Sáng kiến kinh nghiệm
BM 01-Bia SKKN
UBND THỊ XÃ LONG KHÁNH
TRƯỜNG THCS CHU VĂN AN
Mã số: ................................
SỞ GIÁO DUC- ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
(Do HĐKH Phòng GD&ĐT ghi
TRƯỜNG THCS&THPT HUỲNH VĂN NGHỆ
Mă số:……………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
GIÚP HỌC SINH YẾU HỌC TẬP VÀ THỰC HIỆN
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP
CÁC PHÉP TOÁN TRÊN SỐ HỮU TỈ
TRONG MÔN NGỮ VĂN
Ngườihiện:LÊ
thực hiện:ANH
Vũ thịVŨ
Huyền
Người thực
Lĩnh cứu:
vực nghiên cứu:
Lĩnh vực nghiên
- Quản lý giáo dục:
Qủan lí giáo dục:...............................□
- Phương pháp dạy
học bộpháp
môn:
Phương
dạy họcbộ môn:..........□
- Phương pháp giáo dục:
Phương pháp giáo dục:......................□
- Lĩnh vực khác:
Lĩnh vực khác:……………………...□
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
hình
CD
(DVD) □Phim
Hiện vật khác
□ Mô hh́nh □Mô
Phần
mềm □Đĩa
Phim
ảnh
Hiệnảnh
vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)
Năm học: 2015 - 2016
1
Sáng kiến kinh nghiệm
I.
THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Lê Anh Vũ
2. Ngày tháng năm sinh: 29/7/1979
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Ấp Trung Tâm, xã Xuân Lập, T.x Long Khánh - ĐN
5. Điện thoại: 0984977936
6. Fax:
(CQ)/ 0613726072
(NR); ĐTDĐ:
E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao (quản lý, đoàn thể, công việc hành chính, công việc
chuyên môn, giảng dạy môn, lớp, chủ nhiệm lớp,…):
Giảng dạy toán 7; Tin học 9 , 7 , 6
9. Đơn vị công tác: Trường THCS Chu Văn An
II.
TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: ĐHSP Toán
- Năm nhận bằng: 2008
- Chuyên ngành đào tạo: Toán
III.
KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Phương pháp dạy học môn toán
Số năm có kinh nghiệm: 15 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 3
BM03-TMSKKN
Tên SKKN:
2
Sáng kiến kinh nghiệm
GIÚP HỌC SINH YẾU HỌC TẬP VÀ THỰC HIỆN CÁC PHÉP TOÁN
TRÊN SỐ HỮU TỈ
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chưa lúc nào nền giáo dục nước nhà được quan tâm, chú trọng đổi mới, nhằm cải thiện
hiệu quả dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Từ năm
2002 đã tiến hành đổi mới chương trình SGK, đổi mới phương pháp dạy học, đẩy mạnh ứng
dụng các thiết bị tiên tiến, CNTT vào dạy học… đã mang lại nhiều thành quả đáng khích lệ
cho ngành giáo dục và ngày càng được cải thiện cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên thực tế tôi thấy vẫn còn khá nhiều học sinh yếu, kém và thường là tập trung
nhiều ở khối lớp 7 và lớp 8. Qua thông tin tôi tìm hiểu thì không những chỉ có học sinh Chu
Văn An mà học sinh ở các trường bạn trên địa bàn thị xã cũng xảy ra tình trạng tương
tự.Trường được trang bị cơ sở vật chất khá tốt hiện nay, đội ngũ giáo viên hết sức nỗ lực.Có
học sinh yếu qua thời gian nỗ lực cố gắng trở thành học sinh trung bình khá; Nhưng cũng có
học sinh không tiến bộ hoặc từ học sinh trung bình, khá qua một một học kì, hai học kì lại
trở thành học sinh yếu.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách và cả
khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những
em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không hiểu gì thông qua các hoạt động trên lớp. đặc
biệt là môn toán sự logich rất cao và có vị trí rất quan trọng, là một giáo viên dạy toán thì tôi
phải làm gì đối với những học sinh yếu, kém về tiếp thu này? Đó chính là vấn đề mà tôi luôn
quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy.
Được thực hiện dạy toán 7 nhiều năm, tôi nghiệm ra rằng: Đầu năm học lớp 7 đa phần
các em học sinh trung bình, yếu đã quên các kiến thức toán lớp 6 quan trọng như cộng, trừ,
nhân, chia các số nguyên, phân số sau kì nghỉ hè. Chính vì vậy mà các em rất khó khăn,
chậm bắt nhịp với kiến thức mới và nguy cơ không theo kịp rồi dần hình thành lỗ hỏng kiến
thức, mất căn bản… buôn suôi. Chính vì vậy mà tôi nảy sinh một sáng kiến “giúp học sinh
yếu học tập và thực hiện các phép toán trên số hữu tỉ”. Với hi vọng giúp các em nhớ lại các
qui tắc tính toán trên số nguyên và phân số ở lớp 6 và bổ sung, rèn luyện thêm ở lớp 7. Từ
đó các em tự tin, hứng thú và làm chính xác tính toán trên số hũu tỉ, tạo điền đề để tiếp thu
kiến thức mới dễ dàng hơn, theo kịp bạn bè, hòa chung nhịp học của cả lớp. Nếu làm được
như vậy tôi nghĩ sẽ giảm đáng kể lượng học sinh yếu toán cuối kì, góp phần cải thiện chất
lượng học tập và hiệu quả giáo dục.
