con người Nam Bộ với những vẻ đẹp như:
lòng tốt, sự rộng rãi và hiếu khách, tâm hồn hào sảng, nghĩa hiệp, trọng nghĩa
khinh tài,...
Một số công trình đi sâu tìm hiểu sự đóng góp của Phạm Quỳnh trên Tạp
chí Nam phong hoặc của cả Nam phong như Đóng góp của du kí Phạm Quỳnh
trong việc hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX (luận văn thạc
sĩ của Đặng Hoàng Oanh (bảo vệ tại Trường Đại học Vinh, 2010). Trong công
trình này, tác giả đưa ra những đóng góp của Phạm Quỳnh ở ba phương diện: hiện
đại hóa một thể tài văn học, cách tân quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và
hiện thực, đổi mới ngôn ngữ, giọng điệu văn xuôi nghệ thuật. Gần hơn là một số
công trình mang tính chuyên sâu như luận văn Du kí, một bộ phận độc đáo trong
sự nghiệp của nhà văn Phạm Quỳnh của Nguyễn Thị Kim Nhạn (bảo vệ tại

Trường Đại học KHXH & NV, 2013). Tác giả khẳng định du kí Phạm Quỳnh giàu
giá trị văn hóa với lời văn uyển chuyển, sáng rõ, uyên bác. Những trang du kí của
ông cho thấy những dấu hiệu tiên báo nền văn học mới, thể hiện ở kết cấu, nghệ


7
thuật kể chuyện và đặc biệt là ngôn ngữ. Công trình luận văn Đặc trưng của thể
tài du kí trên Nam Phong Tạp chí của Phan Thị Ninh (bảo vệ tại Trường Đại học
Vinh, 2011) đã đi đến kết luận: “Các tác phẩm du ký trên Nam phong Tạp chí
vừa tái hiện lại một cách chân thực, sinh động bức tranh non sông đất nước, hoàn
cảnh lịch sử - xã hội, vừa giãi bày thấu đáo những suy nghiệm sâu sắc và diễn tả
tài tình những rung động chân thành trong tâm hồn con người. Nhân vật trữ tình
hiện diện thường trực, giữ vai trò chính trong việc bày tỏ tư tưởng nghệ thuật và
cảm xúc chủ đạo. Đôi khi chân dung nhân vật trữ tình lại được khắc họa bằng bút
pháp tự sự (có ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ). Kiểu nhân vật tự sự - trữ tình đã
góp phần làm nên nét độc đáo cho du ký Nam phong”.
Khảo sát tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài, chúng tôi rút ra nhận định:
các bài báo và công trình kể trên ở các mức độ nông sâu khác nhau, đã góp phần
chỉ ra được những nét đặc sắc của thể tài du kí nói chung hoặc du kí trên Nam
Phong tạp chí, hoặc trong các tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh nói riêng. Tuy
nhiên, trong tầm khảo sát của chúng tôi, hầu hết các công trình, bài viết trên nghiên
cứu theo hướng khảo sát, phân tích đặc trưng thể loại du kí ở khía cạnh nội dung
hay hình thức nhằm khẳng định sự đóng góp của du kí trên phương diện thể loại.
Đối với những công trình lấy du kí của Phạm Quỳnh làm đối tượng nghiên cứu thì
tác giả chủ yếu mô tả lại hiện thực theo những quan sát và ghi chép dàn trải toàn
cuộc du kí của Phạm Quỳnh. Một vấn đề rất lớn được đặt ra là chiều sâu tư tưởng
các thiên du kí của ông vẫn chưa được tìm hiểu thấu đáo. Hay nói khác đi là thông
điệp ẩn sau văn bản của một số bài du kí lớn rất cần phải được làm sáng tỏ nhưng
chưa được tiến hành một cách công phu. Dường như mới chỉ có ba bài viết ngắn
nhận định về chiều sâu tư tưởng của tác phẩm du kí, cách riêng là Pháp du hành

trình nhật ký. Trước tiên, Nguyễn Hữu Sơn trong bài Văn du ký của học giả Phạm
Quỳnh đăng trên chuyên mục Góc nhìn văn hóa đã nhìn nhận Pháp du hành trình
nhật ký có những đóng góp đặc biệt quan trọng ở thể tài du kí viết về nước Pháp và
mối quan hệ Việt - Pháp hồi đầu thế ki XX. Ông nhìn nhận trong tác phẩm, Phạm
Quỳnh mong muốn dân tộc mình tiến hóa, cố gắng tìm ra phương hướng canh tân
thích hợp. Nguyễn Hữu Sơn ca ngợi học giả Phạm Quỳnh thực sự xứng đáng là
một nhà văn hóa, nhà hoạt động truyền bá văn hóa xuất sắc nửa đầu thế kỉ XX.
Tiếp đến là bài viết của độc giả Dương Bích Hồng từng học tại Trường Đại học
Văn Hóa. Cô nhận xét sau khi đọc Pháp du hành trình nhật ký, đã cảm nhận được
nhiều điều thấm thía bởi cái nhìn mới mẻ cũng như thái độ của Phạm Quỳnh. Từ
đó, cô khẳng định nếu không quan tâm đến dân tộc, đất nước, hẳn Phạm Quỳnh
không thể có cái nhìn sâu sắc, cái giọng thâm trầm về thân phận người dân một
nước dưới chế độ bảo hộ như vậy. Bạn đọc Dạ Thảo tại thành phố Hồ Chí Minh lại
chỉ cảm nhận về sự kiện Phạm Quỳnh diễn thuyết tại viện Hàn lâm Pháp và đi đến
khẳng định: “Càng tìm hiểu về nhà văn hóa Phạm Quỳnh, ta càng đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác. Ông quả là một thiên tài, một người yêu nước thương
dân đến tận tâm can”.
Trong đề tài này, chúng tôi hướng đến tìm hiểu sâu ở một khía cạnh hẹp và


8
ít được chú ý là vấn đề “cảm thức dân tộc” của Phạm Quỳnh thể hiện cách rất
riêng, độc đáo qua tác phẩm Pháp du hành trình nhật ký – một tác phẩm du kí lớn
và các nhà phê bình cũng đánh giá là giá trị nhất của Phạm Quỳnh, cũng như của
cả lãnh địa du kí Việt Nam đầu thế kỉ XX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cảm thức dân tộc của Phạm Quỳnh thể
hiện trong Pháp du hành trình nhật ký được biểu hiện qua nội dung tư tưởng và
phương diện thể loại, ngôn ngữ.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung chủ yếu vào tác phẩm Pháp du

hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh. Tác phẩm này được nhà văn viết xuyên suốt
chuyến đi sáu tháng sang Pháp. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn
mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các tác phẩm du kí khác của Phạm Quỳnh, một số
tác phẩm du kí của các tác giả cùng thời và một số bài thơ của Phan Bội Châu, thơ
Phan Châu Trinh có liên quan đến những vấn đề lịch sử, văn hóa và chính trị đương
thời để tăng thêm sức diễn giải cho các luận điểm và căn cứ khoa học.
4. Mục tiêu - Phương pháp nghiên cứu
4.1 Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, mục tiêu hướng tới của chúng tôi là khám phá, bao quát
được những cung bậc, góc độ “cảm thức dân tộc” của nhà du kí thời danh đầu thế kỉ
XX – Phạm Quỳnh, thể hiện một cách sâu sắc trong tác phẩm Pháp du hành trình
nhật ký. Nói cách khác, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm tiếp cận một mạch
ngầm cảm thức dân tộc đã chảy âm thầm suốt dọc dài Pháp du hành trình nhật ký
của Phạm Quỳnh, qua việc tìm hiểu trên các bình diện nội dung và thể loại, hệ
thống ngôn ngữ của tác phẩm.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Pháp du hành trình nhất ký là tác phẩm chứa đựng những thông tin, sự kiến
giải các hiện tượng lịch sử, văn hóa và chính trị rất phong phú cách nay mấy chục
năm. Với đối tượng như vậy, chúng tôi lựa chọn các phương pháp tiếp cận như sau:
Phương pháp nghiên cứu văn hóa học: giúp tiếp cận các phương diện lịch sử
xã hội, chính trị được ghi lại trong Pháp du hành trình nhật ký dưới góc nhìn văn
hóa. Phương pháp này cũng giúp chúng tôi hiểu về tâm tính con người Việt Nam
cũng như yếu tố chi phối cảm thức dân tộc của chính Phạm Quỳnh – một người Việt
đầu thế kỷ XX có dịp tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh Pháp.
Phương pháp tiếp cận liên ngành ngữ văn: để giải mã hệ thống ngôn ngữ
trong tác phẩm nhằm thấy được các tầng bậc cảm thức dân tộc của Phạm Quỳnh.
Phương pháp tiếp cận lịch sử - xã hội: để nhìn nhận tâm thức dân tộc của tác
phẩm trong mối quan hệ khắng khít với bối cảnh thời đại và chi phối bởi lịch sử,
cuộc đời tác giả.



