Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU TRONG LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN: NGÔ THỊ THU HÀ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.NGUYỄN QUÝ TRỌNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Người cam đoan

Ngô Thị Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất đến tập thể giáo viên Khoa đào tạo Sau đại học – Viện đại học Mở Hà
Nội đã hết lòng tận tình chỉ dạy, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình
học tập tại trường thời gian qua .


Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Quý Trọng –
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ và động viên cá nhân tôi trong suốt
quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Thật lòng vô cùng cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của toàn thể gia
đình, bạn bè trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, cũng như trong
suốt quá trình học tập vừa qua.
Mặc dù đã hết sức cố gắng song khóa luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong quý thầy giáo, cô giáo cũng toàn thể bạn bè góp ý để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2018
Học viên thực hiện

Ngô Thị Thu Hà


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HƯƠNG MẠI VÔ
HIỆU VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU ................ 6
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và hợp đồng thương mại vô hiệu ..... 6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng và hợp đồng thương mại. ....................................... 6
1.1.2 Nhận diện hợp đồng thương mại vô hiệu. ............................................... 9
1.1.3. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu. ............................................. 13
1.1.4 Các nguyên tắc áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự trong việc xử lý
hợp đồng thương mại vô hiệu......................................................................... 18
1.2. Pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ............................................. 22
1.2.1. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh

hợp đồng thương mại vô hiệu......................................................................... 22
1.2.2. Khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hợp đồng
thương mại vô hiệu. ....................................................................................... 33
Chương 2 THỰC TRẠNG XỬ LÝ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................... 35
2.1. Các điều kiện kiện kinh tế-xã hội của thành phố Hà Nội ảnh hưởng tới
việc xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu .......................................................... 35
2.1.1.Thuận lợi ............................................................................................... 35
2.1.2.Khó khăn................................................................................................ 36
2.2. Thực tiễn các quy định pháp luật về xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu ..... 37
2.2.1. Số liệu xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu tại TAND thành phố Hà nội ... 37
2.2.2.Đánh giá hoạt động xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu tại TAND thành
phố Hà Nội ..................................................................................................... 41
Chương 3 NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU Ở VIỆT NAM ................ 65


3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật hợp đồng và xử lý hợp đồng thương mại
vô hiệu. .............................................................................................................. 65
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật hợp đồng và xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu
là một tất yếu khách quan, sự đòi hỏi của thực tiễn. ...................................... 65
3.1.2 Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp
đồng thương mại vô hiệu. ............................................................................... 67
3.2 Những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương
mại vô hiệu và xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu. ....................................... 71
3.2.1 Hoàn thiện các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. ................................................................................................... 71
3.2.2 Về các trường hợp tuyên bố hợp đồng thương mại vô hiệu................... 74
3.3.3 Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xét xử hợp đồng thương mại vô
hiệu ................................................................................................................. 84

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 90


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. BLDS

: Bộ luật dân sự

2. BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

3. HĐDS

: Hợp đồng dân sự

4. HĐVH

: Hợp đồng vô hiệu

5. GDDS

: Giao dịch dân sự

6. NLHVDS

: Năng lực hành vi dân sự


7. PLHĐKT

: Pháp luật hợp đồng kinh tế

8. TAND

: Tòa án nhân dân

9. TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của hợp đồng thương
mại trong đời sống xã hội đặc biệt là trong các hoạt động giao thương hàng hóa dịch
vụ giữa các chủ thể với nhau. Chế định hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh doanh
thương mại nói riêng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng không thể
thiếu trong hoạt động thương mại của mỗi quốc gia khi mà cơ chế hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng. Hợp đồng thương mại tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự
vận động linh hoạt và an toàn trong các giao dịch kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giữa
các chủ thể trực tiếp hoặc dán tiếp tham gia. Khi xây dựng pháp luật về hợp đồng, các
nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về
xử lý hợp đồng vô hiệu. Các quy định này có tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã
hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Việc xử lý hợp đồng vô hiệu như thế nào ảnh
hưởng rất lớn đến quyền lợi ích của các bên trong hợp đồng. Do vậy, các quy định về
xử lý hợp đồng vô hiệu phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đảm bảo sự hài hòa
giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng, nhà nước nói chung. Tuy