II.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển thì việc giáo dục và học tập ngày
càng được chú trọng và phải nâng cao để đáp ứng kịp và phù hợp với xu thế hiện đại. Đây là
nhiệm vụ cấp bách và hết sức khó khăn đối với tất cả các cấp, bậc, con người làm công tác
giáo dục. Từ xã hội, nhà trường, gia đình tất cả phải hỗ tương với nhau, cùng nhau gắng sức
hầu mong thế hệ trẻ nước nhà nói chung, học sinh mỗi trường, con cái từng gia đình nói
riêng luôn cố gắng thi đua học tập, rèn luyện bản thân:
+ Để Trước hết hình thành nhân cách sống xứng với bản sắc, truyền thống tốt đẹp của con
người Việt Nam.
+ Nâng cao tri thức, phát triển trí tuệ, hình thành các kĩ năng, năng lực trong cuộc sống.
Để từng ngày xã hội, con người Việt Nam từng bước đi lên sánh vai cùng bạn bè thế
giới. Hướng tới xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp. Mà ở đó chất lượng cuộc sống của
con người là trên hết, một xã hội thịnh vượng, tươi đẹp, hạnh phúc và an bình.
Cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước thì giáo dục nước nhà cũng đang chuyển
mình nhằm nâng lên tầm cao mới. Rõ nét nhất là thay đổi từ năm 2002 cả về sách giáo khoa
lẫn phương pháp dạy học cho các cấp học giáo dục phổ thông. Đồng thời bổ sung nhiều
phương tiện dạy học trực quan, thiết bị tiên tiến, sử dụng CNTT phần mềm học tập…. Nhằm
điều chỉnh và nâng cao chất lượng giáo dục.Trong đó được quan tâm, chú trọng nhất là sự
đổi mới phương pháp. Hướng đổi mới phương pháp dạy học toán hiện nay là tích cực hoá
hoạt động học tập của học sinh, khơi dạy và phát triển khả năng tự học, nhằm hình thành cho
học sinh tư duy tích cực, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức và thực tiễn, tác động đến tình cảm, tạo niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh.Và tất cả được đặt dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giáo viên trên
từng tiết dạy.
Được tiếp xúc với cả hai trương trình giáo dục trước và sau đổi mới, bản thân có sự so
sánh và nhận định về đổi mới phương pháp dạy học. Thực sự đây là phương pháp giúp cho
học sinh rèn được nhiều đức tính: Chủ động , tích cực, tự tin, khám phá, sáng tạo…. rèn
được nhiều kĩ năng và năng lực rất tốt. Nâng cao chất lượng học tập của học sinh.Tuy nhiên
không phải liều thuốc nào cũng chữa được bá bệnh. Mỗi học sinh là một các thể riêng biệt,
không giống nhau ngoại hình, tình cảm, tính cách, sở thích, năng lực học tập, khả năng tiếp
nhận, xử lí và nhớ thông tin và đặc biệt là tư chất mỗi người mỗi khác.Dạy học theo phương
pháp mới thực sự hiệu quả với đa số các em học sinh, riêng đối với học sinh yếu thì hình như
rất hạn chế hoặc không hiệu quả.
Theo tôi học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả học tập toán thường
xuyên dưới trung bình.Việc lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng cần thiết ở những học sinh
này thường đòi hỏi nhiều công sức và thời gian so với những học sinh khác. Hơn nữa các em
4
Sáng kiến kinh nghiệm
thường có những thói quen không tốt trong học tập: Thờ ơ với giờ học trên lớp, thiếu tập
trung; Thiếu kĩ năng học tập; Thường xuyên không học bài, làm bài ở nhà… Do đó dần dần
hình thành những lỗ hỏng kiến thức, mất căn bản ngày càng nhiều, không theo kịp bạn bè,
không làm được bài tập, hay sai sót, làm không đúng…. Dẫn đến kết quả học tập yếu rồi
mặc cảm, không còn động lực phấn đấu. Với những đặc điểm như vậy, tôi nghĩ những học
sinh yếu rất khó đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học toán hiện nay là tích cực
hoá hoạt động học tập của học sinh: Giáo viên nêu vấn đề, học sinh tự giải quyết vấn đề
hoặc cùng nhau giải quyết vấn đề nhằm chiếm lĩnh kiến thức; Biết cách tự học, nghiên cứu,
trao đổi, phát biểu…. Bên canh đó còn có những nguyên nhân khách quan như là phương
pháp dạy của giáo viên, sự nhiệt tình, quan tâm tới các đối tượng học sinh, tác động của xã
hội, ảnh hưởng của gia đình…. Với những cơ sở trên tôi nghĩ những học sinh yếu toán cần
có phương pháp dạy học phù hợp hơn để giúp các em có động lực cố gắng và dần dần tiến
bộ.