9
Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng khá nhiều các thao tác
thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, lập luận,... nhằm đạt được mục tiêu của đề
tài.
5. Kết quả - Thảo luận

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Mấy nét về đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
1.1.1 Đời sống xã hội
Đời sống xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX thuộc về chế độ xã hội thực dân
nửa phong kiến. Thực dân Pháp nóng ruột khai thác, vơ vét tài nguyên,…Chính
sách kinh tế của thực dân có thể tóm tắt như sau: bán hàng hóa, khai thác nguyên
liệu và cho vay nặng lãi. Bên cạnh việc mở mang giao thông, buôn bán, phát triển
kinh tế hàng hóa tạo ra thị trường thống nhất từ Bắc chí Nam, thực dân Pháp lại ra
sức thực hành chính sách chia rẽ: đặt ra chế độ chính trị, ban hành luật pháp khác
nhau giữa ba kì (Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì). Bên cạnh việc phá vỡ chính sách Bế
quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn, làm cho Việt Nam tiếp xúc với thế giới,
đưa nước ta hòa vào cuộc sống hiện đại, thực dân Pháp lại chăng một hàng rào thuế
quan làm cho Việt Nam phụ thuộc vào Pháp, thành cái đuôi của tư sản Pháp. Để
tuyên truyền cho hòa bình, chiến thắng, cho văn minh của nước Pháp, ngay từ năm
1886, Paul Bert đã bày tấn tuồng Hội đồng tư vấn, đeo cho nước bị xâm lược một
mặt nạ dân chủ, lập Hàn lâm viện Bắc Kì, quét cho nó một nước sơn phát triển văn
hóa. Đến đầu thế kỉ XX, khi cuộc bình định đã thành công, Pháp tổ chức Hội chợ
thuộc địa, xây dựng một số công trình lớn “trang sức” cho cảnh thái bình.
Sự khai thác thuộc địa của Pháp đã dẫn đến những biến động trong kết cấu
xã hội. Trong xã hội có sự xa cách giữa nông thôn và thành thị. Khắp nơi là nông
thôn, là những bản làng ẩn nấp dưới lũy tre, là vô số những đình chùa, đền miếu. Đô

thị là nơi thủ phủ về chính trị, văn hóa; có cung thất, dinh thự, phủ đệ của nhà quí
tộc. Sự xơ xác của làng xóm xô đẩy người nông dân ùn ra thành thị. Một số họ trở
thành công nhân nhà máy, hầm mỏ; số còn lại biến thành anh bồi, anh xe, vú em,
con sen; thành người buôn thúng bán bưng, thậm chí thành gái điếm. Như vậy, có
thể thấy, một tầng lớp tiểu tư sản dân nghèo đông đảo “phình ra” đã sống một cách
bấp bênh ở thành thị. Những ông thông, ông phán, những người đỗ đạt Tây học thay
dần vị trí của Văn thân xuất thân từ Nho học. Nếu tầng lớp thượng lưu trước đây là
cụ Thượng, quan Bố, ông Nghè, ông Thám thì tầng lớp thượng lưu bây giờ là những
cô Tư Hồng, những ông kí Bưởi, rồi đến ông Chủ bút. Những sự đổi thay như thế về


10
chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng củng cố vị trí của thực dân Pháp, khẳng định và
bình thường hóa những thói xấu xa, những cái trái mắt của quân cướp nước phương
Tây, của xã hội tư sản mà thực dân mang vào cuộc sống Việt Nam.
Cuộc sống, tâm trạng của con người Việt Nam theo đó cũng có nhiều đổi
thay. Cái hào nhoáng lúc đầu gây bất bình nhưng dần dà trở trên hấp dẫn. Những
người luống tuổi đua nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục con cái đi học “kiếm ít
chữ Tây” mà “hãnh diện với đời”. Những xalon, đồng hồ quả lắc,... đẩy những
hương án bàn thờ, câu đối, hoành phi xuống gian nhà ngang. Người ta cần hưởng
thụ, cần tiền.
Xã hội Việt Nam chuyển mình một cách đau đớn sang hướng tư sản, một
hướng tư sản kém lành mạnh nhất để lại những hậu quả tai hại. Nhưng điều đó cũng
lôi kéo các mặt khác phát triển. Thật vậy, Trần Đình Hượu cho rằng: “Thực tế đặt ra
vấn đề chống Pháp giành độc lập mà cũng đặt ra vấn đề duy tân, đi theo Âu – Mĩ,
theo kịp các nước văn minh” [5, tr.16]. Thế nhưng, duy tân và yêu nước không dễ
kết hợp với nhau và cái mới vẫn cứ thâm nhập. Nó chi phối óc suy nghĩ, tác động
đến tâm lí xã hội. Sự đổi thay ấy “tạo ra những con người khác trước, đặt ra những
vấn đề thành đề tài văn học khác trước” [5, tr.16].
1.1.2 Đời sống văn hóa

Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân và du nhập vào nước ta các yếu
tố văn hóa Pháp, nhằm đẩy lùi, chiếm chỗ, thay thế văn hóa cổ truyền của ta. Còn ta
thì phản kháng lại sự xâm nhập, nô dịch ấy để bảo vệ văn hóa của dân tộc. Đồng
thời, ta cũng tiếp thu, chọn lọc cái mới. Chịu ảnh hưởng của cái thống trị, dần dần ta
hướng theo nền văn hóa mới một cách không cưỡng lại được. Kết thúc giai đoạn
đấu tranh quân sự và chính trị, một bên chỉ còn một vũ khí là văn học và một bên
phải chuyển sang dùng vũ khí văn học để tiếp tục chinh phục. Hai bên đều sử dụng
văn học và đều muốn giành lấy vũ khí đó. Những nhân tố đối lập nhau cùng tác
động ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ của con người trong cuộc sống.
Một mặt, thực dân Pháp muốn lợi dụng phương tiện báo chí, nhà xuất bản để
truyền bá rộng rãi những tư tưởng thân Pháp, phục pháp. Pháp cho những người mà
Pháp tin cậy ra viết văn, làm chủ bút, chủ nhiệm các cơ quan báo chí. Mặt khác, một
số nhà báo, nhà văn tuy không hành động cách mạng, nhưng trong lòng vẫn còn
tinh thần dân tộc hoặc có ý muốn kín đáo dùng văn chương để đánh thức tâm hồn
dân tộc, nhắc mọi người nhớ đến cái hồn Tổ quốc đang khắc khoải.
Điều đáng ghi nhận là báo chí đã đi từ công báo (Gia Định báo, Đại Nam
đồng văn nhật báo), bán công báo (Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đại Việt tân
báo, Đăng cổ tùng báo) đến báo (Trung Bắc tân văn) và tạp chí (Đông Dương tạp
chí, Nam Phong tạp chí); từ báo chí được nhà nước thực dân cung cấp tài chính đến
báo chí tư nhân (Thực nghiệp dân báo, Hữu thanh tạp chí, Đông Pháp thời báo, An
Nam tạp chí, Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Tây văn thế kỷ); đã đi từ hỗn tạp đến ít
nhiều có tính chất chuyên ngành hơn. Trong quá trình tiến lên ấy của mình, báo chí
ngày càng trở nên “bà đỡ mát tay” gắn chặt với văn học hơn, thúc đẩy văn học phát
triển. Thoạt tiên, mục “văn uyển” xuất hiện trên báo chí. Về sau, bạn đọc đón chào


11
Phần văn chương của Đông Dương tạp chí, những truyện ngắn và kịch trên Hữu
thanh tạp chí, thơ của Tản Đà và truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ở mục Nhị
thập thế kỷ xã hội ba đào ký của An Nam tạp chí, Đoản thiên tiểu thuyết trên Trung