nhiên, hiện nay các quy định về hợp đồng vô hiệu vẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy
định có phần còn cứng nhắc, chưa đầy đủ, có quy định còn chồng chéo, gây nên cách
hiểu không thống nhất. Ví dụ như: Các căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu còn có
nhiều điểm chưa rõ ràng; hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu còn quy định chung
chung, khó áp dụng. Quyền lợi của các chủ thể tham gia trong quan hệ thương mại
không được đảm bảo thỏa đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Về phía các cơ
quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp đồng, những quy định không rõ
ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều khó khăn, lúng túng trong công tác xét xử
có liên quan tới hợp đồng vô hiệu. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực
của các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên
thực tế, cũng không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do một bên giao kết

1


hợp đồng lợi dụng các quy định của pháp luật để "lách luật", nhằm trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ của mình.
Việc xây dựng các quy định pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực
thương mại hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn không những là yêu cầu chính đáng
của thương nhân để họ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình mà còn là điều kiện
để cơ quan nhà nước hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra. Vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề này là một yêu cầu cần
thiết hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu trong
lĩnh vực thương mại từ thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận văn của mình. Luận văn chủ yếu phân tích và làm rõ những
vấn đề lý luận về hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại, xử lý hợp đồng vô
hiệu. Từ thực trạng xử lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại tại TAND
thành phố Hà Nội chỉ rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất
cập về xử lý HĐVH. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về

xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về hợp đồng vô hiệu cũng như pháp luật về hợp đồng vô hiệu
trong lĩnh vực thương mại đã được nhiều nhà khoa học quan tâm trong các thời kỳ
trên nhiều góc độ khác nhau, như:
- Giáo trình Luật thương mại trường Đại học Luật Hà Nội, tập 2, Nbx Tư Pháp
năm 2017; Khoa Luật Đại học Quốc gia, Học viện khoa học xã hội, Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt nam và các cơ sở đào tạo ngành luật.
- Bên cạnh đó, vấn đề hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại còn được
đề cập trong một số ấn phẩm như: Sách Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của Bộ
Tư Pháp; Lê Thị Bích Thọ: “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp
đồng kinh tế vô hiệu”, Luận án tiến sĩ, năm 2002; Nguyễn Văn Cường: "Giao dịch
dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu"

2


năm 2004; Luận án Tiến sỹ; Cao Thị Thùy Dương: "Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xử lý hợp đồng vô hiệu ở Việt Nam"Luận văn thạc sĩ, năm 2004…
- Một số công trình khoa học khác cũng đề cập đến hợp đồng vô hiệu, như:
TS. Bùi Đăng Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu
tuyệt đối; Hoàng Thị Thanh: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”…Tuy nhiên, có thể
nhận thấy các công trình có liên quan đến đề tài chủ yếu được nghiên cứu các quy
định của pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật như: Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế, Bộ luật dân sự của giai đoạn 2004 trở về trước chưa được bổ sung
theo pháp luật sửa đổi sau này. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy
định về hợp đồng thương mại vô hiệu từ lý luận đến thực tiễn xét xử tại Tòa án có ý
nghĩa rất quan trọng đặc biệt là sau khi Bộ luật thương mại 2015 ra đời cũng nảy
sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung.

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề về hợp đồng
thương mại, hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại và xử lý hợp đồng vô hiệu
trong lĩnh vực thương mại trên phương diện lý luận. Thực trạng pháp luật về hợp
đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội đúc rút những kết quả và hạn chế, bất cập. Trên cơ sở đó, đề xuất
các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại
trong giai đoạn hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn tập trung làm rõ những
vấn đề sau:
+ Phân tích và lý giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng, hợp
đồng thương mại vô hiệu, cách thức xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu và hậu quả
pháp lý của hợp đồng thương mại vô hiệu trong Bộ luật dân sự và Luật thương mại
năm 2005.