Tuy nhiên trong một lớp học, phương pháp phải hài hòa cho tất cả các đối tượng giỏi,
khá, trung bình, yếu. Không thể quá tập trung vào một đối tượng nào. Đây là công việc hết
sức khó khăn cho giáo viên, với áp lực thời gian, lượng kiến thức mà sự chăm sóc cho những
học sinh yếu có phần hạn chế. Mà đặc trưng của đối tượng này là cần nhiều thời gian chăm
sóc. Chính vì vậy mà tôi đưa ra những giải pháp chung kết hợp với từng mục tiêu cụ thể để
giúp những học sinh yếu chiếm lĩnh từng kiến thức một cách chắc chắn. Dựa trên thực tế
giảng dạy tại đơn vị tôi thấy học sinh lớp 8, lớp 9 vẫn còn nhiều em chưa nắm vững các qui
tắc tính toán căn bản nhất, thường xuyên tính sai kết quả. Không lỗi chổ này thì lỗi chổ khác,
thậm chí không biết phải tính như thế nào nữa. Cho nên dù học sinh có nắm được kiến thức
mới nhưng tính toán lại sai thì kết quả là 0 mà thôi. Chính vì vậy mà việc rèn cho học sinh
nắm vững các quy tắc tính toán đúng trên tập hợp số hữu tỉ là điều căn bản và hết sức quan
trọng, cần thiết đối với mỗi học sinh, đặc biệt là học sinh yếu khi học môn toán. Do đó tôi
thực hiện sáng kiến “ Giúp học sinh yếu học tập và thực hiện các phép toán trên số hữu
tỉ” . Từ đó tạo nền tảng để học sinh yếu có thể nắm bắt và thực hiện được các kiến thức toán
học tiếp theo sau này. Với những phương pháp đã có tôi xin bổ xung và tổ chức lại phù hợp
với tình hình thực tiễn và đối tượng học sinh của mình.
III.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Trong những năm qua tôi đã theo dõi học sinh yếu của các khối khi học môn Toán, tôi
thấy các em có thói quen không tốt cho lắm:
Chưa xem lí thuyết đã làm bài tập. Khi làm bài thì đọc các đề bài toán qua loa sau
đó làm bài ngay, làm xong không cần kiểm tra lại kết quả. Đặc biệt các em lười suy nghĩ,
lười tính toán, ít làm việc, lạm dụng máy tính trong tính toán. Điều này rất nguy hại khi học
5
Sáng kiến kinh nghiệm
tính toán trên trên số nguyên, số hữu tỉ. Các em sẽ không nhớ các quy tắc, với thói quen lười
suy nghĩ, thường xuyên sử dụng máy tính để tính toán, ngay cả với những con số nguyên
một, hai chữ số. Dần dần các em mất khả năng tính nhẩm, không còn nhanh nhẹn, quên cửu
chương bảng nhân….
*Tóm lại sự yếu kém môn toán có những biểu hiện nhiều hình, nhiều vẻ nhưng nhìn
chung thường có 5 đặc điểm sau:
+ Nhiều "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng .
+ Tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng chậm .
+ Năng lực tư duy yếu .
+ Phương pháp học tập toán chưa tốt .
+ Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà .
Với học sinh yếu toán từ lớp 6, các em càng tệ hơn vì đã quên khá nhiều kiến thức
sau kì nghỉ hè. Chính vì vậy, ngay đầu chương trình toán 7 điều cấp bách nhất là làm sao để
các em nắm bắt lại các phép toán trên số nguyên, kĩ năng tính toán cần thiến để tiếp thu các
phép toán trên số hữu tỉ và thực hiện được các tính toán trên tập hợp số này.
Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu:
*Về phía học sinh:
- Chưa có động cơ học: Đa số các em không xác định được mục đích của việc học. Các
em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau
đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh
yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì
không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường.
- Học sinh bị hỏng kiến thức từ lớp dưới: Do học không chắc qua thời gian các em
quên và không muốn biết lại kiến thức đã quên.
- Không hiểu từ ngữ trong các bài học: Khả năng đọc hiểu của các em yếu, một số
câu từ Hán Việt trong bài học, các khái niệm, định nghĩa hay định lý các em không hiểu
nghĩa cũng là nguyên nhân cản trở tiếp thu bài của các em.
- Chưa có phương pháp học tập phù hợp: Chưa biết sắp xếp thời gian hợp lí cho
việc học, chưa biết chép bài, học nhớ bài, mau quên, trình bày bài cẩu thả, lộn xộn…..
*Về phía phụ huynh học sinh: Đa số gia đình các em chỉ chú tâm vào làm công việc
làm ăn. Cha mẹ không quan tâm đến việc học các em. Thường có quan niệm khoáng trắng
6
Sáng kiến kinh nghiệm
cho nhà trường. Một số em còn phụ giúp gia đình làm kinh tế , điều kiện học tập của các em
chưa được các phụ huynh tạo điều kiện……
*Về phía giáo viên: Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học
sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi.
Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo
viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải
biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng
nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, giáo viên cần chú ý quan sát
đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới
kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình
của từng học sinh…
Ở đây tôi tập trung giúp các em học sinh yếu nắm bắt và làm được các phép toán
cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ ở những bài đầu năm lớp 7 dựa trên nền tảng cộng, trừ , nhân
chia số nguyên. Với những biện pháp chung cho cả lớp, tôi lòng ghép thêm các giải pháp
riêng phù hợp cho các em học yếu toán.
1/ Giải pháp 1:
Những biện pháp chung
* Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi
học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân
mình.
- Luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc
dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm
cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Để trên lớp các em cảm thấy hấp dẫn và thú vị.
- Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực,
khơi dậy sự tự tin trong mỗi học sinh. Ví dụ như nên thay chê bai bằng khen ngợi và tìm
những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Bên cạnh
những khuyết điểm mà các vấp phạm thì đồng thời giáo viên nên cố gắng động viên bằng
những mặt tích cực nào đó. Mỗi giáo viên nhớ: Hãy kiềm chế, bình tĩnh, kiên trì và mềm
mỏng.
* Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh:
7
Sáng kiến kinh nghiệm
- Giáo viên phải xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng
em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười
học, thiếu tự tin, nhút nhát…
- Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.
- Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên tôi cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp.
- Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối
tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham
gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập
thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài
tuỳ theo khả năng của các em.
- Ngay từ đầu năm tôi cần phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu:
+ Chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như
thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi dễ, khen ngợi các em đó khi các em trả lời
đúng, nhắc lại kiến thức cũ đã quên, cho các em nhắc đi, nhắc lại một kiến thức, chú ý ghi
chép bài của các em, thường xuyên nhắc nhở sự tập trung trong giờ học….
+ Cắt đặt một em khá, giỏi ngồi gần mỗi em yếu để giúp đỡ trong học tập và
giúp giáo viên theo dõi và báo cáo mỗi buổi học về việc học tập trên lớp, ghi chép bài, học
bài, làm bài tập ở nhà…. Nhằm tạo thói quen học tập lại cho các em yếu này.
*Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
- Giáo viên cần phải giáo dục ý thức học tập của các em tạo cho các em sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên, trách nhiệm trong học tập. Đối
với những học sinh lười học, không có thói quen học bài, làm bài ở nhà thì giáo viên cần có
những biện pháp mạnh hơn: Đối với giờ học trên lớp chú ý việc ghi chép bài của các em, sự
chú ý nghe giảng bài, thái độ tham gia các hoạt động…. giáo viên cần lưu tâm nhắc nhở
thường xuyên và khuyến khích các em. Hướng dẫn cách học tập ở nhà, kiểm tra vở bài tập,
cho làm các bài tập vừa sức, học thuộc các định nghĩa, tính chất, công thức…. Hình thành
cho các em thói quen tự học, biết sắp xếp thời gian và có tinh thần cầu tiến.
- Thêm một vấn đề nảy sinh trong vài năm gần đây rất ảnh hưởng đến khả năng tính
toán của các em, đó là việc sử dụng máy tính cầm tay vào tính toán. Đa phần các em rất
8
Sáng kiến kinh nghiệm
thích dùng máy tính để tính toán, rất thích bấm, bấm, bấm… dẫn tới lạm dụng nó. Ngay cả
những phép tính với những con số một chữ số các em cũng nhờ máy tính tính dùm, dần dần
các em làm cho đầu óc các em chậm chạm, mất khả năng tính nhẩm, dự đoán và tệ hơn nữa
là tạo nên tính lười suy nghĩ, lười nhẩm phụ thuộc quá nhiều vào máy tính. Không có máy
tính là rất khó khăn, tính toán rất chậm, làm hay sai, thiếu tự tin, thường ngồi thừ mặt ra chờ
kết quả của bạn mỗi khi tính toán. Cho nên gíao viên lưu ý cho học sinh ý thức sử dụng máy
tính như thế nào cho hiệu quả, đừng lạm dụng. Nên hiểu máy tính là công cụ hỗ trợ, chứ
không phải là thay thế cho việc học tập, tính toán của ta. Không nên dùng máy tính vào tính
toán nhiều phép tính một lúc, hoặc các phép tính trong khả năng nhẩm của ta.
Ví dụ: Những phép tính 20 . (-5) ; -2 + 9 ; 45 : (-9 ) … nên nhẩm
Phép tính không nên bấm máy ra kết quả cuối cùng mà phải làm từng bước hợp lí
và chỉ nên dùng máy tính hỗ trợ ở từng bước nhỏ đó.
- Trong mỗi tiết dạy tôi phải liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để các em thấy được
ứng dụng và tầm quan trọng của việc tính toán chính xác trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ
ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
- Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình
và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ các em về thái độ học tập. Đồng thời, tôi phải phối hợp với
gia đình giáo dục ý thức học tập cho các em. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp một cách
nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thì dù các em có học yếu và không có ý
thức trong học tập cỡ nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định rằng việc
học của các em sẽ dần tiến bộ.
2/ Giải pháp 2: Những biện pháp cụ thể:
*Tạo tiền đề xuất phát – nắm kiến thức cơ bản
Việc học tập có kết quả trong một tiết học thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về
trình độ kiến thức, kĩ năng sẵn có của học sinh. Thế nhưng với học sinh yếu kém nhiều khi
chưa có đủ những tiền đề này và giáo viên phải giúp các em tạo tiền đề xuất phát cho những
tiết trên lớp.
Đối với diện học sinh yếu kém, ta nên tái hiện tường minh tức là nói rõ kiến thức, kĩ
năng cần ôn luyện là nhằm chuẩn bị cho việc học nội dung nào trong buổi học chính khóa
sắp tới. Làm như vậy là để tăng cường hiệu lực hướng đích và gợi động cơ, nâng cao ý thức
trách nhiệm của học sinh đối với bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài “cộng trừ số hữu tỉ”, phần kiểm tra bài cũ cần cho học sinh nhắc
lại cách cộng, trừ phân số ở lớp 6 qua bài tập
9
Sáng kiến kinh nghiệm
1 1
a) ; b) 3 4
Qua đó giáo viên chốt lại qui tắc
+ = , nếu chưa cùng mẫu ta làm sao?
Số hữu tỉ được biểu diễn dưới dạng phân số, cộng, trừ số hữu tỉ ta có thể chuyển về dạng
phân số và tiến hành cộng, trừ phân số. Từ đó giáo viên giới thiệu cộng , trừ số hữu tỉ:
x=; y=
x+y= + =
;
x–y= - =.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “ Nhân, chia số hữu tỉ” giáo viên cũng cho nhắc lại qui tắc
nhân, chia phân số ở lớp 6 qua bài tập:
6 21
.
a) 7 2
5 3
:
b) 2 4
Nhắc lại qui tắc:
x= ; y =
x.y= . =
x : y = : = . = (với y ≠ 0.)