Bắc tân văn, Phụ trương văn chương của Đông Pháp thời báo; thơ và truyện dịch,
phỏng tác, sáng tác trên Nam Phong tạp chí, tiểu thuyết trên Phụ nữ tân văn, những
lời phẩm bình về văn chương trên Thần chung. Là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học
trung đại Việt Nam, giới thiệu văn học Pháp và văn học Trung Quốc, báo chí có tác
dụng khích lệ những mơ ước về sự nghiệp văn học, kích thích những người cầm bút
phỏng tác, sáng tác. Sự thực, báo chí đã là nơi trao đổi ý kiến, tìm tòi cách làm giàu
ngôn ngữ và cách xây dựng câu văn xuôi, là nơi các nhà văn học hỏi và rèn luyện
cách mô tả cuộc sống, bằng các thể loại và hình thức mới để thành nhà văn và tập
hợp thành đội ngũ nhà văn, nhà thơ.
Nền văn học đầu thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn 1900 - 1930 là nền văn học
có tính chất giao thời. Lớp nhà văn cũ chưa hoàn toàn mất đi, nhưng kiểu nhà văn
hiện đại cũng chưa định hình một cách rõ nét. Các loại hình nhà văn ấy cùng tồn tại
với những hướng đi riêng gồm lớp nhà Nho tài tử như Tản Đà, các nhà Nho là
những chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Trong bước đầu quá
trình hiện đại hóa nền văn học, với những đòi hỏi mới của độc giả, các tác giả này
đã không ngừng nỗ lực cách tân nhưng vẫn chủ yếu theo con đường cách tân thể
loại văn học truyền thống. Ngoài ra, văn học thời kì này còn phải kể tới một đội ngũ
đông đảo các nhà văn là những trí thức tân học như Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn
Công Hoan, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh,…; trong miền Nam có các nhà văn
Nguyễn Trọng Quản, Trương Duy Toản, Trần Chánh Chiếu, Tân Dân Tử, Phạm
Minh Kiên, Phú Đức, Hồ Biểu Chánh là những người tiên phong học hỏi và thử
nghiệm các thể loại văn học mới. Văn chương thời kì này không còn là để thể hiện
Chí, Tâm và Đạo của Nho gia, mà văn chương nhấn mạnh chức năng giải trí và
được coi như một nghề nghiệp kiếm sống của nhà văn.
Hai nhân tố yêu nước và duy tân cùng tác động vào quá trình phát triển văn
học trong những điều kiện mới: sự truyền bá chữ quốc ngữ, việc ra đời báo chí, nhà
xuất bản, việc hình thành công chúng văn học ở thành thị. Văn học dân tộc có điều
kiện thuận lợi để phát triển, nhưng lại gặp một trở lực lớn khác: chính quyền thực
dân không muốn phát triển nền văn học thật sự dân tộc, và muốn thay thế nó bằng
một nền văn học mất gốc. Trong bối cảnh ấy, địa vị chữ quốc ngữ chưa được đề cao.

Từ khi chiếm được Nam Kì, Pháp đã chính thức hóa chữ quốc ngữ, đã xuất bản báo
chí của Trương Vĩnh Ký và một số nhà văn khác cũng đã viết một số tác phẩm văn
chương quốc ngữ. Tuy nhiên, trong đời sống văn học, giữ địa vị thống trị vẫn là văn
học nhà Nho và văn học truyền miệng của nông dân. Văn chương quốc ngữ tồn tại
như những yếu tố xa lạ, không được kể là văn chương nên chưa được chấp nhận vào
đời sống văn học của dân tộc. Cho đến hết thế kỷ XIX, người nông dân vẫn dùng
loại ca, vè quen thuộc kể chuyện đánh Pháp, tố cáo nỗi khổ đau vì chiến tranh, vì bị
bóc lột.


12
Có thể nhìn nhận khái quát rằng, trong bối cảnh văn hóa nửa đầu thế kỷ XX,
văn học không đoạn tuyệt với truyền thống dân tộc, mà là phát triển lên để có tính
chất dân tộc cao hơn trước. Với những tiền đề quan trọng của lịch sử xã hội, cũng
như trong chính văn học, các thể văn xuôi nói chung như truyện ngắn, tiểu thuyết,
phóng sự, tùy bút, phê bình, biên khảo và thể du kí nói riêng đã thực sự có điều kiện
để phát triển một cách mạnh mẽ.
1.2 Phạm Quỳnh – cuộc đời và văn nghiệp
1.2.1 Cuộc đời Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh (1892 - 1945), hiệu là Thượng Chi, Hồng Nhân, Hoa Đường;
quê làng Lương Ngọc, Phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ, Phạm Quỳnh
học trường tiểu học Pháp Việt, sau đó vào học trường Bảo hộ (Trường Bưởi) tại Hà
Nội. Năm 1908, ông đỗ bằng Thành chung, được bổ làm việc tại trường Viễn Đông
bác cổ. Năm 1913, Phạm Quỳnh cộng tác với tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn
Văn Vĩnh. Năm 1917, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nam Phong tạp chí. Năm
1922, Phạm Quỳnh được cử sang Pháp dự Hội chợ đấu xảo ở Marseille, rồi lên
Paris ba tháng diễn thuyết nhiều lần ở Ban chính trị và luân lý của Viện Hàn lâm
Pháp. Khi về nước, ông tổ chức kỉ niệm Nguyễn Du và Truyện Kiều, nhân đó bị Ngô
Đức Kế phản đối. Ngoài ra, Phạm Quỳnh còn cổ xúy việc xây dựng nền giáo dục
quốc gia. Từ 1924 đến 1932, ông được mời dạy tại trường Cao đẳng Hà Nội, rồi làm

chủ tịch Hội Trí tri Bắc Kì, Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương. Ông đề
xướng thuyết Lập hiến: giữ chế độ phong kiến ở Bắc Kì và Trung Kì, có qui định rõ
quyền và nghĩa vụ của dân, vua quan và bảo hộ. Năm 1922, Bảo Đại về nước thay
Khải Định. Năm 1933, Phạm Quỳnh được mời vào Kinh giữ chức Ngự tiền văn
phòng kiêm Thượng thư Bộ Học. Năm 1942, ông được thăng Thượng thư Bộ Lại.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính, Phạm Quỳnh bị phế truất, Trần Trọng Kim
thành lập chính phủ mới. Phạm Quỳnh lui về ở ẩn tại tư thất trên bờ sông An Cựu
(Huế). Tháng 8 năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Quỳnh bị bắt ở
Huế, sau đó bị xử tử.
Phạm Quỳnh là người gắn bó với các chủ trương chính trị của Pháp, với tờ
Nam Phong tạp chí do mật thám Louis Marty điều khiển. Phạm Quỳnh đã đề cập
đến nhiều vấn đề và nhiều lĩnh vực, đặc biệt lãnh vực văn hóa. Chọn con đường
cộng tác với chính phủ bảo hộ, không phải Phạm Quỳnh không nhận ra chính sách
của Pháp là vô nhân đạo. Bởi lẽ, ông không coi giải phóng dân tộc là yêu cầu hàng
đầu, là việc trước tiên. Mặt khác, cách nhìn nhận về thực trạng xã hội và khuynh
hướng dân chủ trong tư tưởng Phạm Quỳnh rất khác với các nhà trí thức đương
thời. Bấy giờ, số đông những người yêu nước rất nhạy cảm với khổ nhục vì mất
nước, rất tha thiết với chủ quyền dân tộc. Họ thường nhìn về lịch sử, về truyền
thống anh hùng của cha ông để tự hào và tin tưởng. So sánh quá khứ với hiện tại,
họ căm thù thực dân xâm lược và vua quan bán nước. Cho nên dù Tân thư có mở
mắt cho họ nhìn ra cảnh cường thịnh của các nước Âu Mĩ, thì họ cũng gắn những
điều đó với chủ quyền độc lập của đất nước. Phạm Quỳnh không phải hoàn toàn
khác họ, nhưng khi so sánh nước mình với thế giới văn minh, ông thường chú ý đến


13
chế độ chính trị, đến cung cách làm ăn, đến xã hội và những con người ở các nước
Âu Mỹ. Con người ở các nước văn minh đó là những người có tầm nhìn cao xa, có
chí lớn, có nghề, ham học hỏi để nghề nghiệp thêm tinh xảo. Phạm Quỳnh càng say
mê cảnh tượng văn minh bao nhiêu, càng khó chịu trước cảnh nước nhà hủ bại bấy

nhiêu. Người có tư tưởng lớn và nằm trong tình thế như Phạm Quỳnh lúc bấy giờ
không phải chỉ có mình ông. Tất cả họ có những điều rất khó giải thích về sự xem ra
mâu thuẫn giữa tư tưởng và hành động. Tuy nhiên ở đây, ta chỉ xét con người nhà
văn Phạm Quỳnh, bỏ ra ngoài tính cách chính trị, để trả lại cho ông những gì là
công nghiệp của một nhà văn tiên phong trong việc gầy dựng văn học Quốc ngữ.
Có thể nhiều người cho rằng ông là một tay sai của Pháp, trong khi Phạm
Quỳnh tự nhận mình là một người yêu nước đầy mộng tưởng và một nhà cải cách
xã hội. Có thể nói Phạm Quỳnh là sự tổng hợp của tài năng, uyên bác, tầm nhìn xa
trông rộng, cống hiến, ảo tưởng, bất lực,...Hợp tác với người Pháp, rõ ràng Phạm
Quỳnh không chỉ tham gia vào việc tạo nên lợi ích của người Pháp mà còn không
ngừng hướng đến lợi ích của dân tộc mình.
1.2.2 Văn nghiệp
Là một nhà tân học uyên thâm cựu học, lại nhờ khả năng sáng tác phong phú,
Phạm Quỳnh đã để lại rất nhiều tác phẩm giá trị mà một số đã in thành sách, một số
vẫn còn trong báo chương. Nhiều người cho rằng, các bài viết của Phạm Quỳnh
nằm trong ý đồ chính trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng
các bài viết đó chứng tỏ Phạm Quỳnh có một vốn kiến thức rộng về cả hai nền học
thuật Đông - Tây và thực sự, một phần lãnh địa không nhỏ nằm ngoài ý muốn của
thực dân. Những bài viết của Phạm Quỳnh đã có tác động đối với xã hội Việt Nam
và nền học thuật nước nhà. Sự nghiệp văn chương của Phạm Quỳnh có thể chia làm
ba loại như sau:
+ Loại trước tác có Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ, Mộng hay mỵ,
Pháp du hành trình nhật ký,…(các sáng tác này thuộc thể loại du kí, ghi chép).
+ Loại khảo luận có Khảo Truyện Kiều, Tục ngữ ca dao, Văn chương trong
lối hát ả đào, Việt Nam thi ca, Hán Việt văn tự, Đẹp là gì?, Sử học chuyên luận,
Pháp văn thi thoại Beaudelaire, Bàn về diễn thuyết, Văn hào Pierreloti, Lịch sử và
học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học
thuyết của Voltaiire, Anatole France, Văn học Pháp, Khảo về tiểu thuyết, Khảo về
các luân lý học thuyết của nước Pháp, Triết học là gì?, Học thuyết Auguste Comte,
Học thuyết của Berson, Khảo về ngân hàng, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử,