3


+ Lược sử quá trình điều chỉnh của pháp luật Việt nam về hợp đồng thương
mại vô hiệu qua các thời kỳ làm nổi bật sự phát triển của các quy định pháp luật về
vấn đề này.
+ Nghiên cứu thực tiễn xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu tại Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội.
+ Đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật và các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu.
- Phạm vi nghiên cứu: tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về hợp đồng,
hợp đồng vô hiệu, xử lý hợp đồng vô hiệu được quy định tại Bộ luật dân sự 2015,
Luật Thương mại năm 2005, có khảo cứu quy định của một số nước trân thế giới về
vấn đề này. Đồng thời, tác giả đánh giá, bình luận thực tiễn xử lý hợp đồng vô hiệu
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
hợp đồng thương mại, hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại và thực tiễn xử
lý hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại tại TAND thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn tập trung nghiên cứu các quy
định về hợp đồng, hợp đồng vô hiệu trong lĩnh vực thương mại (sau đây thống nhất
gọi chung là hợp đồng thương mại vô hiệu) cũng như xử lý nó chủ yếu được quy
định tại Bộ luật dân sự năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2013, Luật
Thương mại năm 2005 và một số văn bản pháp luật liên quan.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu của luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Tác giả sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, phân tích, tổng
hợp, so sánh, đánh giá…để giải quyết các nội dung và đạt được mục tiêu đề ra.

4


6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn làm rõ những vấn đề cơ bản của hợp đồng thương mại , hợp đồng
thương mại vô hiệu như: nhận diện hợp đồng thương mại, khái niệm, đặc điểm hợp
đồng thương mại vô hiệu …
- Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật tại TAND thành phố Hà
Nội về xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu theo quy định tại Luật thương mại và Bộ
luật Dân sự 2015.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu
trong lĩnh vực thương mại trong giai đoạn hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong học tập,
giảng dạy và áp dụng trong thực tiễn.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng, Hợp đồng thương mại vô hiệu
và pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu và thực tiễn
xử lý hợp đồng thương mại vô hiệu tại tòa án nhân dân thành phố Hà nội.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại vô
hiệu ở Việt nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

5


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HƯƠNG
MẠI VÔ HIỆU VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI VÔ HIỆU
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại và hợp đồng thương mại vô hiệu.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng và hợp đồng thương mại.
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng.
Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và người liên
quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy không chỉ hình thành
trong lĩnh vực dân sự mà cả trong các lĩnh vực thương mại, lao động, thậm chí trong
lĩnh vực hành chính. Mỗi loại hợp đồng, trong mỗi lĩnh vực, có những đặc điểm rất
riêng và, do đó, được chi phối bởi những quy định riêng1. Hợp đồng là công cụ pháp
lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu
hết mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy vậy trong lịch sử lập pháp của nhân loại,
để tìm ra một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “ hợp đồng” đang được sử dụng ở

nhiều quốc gia hiện nay là việc không mấy dễ dàng. Ở Việt Nam, trong thực tế đời
sống, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ về hợp đồng như: Khế ước, giao kèo,
văn tự, văn khế, tờ giao ước, tờ ưng thuận, chấp thuận…Sau này, các văn bản hiện
hành của nhà nước ta không còn được sử dụng thuật ngữ “ khế ước” hay “hiệp ước”
như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “ chức năng”, “công cụ”1 như hợp
đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại. Đây là điểm cá biệt bởi trong
pháp luật của nhiều nước, người ta chỉ sử dụng thuật ngữ “ Hợp đồng” nói chung, chứ
không sử dụng thuật ngữ “ Hợp đồng dân sự”, “ Hợp đồng thương mại”, “ Hợp đồng
lao động” một cách cụ thể như pháp luật Việt Nam.
Khái niệm về hợp đồng được quy định trong Bộ Luật dân sự năm 2015 có sự
thay đổi so với quy định về hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó,
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ giữa các bên tham gia thỏa thuận2.
1

Phạm Hữu Nghị ( Năm 1996) Bộ luật dân sự, Luật thương mại và Pháp luật hợp đồng kinh tế trong sự điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế, nhà nước và pháp luật.
2
Điều 385 Bộ luật dân sự 2015.