Học sinh phải nắm được kiến thức cơ bản thì mới làm được bài tập. Giáo viên cần tập
trung giảng, giải thích cho học sinh hiểu, nắm chắc, từ đó mới vận dụng được và làm bài tập
và học được các bài tiếp theo.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp, giáo viên cần có tách riêng nhóm học
sinh yếu kém toán (ngoài giờ chính khóa) phụ đạo thêm cho các em ( Trường tôi đã thực
hiện hai năm nay). Mục đích việc giúp đỡ tách riêng nhóm học sinh yếu kém toán là làm cho
diện này theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp và có thể hòa vào việc dạy học
đồng loạt. Đây là biện pháp chính yếu giúp học sinh yếu toán. Trong các buổi học này tôi chỉ
chú trọng ôn tập các kiến thức cơ bản và luyện tập các bài tập vừa sức.
*Lấp lỗ hổng kiến thức – kĩ năng:
Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh" phổ biến của học sinh yếu kém toán. Việc
tạo tiền đề xuất phát cũng chính là nhằm lấp lỗ hổng kiến thức và kĩ năng, nhưng chỉ để
phục vụ cho một nội dung sắp học. Còn trong mục này, việc "lỗ hổng" kiến thức, kĩ năng
được đề cập một cách tổng quát, không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào.
Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên quan tâm phát hiện và phân loại những lỗ
hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời
gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh yếu kém.
10
Sáng kiến kinh nghiệm
Ví dụ: Khi dạy các phép toán cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ có hai dạng cơ bản là :
- Thực hiện phép tính:
Đặc trưng của dạng này là chỉ cần mắc lỗi ở bước nào đó là cả bài sai kết quả ngay.
Kinh nghiệm tôi thấy mặc dù đã tạo tiền đề xuất phát, nhắc đi, nhắc lại các kiến thức cơ bản,
nhưng những học sinh yếu thường xuyên làm không đúng các bài tính toán. Lỗi cơ bản nhất
là sai “ Qui tắc dấu khi thực hiện tính toán số nguyên”, không biết qui đồng.
Ví dụ: Thực hiện phép tính
a)
2 7
5 21 = = .... Kết quả các em thường sai ở -42 + 35
b)
15 1
12 4 =
c)
7
4,75 1
12 các em có thể sai ở đổi ra phân số, sai dấu khi thực hiện phép tính
d)
= .... Kết quả các em thường sai ở 15 – (-3)
3�
�
� 5� các em sai ở quên nhân đảo ngược số chia, hoặc khi nhân lại sai
2
3,5 : �
�
- Tìm x, biết:
a)
2
3
x
15
10 các em chuyển vế quên đổi dấu, hoặc khi hạ x xuống quên mang
theo dấu “ – “, hoặc lúng túng khi có nhiều dấu trừ....
b) .x =
; :x =
các em quên qui tắc tìm x…
Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của học sinh, giáo viên cũng cần tập
cho học sinh, kể cả học sinh yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân
mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. Đối với học sinh yếu thường là giáo viên chủ
động gọi các em làm bài tập, các bài kiểm tra để có phản hồi những “lỗ hỏng” mà khắc phục
cho các em. Việc này phải thường xuyên ở các tiết trên lớp cũng như tiết phụ đạo.
*Luyện tập vừa sức:
Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ
năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức.
Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung,
nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm việc riêng với
11
Sáng kiến kinh nghiệm
nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình.
Khi giải dạng bài có lời văn tôi cần lưu ý những điều sau đây:
Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước
đầu tiên, không hiểu bài toán đó nói gì thì không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, giáo
viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm cần phải
tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó.
Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức, rèn luyện
một kĩ năng nào đó, học sinh yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và mức độ với số
lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng này được thực hiện
trong những tiết làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém toán. Chẳng hạn giáo viên có thể
ra cho học sinh rất nhiều bài tập tính toán, tìm x đơn giản mà không sợ "nhàm" như trường
hợp học sinh khá giỏi.
Sử dụng những mạch bài tập phân bậc mịn: Việc sử dụng những mạch bài tập phân
bậc trong dạy học toán nói chung là đáng làm, riêng với nhóm học sinh yếu kém toán thì cần
phân bậc mịn hơn so với trình độ chung, tức là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không nên
quá xa, quá cao. Ta hình dung rằng nhiều bậc của học sinh yếu kém có thể gộp lại thành một
bậc cho học sinh trung bình hoặc khá giỏi.
Được bước theo những bậc thang vừa sức với mình, học sinh yếu kém sẽ đỡ bị hẫng,
bị hụt, từ đó có nhiều khả năng leo hết các nấc thang dành cho họ để chiếm lĩnh được kiến
thức, kĩ năng mà chương trình yêu cầu. Những nấc thang đầu dù có thấp, những bước
chuyển bậc dù có ngắn nhưng khi học sinh thành công sẽ tạo nên một yếu tố tâm lý rất quan
trọng. Các em sẽ tin vào bản thân, tin vào sức mình, từ đó có đủ nghị lực và quyết tâm vượt
qua tình trạng yếu kém.
Ví dụ: Thực hiện tính toán, các em sai ở tính toán trên số nguyên, giáo viên nên cho
bài tập về số nguyên:
a) 4 – 3
b) 48 + (-84)
c) -8 + (-9)
d) 14 – 50
e) -2 – 1
f) -7 + (-9)
g) 14 – 4 + 20 -14 …..