Lịch sử thế giới, Khảo về chính trị nước Pháp, Chính trị học, Phật giáo luật khảo,
Quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng, Pháp văn – tiểu thuyết bình
luận, Bàn về hý kịch Moliere, Bình phẩm Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê, Nghĩa
vụ là gì?, Sự giáo dục đàn bà và con gái, Văn quốc ngữ, Chữ nho với văn quốc ngữ,
Chữ Pháp có dùng làm quốc văn An nam được không?, Đạo đức đã đến ngày từ
chức chưa?, Vấn đề dân tộc giáo dục, Trả lời bài “Cảnh cáo các nhà học thuật”
đăng trong Phụ nữ tân văn, Bàn về quốc học.


14
+ Loại dịch thuật có Phương pháp luận Descastes, Lời cách ngôn của Mare
Aurèle, Sách cách ngôn của Epietète, Đời đạo lý của Paul Carton, Tuồng Lecid của
Corneille, Tuồng Horace của Corneille, Tiểu thuyết ái tình của Guyde Maupassant.
Phần lớn tác phẩm của Phạm Quỳnh được tập trung in lại trong hai bộ sách
Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập (5 tập) (Nxb. Alexandre Rhodes, Hà
Nội, 1943). Ngoài ra, ông còn góp công sức trong việc biên soạn cuốn Việt Nam từ
điển do Hội Khai trí tiến đức biên soạn (chỉ mới ra tập I, 1932).
Qua văn nghiệp của ông, ta nhận thấy các khuynh hướng tư tưởng sau:
Tư tưởng chính trị: Phạm Quỳnh chủ trương Quân chủ lập hiến trong đó
Vua chỉ là người đứng lên thừa hành bản Hiến pháp mà chính những người đại diện
nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định.
Tư tưởng giáo dục: Phạm Quỳnh quan niệm về thanh niên ở cả hai phương
diện đức dục và trí dục. Ông khuyên người thanh niên trước hết phải biết tìm một lí
thưởng để theo đuổi chứ không được sống vật vờ vô mục đích. Với phụ nữ, Phạm
Quỳnh đề nghị lập một trường nữ học riêng để giáo dục phụ nữ theo đúng vai trò họ
phải đảm nhiệm trong xã hội. Ông khuyên phụ nữ phải biết đọc biết viết, ít là chữ
quốc ngữ; giới thượng lưu cần biết thêm chữ Pháp và Hán, như thế mới hòa hợp
được với chồng và con. Về công dân, Phạm Quỳnh nhấn mạnh bổn phận đối với
quốc gia bằng cách trung thành với Vua để xây dựng xứ sở, nhất là giới trí thức phải
tích cực lợi dụng tài năng của mình để phụng sự dân tộc. Phạm Quỳnh khuyên mọi

người phải biết trọng điều nghĩa mà coi nhẹ điều lợi.
Công nghiệp của Phạm Quỳnh đối với sự nghiệp quốc văn được tóm tắt
thành các luận điểm sau đây:
Thứ nhất là du nhập tư tưởng thái Tây. Vào lúc nền học thuật mới còn sơ
khai, mọi suy tư của đại đa số dân chúng còn cứ nền trên căn bản tư tưởng cổ truyền
Nho - Lão - Phật thì việc Phạm Quỳnh chủ trương du nhập vào Việt Nam những
trào lưu tư tưởng mới lạ của Tây phương đã là một hành động đáng kể trước hết.
Thật thế, số người đọc hiểu được Pháp ngữ lúc đó không phải là nhiều. Vì vậy, các
nhà thiện chí muốn làm văn hóa có thể nói là thiếu vấn đề để khai thác hầu giúp vào
việc xây dựng một nền học thuật mới, cũng như canh tân cái đã ra cổ hủ, không kịp
với đà tiến chung nhân loại. Ta thấy Phạm Quỳnh đã cố công đi sâu vào phạm vi
này. Ông giới thiệu tư tưởng triết học của Descartes, Pascal, Auguste Compte,
H.Bergson,...; tìm hiểu khoa học hiện đại với những phát minh mới mẻ như tàu
ngầm, tàu bay,...
Thứ hai là phân tích và phê bình cổ học Đông phương. Đây là chủ trương
chung của nhóm Nam phong và thành công lớn lao phải dành cho Nguyễn Bá Học,
Lê Dư, Nguyễn Hữu Tiến,...nhưng Phạm Quỳnh cũng góp một phần đáng kể trong
việc nghiên cứu về Phật giáo, Nho giáo, văn học Việt Nam,...Đặc biệt phải nhắc đến
tên ông với công trình nghiên cứu Đông phương học theo phương pháp khoa học.
Vì thế Nam phong đã làm sống lại được nền học thuật cổ của nước ta, và trong khi
họ chủ trương học hỏi Tây phương thì vẫn bảo tồn và tài bồi được cho nền văn học
cổ. Có lẽ đây là công trình đáng đề cao nhất của Nam phong.


15
Ba là gầy dựng các nhà văn hóa tương lai. Phạm Quỳnh chủ trương rộng rãi
hơn nhóm Tự lực văn đoàn sau này trong việc khuyến khích và nâng đỡ các văn
nghệ sĩ mới. Đoàn Như Khuê, Đông Hồ, Mộng Tuyết,...là những người được đào
luyện và nuôi dưỡng trong môi trường của Nam phong. Ngoài ra, một số vấn đề do
Phạm Quỳnh nêu lên đã gầy dựng thành một phong trào khảo cứu sâu rộng trong

văn giới thời bấy giờ như quan niệm về sử học, văn học, truyện Kiều,...được các
nhà biên khảo lão luyện khai triển thêm như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Dương
Quảng Hàm,...
Bốn là luyện quốc văn, tạo thêm danh từ mới. Với tài năng còn yếu kém như
quốc ngữ buổi đầu mà Phạm Quỳnh đã dùng để diễn đạt nổi những tư tưởng hóc
búa của triết học, chính trị tân kì của Tây phương thì công phu của ông thật lớn lao.
Cho nên trong khi ta chê trách ông có lời văn khá rườm rà ở lối biên khảo, ta lại
phải tự bênh chữa cho ông ngay, vì ông là người tiên phong trong việc làm quen với
những tư tưởng xa lạ đó. Hơn nữa, ông còn phải lợi dụng mọi sở học để sáng tác ra
nhiều danh từ chưa bao giờ có trong Việt ngữ như Cộng Hòa, Hiến Pháp, Cử tri,
Nghị viện,...
Có một số người lên tiếng chê Phạm Quỳnh đã không để lại một tác phẩm
lớn nào. Hầu hết sự nghiệp Phạm Quỳnh đều gồm những bài báo, viết theo nhu cầu
giai đoạn và hơn nữa theo nhu cầu thời sự, do đó càng ngày càng lỗi thời. Có lẽ lời
chê đó dựa vào quan điểm “quí phái” về vai trò của nhà văn: giá trị của một nhà văn
là ở công trình xây dựng được những tác phẩm lớn, vượt thời đại, có giá trị muôn
thuở. Nhưng trong quan niệm văn chương “dấn thân”, nhà văn, người cầm bút là
người của một thời đại, một hoàn cảnh. Có thể hoàn cảnh thời đại của họ bất hạnh
hơn những hoàn cảnh thời đại khác. Nhưng đó là hoàn cảnh thời đại của nhà văn và
nhà văn trước tiên phải có trách nhiệm với thời đại của mình. Nếu hoàn cảnh đòi hỏi
giới thiệu tư tưởng Tây phương, người cầm bút “dấn thân” phải viết một bài nghị
luận về Voltaire, phiên dịch một đoạn văn của Rousseau hơn là nghĩ đến xây dựng
một tác phẩm triết học lớn lao để lại muôn đời. Hơn nữa, theo cái nhìn của quan
niệm nhà văn “dấn thân”, nếu hoàn cảnh chưa đủ người chuyên môn, báo chuyên
môn để giới thiệu những kiến thức phổ thông về khoa học, về vệ sinh, tài chính,
kinh tế, nhà văn, người cầm bút “dấn thân” cũng không ngần ngại đáp ứng những
đòi hỏi ngoài chuyên môn của mình. Dĩ nhiên, những bài báo, biên khảo phục vụ
giai đoạn, thời sự sẽ chóng trở thành lỗi thời. Nhưng giá trị một sự nghiệp cầm bút
chính là ở chỗ đã phục vụ đầy đủ hoàn cảnh, thời đại của mình. Bởi lẽ, vẻ cao cả
thực sự của nhà văn, người cầm bút không phải ở chỗ trở thành bất tử, mà ở chỗ

chấp nhận thân phận “một thời” của người cầm bút, và do đó cũng chấp nhận cái số
phận “lỗi thời” của sự nghiệp. Cái bất tử ở đây không phải là tác phẩm cho bằng
một tinh thần, một tấm lòng, một quan điểm. Phạm Quỳnh cũng như nhiều nhà cầm
bút đương thời có lẽ đã sống cái quan niệm nhà văn “dấn thân” này, đã làm công
việc “bách khoa” viết đủ môn, mọi vấn đề. Phạm Quỳnh là một trong những vị tự
học, học giả đáng được ghi ơn vì từ mấy chục năm nay công trình văn hóa chủ yếu
là do bàn tay những người như Phạm Quỳnh gây dựng. Công trình đó chưa phải