6


1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng thương mại.
Danh từ “hợp đồng” được xuất hiện lần đầu tiên trong pháp lệnh hợp đồng
kinh tế công bố ngày 28/09/1989 và pháp lệnh về hợp đồng dân sự công bố ngày
07/05/1991. Theo hai văn bản này, hợp đồng kinh tế bao gồm các hợp đồng được kí
kết nhằm mục đích kinh doanh giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với
tư nhân có đăng kí kinh doanh theo pháp luật. Các tranh chấp phát sinh trong việc
thi hành hợp đồng kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế, các hợp

đồng khác không phải là hợp đồng kinh tế đều là hợp đồng dân sự. Như vậy, một
hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế hay dân sự tùy theo chủ thể và mục đích
theo đuổi: hợp đồng mua bán là hợp đồng kinh tế nếu được kí kết giữa các công ty
với nhau, giữa công ty và tư nhân có đăng kí kinh doanh nhằm mục đích kinh
doanh; hợp đồng là dân sự nếu được kí kết giữa các cá nhân với nhau.
Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, luật pháp không phân biệt giữa hợp
đồng dân sự và hợp đồng kinh tế ( còn gọi là hợp đồng thương mại), các qui định về
hợp đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng thương mại ( Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Ý,
Pháp). Tuy nhiên , tại Pháp một số hợp đồng do mục đích của nó được xem là hành
vi thương mại bị chi phối bởi các qui tắc của Bộ luật thương mại.
Tại Việt Nam, Luật thương mại công bố ngày 27/06/2005 quy định một số
giao dịch được xem là hoạt động thương mại, Điều 3 Luật thương mại 2005: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”. Các hợp đồng thực hiện các hoạt động thương mại này do Luật
thương mại chi phối; do đó chúng ta có thể tạm gọi các hợp đồng này là các hợp
đồng thương mại. Nhưng lợi ích của sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp
đồng thương mại chẳng còn là bao khi mà ngày nay Bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam 2015 đã quy tụ mọi tranh tụng về một mối: Tòa án dân sự xét xử mọi tranh
chấp về dân sự, thương mại, lao động…Mặc dù vậy các hợp đồng thực hiện hoạt
động thương mại được dự liệu trong Luật thương mại cũng có những đặc tính riêng
của nó, ngoài các quy tắc chung cho mọi hợp đồng được dự liệu trong luật dân sự.

7


Có thể xem xét hợp đồng thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự
theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhiều vấn đề về hợp
đồng trong thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật không có sự khác biệt với các
hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô

hiệu… Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề
về hợp đồng thương mại được quy định trong bộ luật thương mại có tính chất là sự
phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng (như chủ
thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp
đồng...). Hợp đồng thương mại có những đặc điểm nhất định để nhận biết và phân
biệt với các loại hợp đồng khác.
Về chủ thể, hợp đồng thương mại được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân.
Theo quy định của Luật thương mại, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh (Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005). Điểm mấu chốt là tất cả
chủ thể của quan hệ hợp đồng thương mại (thương nhân) đều phải có đăng ký kinh
doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng thương mại có thể là thương nhân Việt
Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Luật thương mại quy định về thương nhân nói
chung và thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Về hình thức, hợp đồng thương mại có thể được thiết lập dưới hình thức văn
bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp
nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng thương mại bằng hình
thức văn bản (Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại,
quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại...). Luật thương mại cho phép các bên hợp
đồng có thể thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý
tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo,
telex, fax, thông điệp dữ liệu (Khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005).
Về nội dung và mục đích của hợp đồng thương mại: Mục đích của các bên
trong hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng không
nhằm mục đích lợi nhuận giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước

8


Việt Nam, thì hợp đồng được áp dụng Luật thương mại khi bên không nhằm mục

đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật thương mại (Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại
2005). Hợp đồng thương mại có thể chia thành những nhóm chủ yếu như sau:
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng mua bán hàng hóa không có
yếu tố quốc tế; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Xuất khẩu, nhập khẩu, tạm
nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) và hợp đồng mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn).
Hai là, hợp đồng dịch vụ: Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan trực tiếp đến
mua bán hàng hóa (hợp đồng trong các hoạt động xúc tiến thương mại, trung gian
thương mại, các hoạt động thương mại cụ thể khác); các hợp đồng cung ứng dịch vụ
chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo, du lịch...).
Ba là, những hợp đồng trong các hoạt động đầu tư thương mại đặc thù khác
(hợp đồng giao nhận thầu xây lắp, hợp đồng chuyển nhượng dự án khu đô thị mới,
khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp...).
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại là sự thỏa thuận giữa các thương nhân với nhau hoặc với người liên quan nhằm
xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại.
Lưu ý, người có liên quan ở đây không phải là thương nhân tham gia hợp đồng
không nằm mục đích sinh lợi nhưng có liên quan đến thương mại và có lựa chọn
luật áp dụng là Luật thương mại.
1.1.2 Nhận diện hợp đồng thương mại vô hiệu.
1.1.2.1 Khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu.
Hợp đồng thương mại vô hiệu hiện nay là thuật ngữ được sử dụng khá phổ
biến, song để đưa ra một khái niệm cụ thể thì chưa có tài liệu nào đề cập tới. Tuy
nhiên cũng có thể hiểu một hợp đồng thương mại vô hiệu là một hợp đồng không
tồn tại theo luật hoặc một hợp đồng không có giá trị pháp lý hoặc không có giá trị
bắt buộc đối với các bên giao kết hợp đồng. Như vậy hợp đồng thương mại vô hiệu
được hiểu là “hợp đồng giao kết có sự thể hiện ý chí của các bên tham gia, nhưng

9



có sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định trong Bộ luật
Dân sự 2015 ( Điều 122) làm cho hợp đồng vô hiệu”.3
Hợp đồng thương mại vô hiệu chứa đựng những yếu tố gây vô hiệu như giả
tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa … dẫn tới không đảm bảo một hoặc một số điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Thời điểm xác định sự vô hiệu của hợp đồng
thương mại được tính từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Hợp đồng đã ký sẽ
không có giá trị thực hiện kể từ khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, trường hợp hợp
đồng thương mại vô hiệu đã và đang được thực hiện thì việc thực hiện hợp đồng sẽ
bị chấm dứt.
1.1.2.2.Đặc điểm của hợp đồng thương mại vô hiệu.
Thứ nhất, Hợp đồng thương mại vô hiệu do không phát sinh hiệu lực theo quy
định của pháp luật về hợp đồng.
Hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện hợp pháp theo quy định của
pháp luật về hợp đồng đó là các điều kiện về năng lực chủ thể; điều kiện về mục
đích và nội dung thỏa thuận; điều kiện về thể hiện ý chí trong thỏa thuận; điều kiện
về hình thức giao dịch và điều kiện đối tượng hợp đồng phải thực hiện được.
Về điều kiện chủ thể khoản 1, Điều 6 luật thương mại năm 2005 quy định chủ
thể của hợp đồng thương mại là thương nhân; thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các chủ thể tham gia hợp đồng thương mại phải
có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn kinh
doanh, thương mại, chủ thể tham gia hợp đồng thương mại chủ yếu là thương nhân.
Khi tham gia hợp đồng thương mại nhằm mục đích lợi nhuận, các thương nhân phải
đáp ứng điều kiện có đăng ký kinh doanh phù hợp với nội dung hợp đồng. Trường
hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ có điều kiện thương nhân còn phải đáp ứng các điều
kiện kinh doanh đó theo quy định của pháp luật.
Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc
đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp đồng thương mại,
3


Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

10


phải lưu ý quy định tại Điều 142 Bộ luật dân sự 2015, theo đó khi người không có
quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng, sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ đối với bên hợp đồng được đại diện, trừ trường hợp người đại diện hoặc người
được đại diện chấp thuận.
Năng lực chủ thể của thương nhân có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng
ký kinh doanh; pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như là một chủ thể
bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác; Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
pháp nhân phát sinh đồng thời tại thời điểm thành lập pháp nhân, tồn tại trong suốt
quá trình hoạt động của pháp nhân và chỉ chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt hoạt
động; Đối với các pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực chủ thể phát sinh
kể từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; Còn năng lực hành
vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự; như vậy thương nhân phải đáp ứng được điều kiện về
năng lực chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại nếu không đáp ứng các
điều kiện về năng lực chủ thể sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu.
Về thể hiện ý chí trong thỏa thuận các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự
nguyện. Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo sự thỏa thuận
của các bên phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của
các bên, đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Theo
quy định của Bộ luật dân sự, việc giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng thương
mại nói riêng phải tuân thủ theo các nguyên tắc tự do giao kết nhưng không trái
pháp luật và đạo đức xã hội, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng. Bộ luật thương mại 2005 còn bổ sung thêm nguyên tắc áp dụng thói
quen trong hoạt động thương mại (Điều 12); áp dụng tập quán trong hoạt động