Ví dụ: Bài tập vừa sức, tăng số lượng cùng loại.
1 1
a) 3 4
16 5
e) 42 8
2 7
b) 5 21
1 � 5�
1 �
�
f ) 9 � 12 �
3 5
c) 8 6
� 4�
0,4 �
2 �
� 5�
g)
15 1
d) 12 4
7
4,75 1
12
h)
12
Sáng kiến kinh nghiệm
� 3�
1,25.�
3 �
8�
�
a)
9 17
.
b) 34 4
20 4
.
c) 41 5
6 21
.
d) 7 2
Tăng dần mức độ khi thấy ổn
i)
9 � 35 �
�
12 �
� 42 �
k)
0,75 2
1
3
1
1 2,25
m) 4
18 � 5�� 3 �
2
�1 3 �
.�
1 ��
: 6 �
4.� �
�2 4 �
j) 39 � 8 �� 4 � o) 3
1
1
3 2
n) 2 4
� 1 5�
�
.11 7
�
p) � 3 6 �
Bài tập tìm x:
3
5
x
12
c) 8
a.
2
4
x
3
15
b.
21
7
14
42
x c.
x
13
26
25
35
d.
22
8
x
15
27
*Tạo thói quen – rèn kĩ năng học tập:
Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của học sinh yếu kém toán. Hơn nữa,
có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một bộ phận trong những
học sinh diện này. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém
là giúp đỡ các em về phương pháp học tập.
- Bước 1: Đọc kĩ đề toán. Đọc chậm, hai đến ba lần và xác định dạng toán
- Bước 2: Tóm tắt đề toán (Vẽ hình hoặc sơ đồ nếu cần).
- Bước 3: Phân tích bài toán. (nháp rõ ràng)
- Bước 4: Viết bài giải.
- Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
Đối với học sinh yếu kém, cần bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ đẳng
về cách thức học tập toán như:
Nắm được lý thuyết mới làm bài tập
Đọc kĩ đầu bài
vẽ hình sáng sủa (nếu có)
13
Sáng kiến kinh nghiệm
Viết nháp rõ ràng
Đối với những bài tính toán cần phải nhớ thứ tự thực hiện các phép tính, các tính chất
các phép toán. Đây là kiến thức hết sức quan trọng mà bất cứ một học sinh nào cũng phải
nắm chắc. Đối với học sinh yếu giáo viên cần hỏi thứ tự tính khi làm dạng toán thực hiện
phép tính và thường xuyên nhắc lại kiến thức này cho các em.
+ Đối với phép tính có dấu ngoặc thì làm trong ngoặc trước, thứ tự ( ) , [ ] , { }
+ Đối với phép tính không có ngoặc thì làm theo thứ tự : Lũy thừa, nhân , chia, cộng,
trừ. Những phép tính chỉ có cộng, trừ hoặc nhân, chia thì làm từ trái qua phải.
Lưu ý: Với phép lũy thừa của số âm
Ví dụ: (-2)2 = -2 . (-2) = 4 ( Lũy thừa chẵn của số âm cho kết quả là số dương)
(-2)3 = -2 .(-2) .(-2) = -8 (Lũy thừa lẻ của số âm cho kết quả là số âm)
Và một lần nữa xin lưu ý: Giáo viên cố gắng tập cho các em thói quen nhẩm với
những số nhỏ, hạn chế sử dụng máy tính. Để rèn kĩ năng tính toán cho các học sinh yếu phải
chấp nhận mất thời gian, kiên trì, không đòi hỏi cao, không chạy theo số lượng bài tập ở
những tiết phụ đạo riêng.
*Tạo môi trường học tập:
Đây là giải pháp bổ trợ cho hoạt động chính của giáo viên. Giáo viên không quá khắc
khe, khiến học sinh sợ sệt, áp lực dẫn đến buông suôi, và cũng không quá dễ dải sẽ làm cho
các em chay lười, không chịu học. Đối với học sinh diện này cần có kỉ luật và sự quan tâm
đặc biệt.Với những tiết học trên lớp thường xuyên kiểm tra vỡ ghi, làm bài tập ở nhà, dành
những câu hỏi dễ, cơ bản cho các em, khen ngợi mỗi khi các em trả lời đúng, tham gia xây
dựng bài, có chuẩn bị bài… nhằm tạo niềm tin, khích lệ vươn lên của các em. Ở tiết học phụ
đạo riêng giáo viên cố gắng tạo cho các em niềm vui “chiến thắng” ở mỗi tiết, không mặc
cảm, tự ti. Theo tôi đối với đối tượng học sinh này nên dùng chiến thuật “mưa lâu thấm đất”.
Mỗi lớp tôi xây dựng đội ngũ “ vệ tinh” quanh những em học yếu toán. Mỗi học sinh
yếu sẽ có một học sinh khá, giỏi ngồi kề bên giúp đỡ học tập đồng thời theo dõi hàng ngày
việc học tập ở nhà cũng như trên lớp và báo cáo cho giáo viên mỗi giờ học. Việc làm này
đem lại nhiều kết quả. “ Học thầy không tày học bạn” , đôi khi bạn nói các em lại nghe, bạn
chỉ các em hiểu. Nếu tổ chức tốt mô hình “vệ tinh” này giáo viên đỡ tốn rất nhiều công sức
và đem lại hiệu quả cao.