16
gồm những lập thuyết của những nhà học thuyết nọ, nhà học thuyết kia, nhưng chỉ
là những bài báo, những tác phẩm giới thiệu phổ thông. Mặt khác, hoàn cảnh đòi
hỏi giới thiệu văn hóa tư tưởng Tây phương, phổ biến kiến thức khoa học cũng là
hoàn cảnh của một trận tuyến tranh đấu chủ quyền cho dân tộc trên lãnh vực văn
hóa giữa thực dân và những người Việt chống thực dân. Bởi lẽ, đấu tranh không
nhất thiết chỉ là “cầm súng”. Tiếp xúc một cách thận trọng với văn bản Pháp du
hành trình nhật ký và tìm hiểu về văn hóa đương thời mới thấy không đâu khác, đây
chính là “hạt ngọc” không chỉ của Phạm Quỳnh mà còn của cả dân tộc bởi tầm vóc
và chiều sâu tư tưởng mà nó chất chứa. Đồng thời, đó là sự đóng góp lớn lao cho
tiến trình phát triển ngôn ngữ dân tộc.
Qua những đặc điểm trên, người nghiên cứu thấy rõ tài năng và công trạng
lớn lao của Phạm Quỳnh đối với nền quốc văn mới. Gạt ra ngoài tính cách chính trị,
Phạm Quỳnh là một thiên tài văn học đáng được nói đến mãi. Ông đã hoạt động tích
cực trong khi văn học quốc ngữ mới thành hình và ông đã gầy dựng một phong trào
lớn hăng hái hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, người ta vẫn phàn nàn rằng những hoạt
động chính trị mờ ám của Phạm Quỳnh đã xóa nhòa vẻ tráng lệ, nguy nga của văn
nghiệp ông. Trong khi muốn cực tán dương ông về phương diện văn học, người ta
lại cảm thấy ngay cái chính trị đen tối chực đến ngăn cản. Vì thế, cho tới bây giờ
Phạm Quỳnh dường như chưa được đặt vào địa vị xứng đáng với văn tài và công
nghiệp văn học của ông.

1.3 Tiến trình phát triển của du kí Việt Nam đến nửa đầu thế kỉ XX và Nam
Phong Tạp chí
1.3.1 Khái niệm du kí
Nói một cách khái quát, các nhà lí luận xác định: “Du kí – một thể loại văn
học thuộc loại hình kí mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân người đi du lịch, ngoạn
cảnh về những điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay
những nơi ít người có dịp đi đến. Hình thức của du kí rất đa dạng, có thể là ghi
chép, kí sự, nhật kí, thư tín, hồi tưởng, miễn là mang lại những thông tin, tri thức và
cảm xúc mới lạ về phong cảnh, phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến (…).
Dạng đặc biệt của du kí phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du kí về
các xứ sở tưởng tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học (…).
Dạng du kí khác đậm đà phong vị phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về
những nơi danh lam thắng cảnh đất nước (…). Thể loại du kí có vai trò quan trọng
đối với văn học thế kỉ XVIII – XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng
của nhà văn. Sang thế kỉ XX, du kí mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các
nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du kí khoa học cũng rất thịnh hành” [9,
tr.75-76].
1.3.2 Du kí Việt Nam thời kì trung đại
Giai đoạn từ thế kỉ X – XVII: Du kí ẩn danh trong các hình thức thơ và phú.
Về thơ có Vương Lang qui (Chàng trở về) của Khuông Việt, Chu quá Bắc Giang
Tiên Du tác (Cảm tác khi thuyền qua Tiên Du Bắc Giang) của Nguyễn Ức, Dục


17
Thúy Sơn (Núi Dục Thúy) và Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống) của Trương Hán
Siêu,…Về phú có Vân Yên tự phú (Bài phú vịnh chùa Vân Yên) của Huyền Quang
Lý Đạo Tái,…Du kí chịu sự qui định chặt chẽ của thi pháp văn học chính thống nên
tính tả thực trong tác phẩm thường bị xem nhẹ; lại bị ràng buộc bởi khuôn phép, qui
tắc của thơ, phú nên không thể tồn tại như một thể loại. Mặt khác, sự phổ quát của
thơ và văn vần ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều thể loại nên du kí giai đoạn này

phải nương tựa vào các thể văn vần để tồn tại. “Sự đi” là nhu cầu của nghệ thuật bởi
con người luôn xê dịch để tìm cái đẹp, đến những nơi non xanh nước biếc, những
nơi danh lam thắng tích. “Cách đi” là đi bộ hay đi thuyền, đi bằng ngựa hay bằng
xe,...tất cả đều trở thành cảm hứng nghệ thuật. Nhìn chung, ở giai đoạn sơ khởi này,
du kí chưa thoát khỏi sự chi phối của những chuẩn mực nghệ thuật và thi pháp thời
đại nên với những tác phẩm có nội dung hành trình hay xuất phát từ cảm hứng về
cuộc hành trình trong đó có tả cảnh hay tả tình thì cũng không hoàn toàn là tả thực,
không tránh được bút pháp ước lệ, tượng trưng.
Giai đoạn từ thế kỉ XVIII - XIX: Với sự ra đời của những tác phẩm du kí
viết bằng văn xuôi, có thể nói thế kỉ XVIII là thế kỉ mà du kí chữ Hán đạt đến đỉnh
cao. Quá trình hình thành du kí văn xuôi có sự chuyển biến dần dần, từ thơ chuyển
sang văn tả cảnh và kết hợp văn tả cảnh với thơ du kí. Đó là trường hợp của Trịnh
Xuân Thụ, người đã tạo ra một hình thức thể loại mới của du kí chữ Hán. Các tác
phẩm không chỉ dừng lại ở sự ghi chép những điều mắt thấy tai nghe trong thiên hạ
mà là những câu chuyện tường thuật về các sự kiện xảy ra trên lộ trình thông quan
xúc cảm của tác giả. Đánh dấu bước tiến của du kí Việt Nam bằng chữ Hán giai
đoạn này là Thượng kinh kí sự (1783) của Lê Hữu Trác. Lê Hữu Trác đã chuyển từ
những ghi chép kiểu nhật kí hành trình thành tác phẩm tự sự trong đó có sự kết hợp,
đan xen giữa văn tường thuật và thơ, giữa kể và tả, giữa tự truyện và trữ tình, giữa
khách quan và chủ quan,... tạo nên kiểu văn du kí mẫu mực trong văn học trung đại
Việt Nam.
Tây hành kiến văn kỉ lược là tác phẩm đầu tiên viết về chuyến đi xứ sang
phương Tây của Lý Văn Phức cuối thế kỉ XIX, kể về chuyến công du dự cuộc thao
diễn thủy quân ở Tiểu Tây Dương. Bài văn ghi chép sự chứng kiến của tác giả về
những điều mình thấy được khi đi ra nước ngoài thành tập sách. Tác phẩm có ý
nghĩa như là sự biến chuyển của văn xuôi chữ Hán: vừa trình bày theo lối ghi sử
vừa mang yếu tố thời đại bằng việc thể hiện thái độ của mình trước cuộc sống. Tây
hành kiến văn kỉ lược đã vượt xa hơn qui phạm hiện tại để vươn tới lối văn phản
ánh hiện thực thông qua cảm quan cá nhân tạo nên nét độc đáo trong thể loại du kí
trung đại.