thương mại (Điều 13); Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng
(Điều 14) và Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại ( Điều 15).
Về hình thức, hợp đồng thương mại có thể được thiết lập dưới hình thức văn
bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp

11


nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng kinh doanh thương mại
bằng hình thức văn bản (Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng dịch vụ
khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại...). Luật thương mại cho phép
các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức thức văn bản bằng các hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (Khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005).
Về nội dung và mục đích của hợp đồng thương mại: Mục đích của các bên
trong hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng không
nhằm mục đích lợi nhuận giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước
Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì hợp đồng được áp dụng Luật thương mại
khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật thương mại (Khoản
3 Điều 1 Luật thương mại 2005).
Về điều kiện đối tượng hợp đồng phải thực hiện được, đây cũng là điều kiện
rất quan trọng xác lập hợp đồng được thực hiện một cách khả thi và đúng luật bởi vì
nếu hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được mà các bên vẫn giao kết thực
hiện thì theo Điều 408 BLDS 2015 “ Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”.
Khoản 2 Điều 408 BLDS 2015 được quy định nhằm hạn chế sự lạm dụng
của một bên khi biết rõ hoặc buộc phải biết đối tượng của hợp đồng không thể thực
hiện được nhưng vì mục đích nào đó mà vẫn cố tình giao kết hợp đồng và gây thiệt
hại cho bên kia.

Thứ hai, các bên tham gia hợp đồng phải chịu hậu quả pháp lý nhất định.
Các bên tham gia giao dịch phải chịu hậu quả pháp lý nhất định. Thời điểm
xác định sự vô hiệu của hợp đồng thương mại được tính từ thời điểm hình thành
hợp đồng. Hợp đồng đã ký sẽ không có giá trị bắt buộc thực hiện và việc thực hiện
vì thế bị chấm dứt, quay lại tình trạng ban đầu. Hậu quả pháp lý của hợp đồng
thương mại vô hiệu được giải quyết theo quy định của Điều 131 bộ luật dân sự 2015
đối với hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo quy định này thì hợp
đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các

12


bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa
lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường cho bên kia.
1.1.3. Phân loại hợp đồng thương mại vô hiệu.
Các quy định về giao dich dân sự từ Điều 122 đến Điều 133 BLDS 2015
được áp dụng cho hợp đồng thương mại vô hiệu nên dựa vào đó có thể thấy có
những loại hợp đồng thương mại vô hiệu dựa vào các căn cứ sau4:
* Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng loại hợp đồng thương mại cụ thể thì hợp
đồng thương mại vô hiệu được chia thành:
- Hợp đồng thương mại vô hiệu toàn bộ: là hợp đồng mà toàn bộ nội dung
của nó đều vi phạm điều kiện có hiêụ lực của hợp đồng hoặc có một số nội dung
của hợp đồng bị vô hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp
đồng.
- Hợp đồng thương mại vô hiệu từng phần: là hợp đồng mà chỉ có một số nội
dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của HĐDS, còn các nội dung khác không
vi phạm hoặc có một phần của HĐVH nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực còn lại

của hợp đồng.
* Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không của hợp đồng cũng như
căn cứ vào ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch thì
HĐTMVH đuợc chia thành:
-Vô hiệu tuyệt đối: Các loại hợp đồng thương mại bị vô hiệu tuyệt đối: Hợp
đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội5 và khi giao
dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm

4
5

Xem thêm từ Điều 122 đến Điều 133 BLDS năm 2015
Điều 123 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015