* Tổ chức lớp phụ đạo riêng cho đối tượng học sinh yếu. ( Tùy điều kiện từng
trường. Riêng trường tôi đã thực hiện hai năm nay)
14
Sáng kiến kinh nghiệm
Đây là giải pháp chính, hết sức cần thiết để giúp cho các em học sinh yếu. Bởi trên
lớp các học sinh này thường không theo kịp các hoạt động chung, thường xuyên lơ là, và để
nhớ, hiểu một kiến thức hay hình thành một kĩ năng thì đối với các em cần nhiều thời gian
hơn, đó là chưa nói tới tính lười học, thiếu kĩ năng tự học. Chính vì vậy mà giáo viên cần
tăng thời gian phụ đạo riêng cho đối tượng này. Trong những tiết học này giáo viên tập trung
ôn tập các kiến thức cơ bản như qui tắc cộng, trừ, nhân, chia số nguyên, số hữu tỉ, tăng thời
gian luyện tập tính toán. Với các bài tập vừa sức, tăng số lượng cùng loại và cố gắng tổ chức
sao cho các em phải làm việc, thoải mái trao đổi những vướn mắc để lắp dần lỗ hỏng kiến
thức, rèn luyện kĩ năng. Khi dạy chương số hữu tỉ tập trung cho học sinh yếu làm được các
dạng bài tập:
1) Thực hiện tính toán:
- Phép cộng, trừ:
1 1
a) 3 4
2 7
b) 5 21
3 5
c) 8 6
16 5
e) 42 8
1 � 5�
1 �
�
9
12 �
�
f)
� 4�
0,4 �
2 �
5�
�
g)
7
4,75 1
12
h)
1
1 2,25
4
m)
1
1
3 2
2
4
n)
i)
9 � 35 �
�
12 �
� 42 �
2 1
o) 21 28
1 � 5 1 �
�
2 �
12
8 3�
�
s)
k)
0,75 2
1
3
2 5
p) 33 55
15 1
d) 12 4
3
4
2
69
q) 26
1�
�1
1,75 � 2 �
18 �
�9
t)
7 3 17
r) 2 4 12
5 �3 1�
�
�
6
8 10 �
�
u)
- Phép nhân, chia:
� 3�
1,25.�
3 �
� 8�
a)
1 11
2 .2
7 12
e)
i)
9 17
.
b) 34 4
4 � 1�
.�
3 �
21
9�
�
f)
9�
8 1
.1
�
� 28� k) 15 4
2
3,8 �
�
20 4
.
c) 41 5
6 21
.
d) 7 2
� 4 �� 3 �
�
.�
6 �
�
17
8�
�
�
�
g)
2 3
2 .
m) 5 4
h)
10
13
3,25 .2
1 � 1�
1 .�
2 �
n) 17 � 8�
2) Thực hiện phép tính
15
Sáng kiến kinh nghiệm
2
�1 3 �
4.� �
�2 4 �
a) 3
� 1 5�
�
.11 7
�
3
6
�
�
b)
�2 � 3 �16 �3
. � �
.
�3 �
11
9
11
�
�
�
�
d)
c)
�1�� 2 � 7 � 2 �
.�
� .�
�
�4 �
13
24
13�
�
�
�
�
�
e)
� 5� 3 � 13� 3
�
. �
�
.
�
� 9 �11 � 18�11
�1�3 �5�� 3 �
. � �
.�
�
�27 �
7
9
7 �g)
�
�
�
�
�
f)
� 1 3� 2 � 4 4 � 2
�: �
�:
�
� 5 7 �11 � 5 7 �11
3. Tìm x biết :
a.
8
20
:x
15
21
� 4� 4
b. x : �
� 2
� 21� 5
14
d. 5,75 : x
23
1
� 2�
c. x : �
4 � 4
5
� 7�
e)
2
3
x
15
10
f)
x
1 1
15 10
3
5
x
12
g) 8
3
1 7
x
4 10
h) 5
Giáo viên biết nhu cầu của các em, các em cần gì? rèn gì? yếu gì? Không ôm đồm
nhiều thứ vượt sức các em. Cố gắng động viên, khích lệ giúp các em nắm được kiến thức
căn bản nhất để có thể theo kịp trên lớp, tạo niềm tin cố gắng cho các em. Với những tiết học
ở lớp phụ đạo riêng này giáo lưu ý :
+ Tính vừa sức
+ Tăng số lượng bài tập cùng loại để rèn một kĩ năng
+ Phân bậc mịn ( mức độ khó tịnh tiến từ từ)
+ Luyện tập thường xuyên
+ Kiềm chế, bình tỉnh, kiên trì và mềm mỏng.
IV.
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Ngay đầu năm lớp 7 học sinh thường quên kiến thức ở lớp 6, ngay cả với kiến thức
thường xuyên sử dụng là qui tắc cộng, trừ, nhân, chia số nguyên. Đây là kiến thức quan
trọng và cần thiết cho những bài đầu chương trình lớp 7. Hầu như những học sinh yếu đều
không nhớ, hoặc làm sai những phép tính trên số nguyên. Nếu không khắc phục ngay thì kéo
dài về sau các em sẽ không làm đúng được một bài toán nào khi mà không thể thực hiện tính
toán đúng.
16
Sáng kiến kinh nghiệm
Do vậy, tôi thực hiện sáng kiến này ngay từ tiết học đầu năm, nhằm tập trung ôn lại,
bổ sung và rèn luyện cho các em, đặc biệt là các học sinh yếu phải làm được và đúng các
phép tính trên số hữu tỉ. Tôi nghĩ kiến thức này là hết sức quan trọng cho các em học toán
sau này.