Nhìn chung, cuối thể kỉ XIX, tác phẩm du kí đã có phần phụ thuộc vào cảm
quan của tác giả về đối tượng trên lộ trình chuyến đi với những xúc cảm của nhà du
kí về sự kiện và cảnh vật. Trong giai đoạn này, du kí cũng đã xuất hiện tác phẩm
viết bằng chữ Quốc ngữ như Sách sổ sang chép các việc (1822) của Philipphê Bỉnh
(1759 - 1832), Chư quấc thại hội (1889) của Trương Minh Ký (1855 - 1900),
Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi (1886) của Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898),...Chư


18
quấc thại hội của Trương Minh Ký được xem là tác phẩm du kí thứ hai viết bằng
chữ Quốc ngữ với thể thơ dân tộc. Chuyện đi Tây được Trương Minh Ký kể lại một
cách dân dã bằng thơ với thể thơ dân gian song thất lục bát đã làm cho tác phẩm
thoát khỏi hình thức “sứ trình” để bộc lộ thái độ, cảm xúc của tác giả về cuộc sống
ở nơi mình đến, suy ngẫm về cuộc sống ở đất nước mình.
Tiếp nối du kí viết bằng chữ Quốc ngữ thế kỉ XIX là Chuyến đi Bắc Kỳ năm
Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký viết bằng chữ Quốc ngữ. Tác phẩm có ý nghĩa nối tiếp
truyền thống du kí Việt Nam với sự tiếp nhận du kí của thời đại. Vẫn mang một số
đặc điểm của du kí chữ Hán như cách biên khảo địa chí, kết hợp kể chuyện và ứng
tác thơ, nhưng Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi đã mang dáng dấp của tác phẩm du kí
hiện đại thể hiện trên kết cấu tác phẩm theo cấu trúc hành trình về những nơi tác giả
đi qua có danh lam và thắng tích, sự quan sát tinh tế kết hợp với vốn tri thức phong
phú để miêu tả đối tượng,... Có thể nói, với Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, Trương
Vĩnh Ký đã đặt nền móng cho du kí hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
1.3.3 Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
Giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX được xem là thời kì rực rỡ nhất của du kí Việt
Nam. Những cuộc đi chơi, đi thăm các đền đài, chùa chiền, di tích văn hóa lịch sử
của đông đảo nhà báo, nhà văn viết du kí là một cuộc hành trình trở về cội nguồn,
làm sống dậy các giá trị của dân tộc bị bỏ quên bằng văn học. Những chuyến công
du hay du lịch nước ngoài của đội ngũ trí thức Việt Nam đã được gắn thêm mục
đích khảo sát văn hóa, giáo dục quốc dân, và cũng là cơ hội để người trí thức Việt

Nam lựa chọn cho mình điểm tựa để nhìn lại phong cảnh đất nước, văn hóa và lịch
sử dân tộc. Bắt nguồn từ dòng chảy của du kí truyền thống, lại được tiếp thu tinh
thần và văn hóa của thời đại, không gian đi lại được mở rộng, nhận thức về lịch sử,
văn hóa của tầng lớp trí thức được nâng lên, du kí Việt Nam đã phát triển và đi tiên
phong trên con đường hiện đại hóa văn học về sử dụng chất liệu và hoàn thiện thể
loại.
Với hàng trăm tác phẩm xuất hiện trên các báo và tạp chí trong gần nửa đầu
thế kỉ cùng với nhiều cây bút xuất sắc đã làm cho thể loại du kí đạt đến đỉnh cao của
sự phát triển trong lịch sử du kí Việt Nam. Từ những chuyến đi ra nước ngoài để
công tác, để học tập, để thăm người thân hay chỉ là cuộc phiếm du, những trí thức
Việt Nam đã viết nên những thiên du kí, nói về những điều mắt thấy, tai nghe, ghi
lại những cảm nhận, những suy nghĩ của mình về đất nước, con người của nhiều
quốc gia trên thế giới. Từ đó, họ nhìn về danh lam, thắng cảnh cũng như con người,
văn hóa Việt Nam với những nét ưu và khuyết bằng tình cảm và khát vọng đối với
đất nước mình. Trong những tác phẩm du kí viễn du, có thể nhận ra những khát
vọng của người trí thức Việt Nam về sự canh tân đất nước, về ngày mai của dân tộc.
Non nước Việt Nam trở nên bao la hơn, xinh đẹp hơn, giàu truyền thống và bản sắc
văn hóa hơn nhờ bước chân của những nhà văn, nhà báo đi du lịch. Chính những
điều này đã làm nên đặc điểm về nội dung của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX:
phong phú về về tài, đa dạng về cảm hứng. Sự phát triển của du kí Việt Nam nửa


19
đầu thế kỉ XX đã hình thành nên nhiều phong cách tác giả nổi bật như Nguyễn Đôn
Phục, Phạm Quỳnh, Dương Kỵ, Huỳnh Thị Bảo Hòa,...
Quan sát bộ mặt của du kí Việt Nam từ thời kì trung đại đến nửa đầu thế kỉ
XX cho ta thấy rằng, càng vào thời buổi mà con người có nhiều tâm trạng thì du kí
càng phát triển. Như vậy, du kí có nhiệm vụ ghi lại những khoảnh khắc con người
thật của tác giả, góp phần đưa văn học hòa nhập vào cuộc sống luôn sôi động và
biến động. Riêng ở chủ đề đi Tây, nếu như từ cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện nhiều

tác giả người Việt Nam viết du kí nhân những chuyến đi đến Pháp và các nước châu
Âu như Philipphê Bỉnh (1794-1830) với Sách sổ sang chép các việc (1822), Trương
Minh Ký (1855-1900) với các tác phẩm Như Tây nhật trình (1880-1888), Chư quấc
thại hội (1889-1891)… thì bước sang giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, số lượng tác giả
viết du kí khi đến nước Pháp ngày càng nhiều và hình thức tác phẩm cũng đa dạng
hơn: Pháp du hành trình nhật kí (1922) của Phạm Quỳnh, Sang Tây – Mười tháng ở
Pháp (1929) của Phạm Vân Anh (Đào Trinh Nhất), Đáp tàu André Lebon (1929)
của Cao Văn Chánh, Trên đường Nam Pháp (1932) của Trọng Toàn, Đi Tây (1935)
của Lãng Du (Nhất Linh), Du lịch Âu châu – Hội chợ Marseille – Đấu xảo quốc tế
Paris của Nguyễn Công Tiễu.
Ở phương diện đề tài, đề tài là phạm vi đời sống được miêu tả, phản ánh trực
tiếp trong tác phẩm văn học. Đối với du kí, tác phẩm tồn tại dựa trên nguyên tắc
khách quan của sự phản ánh hiện thực, nên đề tài là phạm trù đặc trưng về nội dung
của du kí. Nói đến phạm vi phản ánh hiện thực trong tác phẩm du kí, không chỉ đơn
giản là điều “ghi chép” mà còn là sự miêu tả, thể hiện hiện thực có chủ đích. Du kí
đầu thế kỉ XX rất phong phú về đề tài:
Đề tài khảo cứu văn hóa: Ở trong nước, các nhà du kí thực hiện những
chuyến đi đến những nơi đang tiềm ẩn về các giá trị văn hóa mà ít người biết đến:
khảo cứu về văn hóa cung đình và các di sản văn hóa cung đình, về truyền thống
văn hóa, về các nền văn hóa cổ đại. Hoặc thông qua những chuyến hành trình
ngoại quốc, các nhà du kí đã tìm hiểu về các nền văn hóa khác.
Đề tài lịch sử: Du kí giai đoạn này còn có nhiều tác phẩm mang đề tài lịch
sử. Tuy nhiên, khác với đề tài lịch sử trong tiểu thuyết, du kí không nhằm dựng lại
thế giới nhân vật và sự kiện lịch sử mà chỉ hướng đến mục đích thông tin về các
địa danh sử tích và giả định rằng những nơi đó ít người biết, hoặc nếu có biết thì
chưa tường tận. Đề tài lịch sử và đề tài văn hóa trong du kí Việt Nam thường song
hành với nhau, bổ sung cho nhau nên có nhiều trường hợp, đề tài văn hóa và đề tài
lịch sử thống nhất trong một tác phẩm. Với hai đề tài này, du kí Việt Nam không
chỉ mang giá trị văn hóa, lịch sử xét về mặt tư liệu mà nó còn thể hiện nhiệm vụ
đối với cộng đồng, nhất là nhiệm vụ giáo dục.