13


trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba và khi hình thức của giao dịch không tuân
thủ theo qui định bắt buộc của pháp luật.6
- Vô hiệu tương đối: Điều 130 Bộ luật dân sự 2015: “giao dịch dân sự vô
hiệu từng phần khi một phần của giao dịch bị vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến
hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”. Như vậy, chỉ riêng những điều khoản bất
hợp pháp bị tiêu hủy, còn các phần khác của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
* Các loại hợp đồng vô hiệu tương đối:
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 Bộ
luật dân sự Việt Nam 2015).
- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126 Bộ luật dân sự Việt Nam
2015).
- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 127 Bộ luật dân sự Việt Nam

2015).
- Hợp đồng vô hiệu do người xác lập đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã
xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
(Điều 128 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015).
Sự phân loại nêu trên dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản
chất của hai khái niệm giữa giao dịch vô hiệu tuyệt đối và giao dịch vô hiệu tương
đối. Đó là:
Thứ nhất, là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch. Giao dịch vô hiệu
tuyệt đối thì mặc nhiên là bị coi là vô hiệu. Còn đối với các giao dịch vô hiệu tương
đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Thứ hai, là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với
các giao dịch vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu
không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch tuyên bố vô hiệu tương đối thì thời hiệu
khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là hai năm kể từ ngày:
6

Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015

14


a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập
do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không
tuân thủ quy định về hình thức.
Riêng đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 (Giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội) và Điều 124 (Giao dịch dân
sự vô hiệu do giả tạo) của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế (Điều 132 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015).
Thứ ba, giao dịch thương mại thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối có thể bị vô
hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà giao dịch này đương nhiên
không có giá trị, vì giao dịch vi phạm pháp luật nghiêm trọng cho nên Nhà nước
không bảo hộ. Vô hiệu tuyệt đối có thể do mọi người có quyền lợi liên quan nêu ra
và không thể khôi phục lại hiệu lực của hợp đồng trong bất kì trường hợp nào. Hợp
đồng vô hiệu tương đối có thể khôi phục lại hiệu lực của phần hợp đồng đã bị tuyên
bố vô hiệu khi hợp đồng: vô hiệu vì sự thỏa thuận bị tỳ tích (lầm lẫn, đe dọa, lừa
dối); vô hiệu vì không có năng lực hành vi; vô hiệu vì khiếm khuyết về hình thức.
Trong trường hợp này, quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô
hiệu. Quyết định của Tòa án mang tính chất phân xử. Tòa án tiến hành giải quyết vụ
việc khi có đơn yêu cầu của các bên (hoặc của đại diện hợp pháp của họ). Bên yêu
cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa các cơ sở của yêu cầu. Ví dụ : Nếu một
người yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu vì lý do khi xác lập giao dịch đã bị
lừa dối (hoặc đe dọa) thì bên yêu cầu đó phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa sự
kiện lừa dối (hoặc đe dọa) mà bên kia gây ra đối với mình. Nếu như một bên yêu

15


cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu với lý do xác lập giao dịch trong thời điểm không
nhận thức được hành vi của mình thì Tòa án buộc bên yêu cầu phải chứng minh
được rằng tại thời điểm xác lập giao dịch đó họ bị rơi vào trạng thái không nhận
thức được hành vi của mình. Dựa trên những minh chứng đó Tòa án mới cân nhắc
để ra quyết định giao dịch có bị coi là vô hiệu hay không.

Thứ tư, là sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp pháp luật tuyên bố giao
dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công cộng (lợi ích của Nhà
nước, của xã hội nói chung). Còn các trường hợp pháp luật qui định giao dịch vô
hiệu tương đối là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho các chủ thể tham gia giao dịch.
* Căn cứ vào các quy định trong BLDS 2015.
- Hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội7. Điều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực chung trong
đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo8. Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là
sự thống nhất. Khi hai cái đó không có sự đồng nhất thì hợp đồng dân sự vô hiệu.
Trên cơ sở này, pháp luật quy định HĐDS được xác lập một cách giả tạo thì hợp
đồng này vô hiệu còn hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu lực. Nếu hợp đồng bị che
giấu cũng vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì cũng bị coi là vô hiệu.
Ngoài ra khi các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
3 thì cũng bị coi là vô hiệu.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện (Điều 125 BLDS 2015). Đối với các
HĐDS được xác lập, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất NLHVDS,
người bị hạn chế NLHVDS mà theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do