Qua một năm thực hiện tôi thấy đạt được kết quả rất tốt. Không những chỉ có học
sinh yếu mà cả đối tượng học sinh khác cũng có kết quả. Thể hiện qua những tiết học trên
lớp, các bài kiểm tra đã giảm đi rất nhiều về số lượng lẫn tần suất các lỗi cơ bản như sai dấu,
sai tính toán số nguyên, sai cộng, trừ, nhân, chia số hữu tỉ.
- Kết quả năm học 2013 – 2014:
-
Môn
Sỉ số
Dưới 2
2-5
Trên 5
Toán 7/3
38
4 ( 10,5%)
3 (7,9%)
31 (81,6%)
Kết quả học kì – cả năm ; NH 2014 - 2015
Học kì
Môn
Sỉ số
Dưới 2
2-5
Trên 5
HK 1
Toán 7/3
40
0
3 (7,5%)
37 (95,5%)
Cả năm
Toán 7/3
40
0
2 (5%)
38 (95%)
Với những giải pháp trên nên áp dụng xuyên suốt cả năm học, chắc chắn kết quả chất
lượng được cải thiện rất cao, giảm thiểu học sinh yếu đáng kể. Kết quả đạt được khả
quan hơn nhiều so với năm học 2013 – 2014.
V.
ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Dưới sự tác động ngày càng lớn từ xã hội, hoàng cảnh gia đình đã làm giảm đi tinh
thần học tập, ý chí vươn lên của học sinh, đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh, tư chất
chậm, ham chơi. Ngày càng đè lên gánh nặng của ngày giáo dục nước nhà. Mỗi giáo viên
ngày càng nổ lực, phải bỏ nhiều công sức, trí lực.
Đối với đối tượng học sinh yếu, cần mất thời gian nhiều hơn để các em nắm bắt một
kiến thức, rèn một kĩ năng. Đa số các em yếu toán thường không có thói quen tự học, lười
học bài , làm bài. Giáo viên phải có những biện pháp ép các em học và như thế thường hiệu
quả học tập không cao. Học trước, quên sau, lẫn lộn kiến thức này với kiến thức khác, bài
17
Sáng kiến kinh nghiệm
làm hay sai sót…Đối với học sinh lớp 7, việc thực hiện được và đúng các phép tính toán trên
số hữu tỉ là hết sức quan trọng cho việc học toán sau này. Chính vì vậy ngay từ đầu năm tôi
phải xác định được những học sinh yếu toán để áp dụng đề tài ngay từ đầu năm.
Qua nhiều năm công tác tôi xin đưa ra một số giải pháp mà tôi thấy có hiệu quả đối
với học sinh trường mình. Sáng kiến này quí thầy cô có thể thực hiện trên nhiều đơn vị kiến
thức và nên xuyên suốt cả năm học. Tùy điều kiện của trường mình và đặc điểm học sinh mà
quí thầy cô áp dụng các giải pháp. Rất mong quí thầy, cô chia sẻ, góp ý và bổ sung để đề tài
được hoàn thiện hơn, xin chân thành cảm ơn.
VI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Tài liệu “ Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS” môn toán.
-
Sách giáo khoa Toán 7; Sách bài tập Toán 7; Sách giáo viên Toán 7
-
Phương pháp dạy học THCS của tác giả: Nguyễn Ngọc Đạm - NXB Đại học Sư
phạm.
Người thực hiện
BM04-NXĐGSKKN
Lê Anh Vũ
UBND THỊ XÃ LONG KHÁNH
TRƯỜNG THCS CHU VĂN AN
–––––––––––
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
––––––––––––––––––––––––
Suối Tre, ngày 5 tháng 9 năm 2015
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2015 - 2016
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
GIÚP HỌC SINH YẾU HỌC TẬP VÀ THỰC HIỆN CÁC PHÉP TOÁN
TRÊN SỐ HỮU TỈ
Họ và tên tác giả:
Lê Anh Vũ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Chu Văn An
Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn:
- Phương pháp giáo dục
- Lĩnh vực khác:
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị
Trong Ngành
18
Sáng kiến kinh nghiệm
1.
Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô dưới đây)
- Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn
- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị
mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị
2.
Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 5 ô dưới đây)
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có
hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện tại đơn vị có hiệu quả
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng ở đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị
mình, nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị
3.
Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong Tổ/Phòng/Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT
Trong ngành
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào
cuộc sống:
Trong Tổ/Phòng/Ban
Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT
Trong
ngành
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi
rộng: Trong Tổ/Phòng/Ban
Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT
Trong ngành
Xếp loại chung: Xuất sắc
Khá
Đạt
Không xếp loại
Cá nhân viết sáng kiến kinh nghiệm cam kết và chịu trách nhiệm không sao chép tài liệu
của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh nghiệm cũ của mình.
Tổ trưởng và Thủ trưởng đơn vị xác nhận đã kiểm tra và ghi nhận sáng kiến kinh nghiệm
này đã được tổ chức thực hiện tại đơn vị, được Hội đồng chuyên môn trường xem xét, đánh
giá; tác giả không sao chép tài liệu của người khác hoặc sao chép lại nội dung sáng kiến kinh
nghiệm cũ của chính tác giả.
Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của tác giả và
người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh
nghiệm.
NGƯỜI THỰC HIỆN
SKKN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
XÁC NHẬN CỦA TỔ
CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ
họ tên và đóng dấu)
19
Sáng kiến kinh nghiệm
20