Đề tài danh lam thắng cảnh: Tiếp nối du kí thế kỉ XIX viết về các cuộc
hành trình ra nước ngoài, du kí đầu thế kỉ XX đã mở rộng không gian và mục đích
cuộc hành trình cũng đa dạng hơn. Với không gian quốc tế, căn cứ vào cuộc hành
trình và điểm đến, có thể chia ra ba nhóm tác phẩm: du kí về mối quan hệ Pháp Việt, du kí về mối quan hệ Trung - Việt, du kí về mối quan hệ Việt Nam với các


20
nước Đông Nam Á khác; trong đó du kí về mối quan hệ Pháp - Việt là tiêu biểu
hơn cả. Mục đích của cuộc hành trình không phải là cái tạo nên nội dung của du kí
về mối quan hệ Pháp - Việt mà chính là bản thân cuộc hành trình. Nơi sinh sống
của đồng bào dân tộc thiểu số trong nước cũng đã trở thành một mảng trong đề tài
danh lam thắng cảnh. Những cuộc hành trình khám phá đời sống, phong tục, con
người của các dân tộc ấy cũng đã bổ sung thêm bức tranh về văn hóa và con người
Việt Nam.
Bởi những đặc điểm của du kí nửa đầu thế kỉ XX và bản chất của thể loại du
kí là viết về người thật, việc thật nên trong Pháp du hành trình nhật ký đã thể hiện
con người Phạm Quỳnh một cách rõ nét nhất. Những gì mà con người chính trị của
Phạm Quỳnh không thể nói ra thì có lẽ nó đã được thể hiện phần nào trên trang du
kí. Nghiên cứu tâm trạng của Phạm Quỳnh trong Pháp du hành trình nhật ký là ta
đang tìm về ẩn ức trong ông.
1.3.4 Nam Phong Tạp chí với Pháp du hành trình nhật ký
Nam phong Tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản từ tháng 7 năm 1917 đến
tháng 12 năm 1934 thì đình bản. Tồn tại được 17 năm với 210 số. Lược qua những
tạp chí đã ra đời ở Việt Nam thì Tạp chí Nam phong là một tờ xuất bản được liên
tiếp và lâu nhất. Tạp chí này do một người Pháp là Louis Marty sáng lập và do
Phạm Quỳnh đứng ra làm chủ nhiệm kiêm chủ bút từ tháng 7 năm 1917 đến tháng
02 năm 1933. Sau đó, Tạp chí được giao cho Lê Văn Phúc chủ trương, nhưng vì
thiếu khả năng và tài khéo nên nội dung Tạp chí mỗi ngày một sút kém và đình bản
hẳn vào tháng 12 năm 1934. Tạp chí gồm ba phần: Việt, Hán và Pháp, nhưng phần
quan trọng là phần viết bằng tiếng Việt (Quốc ngữ).

Theo Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, không phải ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh đặt tên
tờ báo do mình làm chủ bút là Nam Phong; tên Nam Phong (Gió Nam) lấy ý tưởng
từ bài thơ Nam Phong ca trong Kinh Thi. Do vậy, nhiều người cho nó là có một ý
nghĩa chính trị. Nhưng theo giải thích của Phạm Quỳnh thì tên tạp chí mang ý nghĩa
là ngọn gió, hi vọng sẽ mang đến cho quốc dân Việt Nam đương thời nhiều lợi ích.
Nam phong có hai mục đích chính: Một là diễn tư tưởng học thuật Âu và Á
cho những độc giả không am hiểu chữ Pháp hoặc chữ Hán có thể đọc mà lĩnh hội
được. Hai là đào luyện quốc văn cho hoàn toàn đầy đủ. Để đạt được hai mục đích
đó, ban biên tập chủ trương viết các bài khảo cứu về triết học, khoa học, văn
chương, lịch sử của Âu tây và Á đông; dịch các sản phẩm về triết học, văn học
nguyên viết bằng chữ Nho hoặc chữ Pháp; sưu tập và diễn dịch các thơ văn cổ của
nước ta, cả chữ Nho và Nôm; sưu tập và in nguyên văn những áng danh văn ngoại
quốc (chữ Hán và chữ Pháp).
Nam phong Tạp chí gồm có 09 chuyên mục trong đó mục Du kí nằm trong
chuyên mục Tạp trở. Chuyên mục này giới thiệu sách mới, những bài tựa, những
danh ngôn, trích lục các sách,...Đây chính là nội dung được đánh giá là một trong
những đóng góp quan trọng của Nam phong Tạp chí với nền văn học nước nhà.
Mục Du kí trên Nam phong Tạp chí trong suốt 17 năm hoạt động của tờ Tạp chí đã
tập hợp được 62 tác phẩm của gần 40 tác giả. Những tác giả có người là chuyên


21
nghiệp, có người chỉ là cây bút nghiệp dư. Họ có thể thuộc về tầng lớp Nho học,
Tây học; là nhà báo, nhà văn, nhà khảo cứu,…Có người đi vì sứ vụ, công vụ; có
người đi chỉ để thỏa mãn sở thích du lịch. Chính những mục đích, tư tưởng khác
nhau đó của mỗi nhà du kí đã tạo ra sự phong phú, độc đáo cho chuyên mục Du kí
nói riêng và Nam phong Tạp chí nói chung. Có thể nói, mỗi tác phẩm là một bức
tranh hiện thực tươi mới, trong đó còn đong đầy những dấu ấn, tình cảm cá nhân
chân thành và xúc động của người đi - người viết.
Phạm Quỳnh có một vai trò rất quan trọng, là “linh hồn” của Nam Phong tạp

chí. Ông là người có mặt ngay từ đầu khi Tạp chí mới hình thành và theo sát quá
trình tồn tại phát triển của tờ báo này, trừ năm cuối cùng (1934). Phạm Quỳnh cũng
đã tập hợp được đông đảo các trí thức tài năng trong ban biên tập, phóng viên. Ông
không chỉ làm công tác điều hành mà còn là người biên tập, định hướng bài vở. Ông
tham gia viết nhiều mục, nhiều đề tài khác nhau, từ triết học sang văn học, từ chính
trị đến xã hội, ngôn ngữ, kinh tế,…Có thể thấy, suốt 210 số báo, không có số nào
mà Phạm Quỳnh không góp mặt một hai bài, mà phần lớn những bài đó là những
bài quan trọng. Theo Nguyễn Khắc Xuyên, “giá trị của Thượng Chi không ở những
bài giới thiệu học thuật tư tưởng Âu châu, nhất là Pháp quốc, mà chính là những bài
khảo cứu về văn học, ngôn ngữ, văn tự nước nhà. Dĩ nhiên trong khi dịch thuật
những tác phẩm nước ngoài, dịch giả đã chịu khó tìm tòi danh từ, ngữ vựng để có
thể diễn đạt được trong tiếng mẹ đẻ của mình. Điểm đó chúng ta cũng đã nhận thấy.
Sự làm giàu cho tiếng Việt là một trong những sự nghiệp văn học của Phạm Quỳnh”
[52, tr.14].
Với một số lượng công việc đồ sộ dàn trải trên nhiều lĩnh vực và một thời
gian khá dài, trong bối cảnh không khí học thuật đương thời, nhóm Nam Phong Tạp
chí đã có được tầm ảnh hưởng tương đối sâu rộng trong xã hội. Họ đã có nhiều
đóng góp đáng kể cho học thuật, văn hóa và đặc biệt là cho tiến trình hiện đại hóa
nền văn học.
Nam Phong ngoài công góp phần thúc đẩy sự trưởng thành của chữ quốc
ngữ, còn phục dựng nhiều tài liệu văn học của tiền nhân và giới thiệu đến độc giả
một cách cẩn trọng, khoa học mà đến nay một số vẫn còn nhiều giá trị. Ngoài việc
phiên dịch, giới thiệu văn hóa nước ngoài, góp phần thúc đẩy sự hội nhập của Việt
Nam đối với thế giới, để nền văn hóa của chúng ta cũng có cơ hội duyệt xét lại
những giá trị cổ truyền mà gạn đục khơi trong, học hỏi và tiến bộ, Nhóm Nam
Phong còn tìm cách duy trì và phổ biến những tinh hoa về tư tưởng, học thuật, lễ
nghi, phong tục của nước nhà. Tuy vậy, giữa lúc mọi tư tưởng cách mạng, phong
trào yêu nước bị đàn áp gắt gao, giữa lúc nền Pháp học đang được thực dân hậu
thuẫn, bành trướng thì Nam Phong xuất hiện giới thuyết Pháp Việt đề huề, thuyết
Trung dung mà nhiều người cho là đã làm hao mòn chí khí đấu tranh, đánh lạc

hướng các nhà cách mạng yêu nước: nhóm Đông Kinh nghĩa thục, Phan Bội Châu,
Tăng Bạt Hổ, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,…Cái mất mát, tổn hại về đường
tinh thần không phải là ít, nhưng cái được về đường tiến hóa cũng nhiều. Với Nam
Phong và trường hợp của Phạm Quỳnh cần có cái nhìn lịch sử và trân trọng vốn quí