7
8

Điều 123 BLDS 2015

Điều 124 BLDS 2015

16



người đại diện của họ xác lập, thực hiện thì pháp luật cho phép người đại diện của
những người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn9. Ở đây, HĐDS được xác lập bởi sự
nhầm lẫn không có sự thống nhất ý chí đích thực với sự thể hiện ý chí đó ra bên
ngoài. Do đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐDS vô hiệu
mà không cần phải yêu cầu bên kia thay đổi nội dung hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép10. Là hợp đồng mà
bản thân chủ thể xác lập hợp đồng bị “tê liệt ” về ý chí và không có sự lựa chọn
nào khác ngoài việc lựa chọn ý chí của một bên (đe doạ) hoặc sự nhận thức không
đúng về HĐDS bởi hành vi vi phạm pháp luật, bởi sự định hướng ý chí của chủ
thể thành một nội dung khác có lợi cho người định hướng (lừa dối).
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành
vi của mình11. Một người có năng lực hành vi dân sư đầy đủ có thể xác lập hợp
đồng theo ý chí của mình. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp bản thân
chủ thể xác lập hợp đồng mặc dù có NLHVDS đầy đủ nhưng đã xác lập hợp đồng
vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Ví dụ
trong tình trạng say rượu, bia…
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức12. Đối
với các HĐDS mà pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức nhất định
nhưng các bên lại không thông qua hình thức này thì Toà án hoặc cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền sẽ ấn định một thời hạn để các bên hoàn thành, quá thời hạn
này mà các bên không hoàn thành thì HĐVH.
- Hợp đồng vô hiệu từng phần13. Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần
của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại
của hợp đồng.

9


Điều 126 Bộ luật dân sự 2015
Điều 127 Bộ luật dân sự 2015
11
Điều 128 Bộ luật dân sự 2015
12
Điều 129 Bộ luật dân sự 2015
13
Điều 130 Bộ luật dân sự 2015
10

17


- Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được 14. Trong
trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì
lý do khách quan thì HĐVH. Đối với HĐDS vô hiệu do có đối tượng không thể
thực hiện được cần xác định cụ thể: trong trường hợp ngay từ khi ký kết hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì HĐVH. Ví dụ do sự
kiện bất khả kháng làm cho đối tượng của hợp đồng không còn: lũ, bão cuốn trôi tài
sản…Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên nếu biết hoặc phải biết
về việc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được nhưng không thông báo
cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho
bên kia. Trong trường hợp hợp đồng có nhiều phần đối tượng không thể thực hiện
được thì phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
1.1.4 Các nguyên tắc áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự trong việc xử lý hợp
đồng thương mại vô hiệu.
Để tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát huy được vị trí, vai trò của Bộ luật
dân sự, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong việc giải
quyết hợp đồng thương mại vô hiệu, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và hội nhập quốc

tế trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành, Bộ luật dân sự năm 2015
đã quy định rất cụ thể về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự15 như sau:
a) Bộ luật dân sự là luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự, luật
khác có liên quan đến điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không
được trái với các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự. Trường hợp luật khác có
liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng trái với quy định của Bộ luật
dân sự thì phải áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
b) Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật dân sự và điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

14
15

Điều 408 Bộ luật dân sự 2015.
Xem các Điều 4 đến Điều 6 BLDS năm 2015.

18


c) Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì
có thể áp dụng tập quán trong quan hệ dân sự. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá
nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều
lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên, tập
quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân
sự thì mới được áp dụng.
Nguyên tắc này cũng được quy định tại Khoản 1 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 về nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều

luật để áp dụng. Đồng thời, Khoản 1 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng
quy định: Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện
dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định
giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự.
Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp
dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.
d) Trường hợp các phát sinh từ quan hệ dân sự mà các bên không có thoả
thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng
quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý
của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có
quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự tương tự (Khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
đ) Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015,
án lệ, lẽ công bằng.
Liên quan đến án lệ, thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQHĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Theo đó,

19


×