22
của quá khứ. Cực đoan trong đánh giá là một điều không nên khi sự việc đã thuộc
về lịch sử. Bài học Nam Phong vẫn còn đó.
Nói về những đóng góp của nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc
Phan cho rằng: “Đến khi tạp chí Nam Phong ra đời (tháng 7/1971), quốc văn lại
bước cao hơn một bậc nữa. Bởi vì đến Nam Phong tạp chí, có một đội ngũ biên tập
tài năng và sáng suốt, đáng kể hơn hết là tài năng uyên bác của ông chủ bút Phạm
Quỳnh…Khai thác bước đầu cho nền quốc văn Việt Nam thật là một công không
nhỏ của Phạm Quỳnh. Văn ông ai cũng khen là hùng và dồi dào, thường có giọng
thiết tha kêu gọi, nhưng vẫn có người than ông dùng nhiều chữ nho quá, làm cho
câu văn hóa ra nặng nề cả những khi diễn những tư tưởng rất nhẹ nhàng. Trong 16
năm chủ trương Tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn được
vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ Nam chí Bắc,
người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn
cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm
của mình. Thậm chí có người còn lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái
được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông - Tây” [32, tr.71-72].
Với tác phẩm du kí lớn Pháp du hành trình nhật ký, Phạm Quỳnh đã có đóng
góp đặc biệt quan trọng ở mảng thể tài du kí viết về nước Pháp và mối quan hệ Việt
- Pháp hồi đầu thế kỉ XX. Theo ghi chép của Phạm Quỳnh trong Pháp du hành
trình nhật ký, chuyến đi khởi hành từ ngày 09 tháng 3 năm 1922 tại cảng Hải Phòng
và trở về vào ngày 11 tháng 9, vừa đủ sáu tháng. Năm ấy Phạm Quỳnh tròn ba
mươi tuổi. Trong hơn nửa năm ở Pháp, ông chủ ý đi - xem - nghe càng nhiều càng
tốt, từ đó ông suy nghĩ, đối sánh văn minh và thế cuộc nước Pháp với xứ sở Việt

Nam. Tại nước Pháp, ông đã trở đi trở lại Marseille, qua Lyon, Versailles, Verdun và
thăm thú khắp các công sở, di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh ở Paris,...
Đến đâu ông cũng ghi chép, bình luận, liên hệ, so sánh với cuộc sống bên nước nhà
và phát biểu cảm tưởng về những điều tai nghe mắt thấy.
Đây có lẽ là sáng tác giá trị nhất của Phạm Quỳnh được độc giả và các nhà
phê bình công nhận. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã phê bình tác phẩm
này như sau: “Quyển Ba tháng ở Paris (Pháp du hành trình nhật ký) của Phạm
Quỳnh là một quyển du ký rất thú vị, truyện ông kể có duyên lại vui, tường tận từng
chốn làm cho người chưa bước chân lên đất Pháp, chưa hề tới Paris, cũng tưởng
tượng qua được những thắng cảnh và những nơi cổ tích của kinh thành ánh sáng
dưới trời Tây và chia sẻ ít nhiều cảm xúc với nhà du lịch…”
1.4 Khái niệm Cảm thức dân tộc
Cảm thức: Khái niệm Cảm thức (Sense, Sensibility) có gốc tự từ tiếng La
tinh là Sensus. Từ điển English Larousse định nghĩa: “Cảm thức là sự thông thái
thực tiễn, là khả năng quan kiến và hành động hay phán đoán đúng đắn”. Từ điển
International Dictionary of English định nghĩa: “Cảm thức là sự nhận thức, thấu
hiểu hay khả năng quyết định về một điều gì đó tốt hoặc có giá trị như trực giác
ngoại cảm trong việc kết nối với nghệ thuật hay hành vi xã hội”.


23
Cảm thức là một thực trạng tinh tế nằm ở chiều sâu hơn nhận thức. Cảm thức
không thể được chứng minh chỉ bằng lí lẽ khoa học mà còn phải bằng cả trực giác.
Theo lý thuyết của Bergson - nhà sáng lập thuyết trực cảm nói rằng, về cơ bản, con
người có hai phương thức tiếp cận hiện thực: một phương thức tiếp cận khoa học,
có nhiệm vụ đơn giản hóa và khơi thông dòng chảy phong phú và đa dạng của hiện
thực để tác động đến dòng chảy hiện thực nhằm phục vụ cho những mục đích thực
tiễn của con người; phương thức thứ hai hiếm hơn, có khả năng thâm nhập và tỏ ra
tinh tế hỗ trợ cho phương diện thứ nhất đó chính là trực cảm. Trực cảm đi vòng qua
thế giới của khoa học và của các hoạt động khai thác thực tiễn để thâm nhập vào

những cõi sâu thẳm, nắm bắt “cuộc sống nội tâm của sự vật”. Điều đó giải thoát
chúng ta khỏi thói quen sai trái là chỉ nhìn thế giới vì những khía cạnh hữu ích và
thực dụng của nó, để thấy được bản chất của hiện thực.
Dân tộc: Theo Từ điển Tiếng Việt: “Dân tộc là dân một nước hay một bộ lạc,
cùng chung một tiếng nói hay chữ viết, một phong tục; sống chung với nhau dưới
một tổ chức cai trị và ràng buộc nhau vì quyền lợi và phận sự” [25, tr.286].
Từ những định nghĩa trên, chúng tôi hiểu Cảm thức dân tộc là một cụm danh
từ diễn tả thực trạng nội tâm của một con người mà họ luôn hướng về dân tộc với cả
khối óc và trực cảm của con tim. Người có cảm thức dân tộc luôn nghĩ về dân tộc
mình như một nỗi ám ảnh thường trực và họ nhìn mọi sự đều qua lăng kính của tâm
tưởng ấy.
Nghiên cứu Cảm thức dân tộc trong Pháp du hành trình nhật ký của Phạm
Quỳnh là chúng tôi bằng những phương pháp nghiên cứu, tìm kiếm những cảm xúc
sâu lắng thường trực của Phạm Quỳnh về dân tộc Việt Nam thể hiện trong tác phẩm
Pháp du hành trình nhật ký. Cảm thức ấy ẩn chứa qua nội dung tư tưởng, hệ thống
ngôn ngữ tác phẩm.


24
Chương 2
CẢM THỨC DÂN TỘC
TRONG PHÁP DU HÀNH TRÌNH NHẬT KÝ
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

2.1 Cảm thức dân tộc thể hiện qua đề tài
Đối với một quốc gia thanh bình, ít xảy ra xung đột về chủ quyền thì tính dân
tộc hiếm khi trở thành điểm nhấn, ít trở thành vấn đề trung tâm của đời sống.
Nhưng khi có sự xâm lấn quốc gia, tính dân tộc trở nên quen thuộc trong các bàn
luận, đặc biệt thể hiện trong ứng xử văn hóa, văn học. Nước ta hàng nghìn năm phải
đối mặt với nhiều cuộc chiến chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam luôn phải chống

chọi cách quyết liệt trước nguy cơ bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai. Ý thức mạnh
mẽ chống âm mưu xóa văn hóa bản địa hòng xóa cả một dân tộc đã trở thành những
đề tài văn học, khiến nền văn học Việt Nam luôn trĩu nặng trong nó cảm thức dân
tộc sâu sắc.
Theo Phương Lựu, một tác phẩm chất chứa cảm thức dân tộc khi nó trước
tiên nêu ra được các vấn đề của dân tộc, nói lên được khát vọng của dân tộc, tinh
thần, diện mạo văn hóa của dân tộc. Sau đó, tác phẩm ấy phải bộc lộ được cách
cảm, cách nghĩ của dân tộc. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập quán, khí hậu, chế
độ xã hội cũng là thể hiện tính dân tộc trong tác phẩm văn học. Như vậy, cảm thức
dân tộc có thể được cảm nhận mạnh mẽ ngay khi độc giả tiếp xúc với bề mặt bản
văn. Có thể dẫn chứng như khi đọc thơ của Puskin hay tiểu thuyết của L.Tonxtoi,
độc giả nhận ra một tinh thần dân tộc chan chứa bởi ngập tràn nơi thế giới nghệ
thuật ấy là những cây bạch dương, con chim hồng tước, mùa thu vàng,… dường
choáng hết cả bầu trời thiên nhiên Nga.
Trong lãnh địa du kí Việt Nam, khi tiếp cận với các tác phẩm viết về chủ đề
biển đảo nửa đầu thế kỉ XX, chúng ta cũng dễ dàng nhận ra một tinh thần dân tộc
trong các tác phẩm theo. Các tác giả du kí đã đặt dân Việt Nam trong thế đối sánh
với người Trung Quốc trên nhiều phương diện: văn hóa, phong tục, lối sống,...đặc
biệt là hoạt động kinh tế biển. Đến thăm các vùng biển đảo, chứng kiến cuộc mưu
sinh và sinh hoạt văn hóa của người dân nơi đây, ngòi bút của các nhà du kí đều
không khỏi xót xa khi nhận thấy những tiềm năng, nguồn lợi to lớn mà biển cả
mang đến thật dồi dào nhưng chúng hầu như đều bị “kẻ khác” khai thác, khống chế,
chiếm dụng. Mang nỗi niềm chung đó, tác giả Vĩnh Phúc trong bài Một tuần ở đảo
Hoàng Sa (in trên Tràng An báo - Huế, số 345, ra ngày 9/8/1938, tr.1+4) đã nhấn
mạnh vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và bày tỏ niềm hi vọng về “người mình”
có điều kiện khai thác tài nguyên khoáng sản, hải sản làm giàu cho Tổ quốc. Có thể
nói rằng, tự hào và ngợi ca sự giàu đẹp của thiên nhiên, sản vật miền biển đảo, xem



×