LỜI MỞ ĐẦU
Nghề TCMN Việt Nam có truyền thống hàng nghìn năm, gắn liền với tên tuổi
của nhiều làng nghề, phố nghề, được thể hiện qua nhiều sản phẩm độc đáo, tinh xảo
và hoàn mỹ.... Ở đó, không chỉ là nơi tập trung sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là
nơi hội tụ các nghệ nhân có tay nghề cao tạo nên những sản phẩm có bản sắc riêng
khó lòng bắt chước được.
Ở nước ta, số lượng nghề, làng nghề được hình thành và phát triển khắp cả
nước với hàng trăm, hàng nghìn làng nghề có mặt từ lâu và rất nổi tiếng.
Từ thế kỷ XI dưới thời Lý việc xuất khẩu hàng TCMN đã được thực hiện. Khi đó
các sản phẩm chỉ có: gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy dó, tơ lụa, sừng, ngà… Mười một
thế kỷ trôi qua, các phường thợ, làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước
thăng trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc, dệt quai thao) nhưng bên cạnh
đó cũng có một số làng nghề mới xuất hiện và phát triển.
Ngày nay, tiếp bước truyền thống làm nghề TCMN của cha ông để lại, hàng
nghìn làng nghề được phục hồi và phát triển trên cả 3 miền của đất nước.
Hiện nay cả nước có 52 nhóm nghề truyền thống với khoảng 1.400 làng nghề
với những sản phẩm từ lâu đã có tiếng như: thổ cẩm dân tộc Mông (Lào Cai), chạm
khắc gỗ (Bắc Ninh), đúc đồng (Quảng Ngãi), gốm sứ (Hà Nội,Bình Thuận, Bình
Dương, Đồng Nai)… thu hút hơn 30% lao động cả nước trong đó có hơn 1,3 triệu là
lao động nông thôn.
Hiện nay ngoài việc sản xuất và tiêu thụ những loại sản phẩm chính yếu quen
thuộc như đồ gỗ gia dụng, gốm sứ mỹ nghệ, thêu ren, thổ cẩm, mây tre đan thì các
làng nghề còn cho ra đời những sản phẩm làm bằng chất liệu mới từ dừa, nhựa, sắt,
sừng trâu, composit, vỏ lon, polyester…
Hàng TCMN là những sản phẩm mang đậm nét văn hóa dân tộc nên không
những đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người mà còn là những sản phẩm văn
hóa phục vụ đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng TCMN
ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Vậy Việt Nam cần tận dụng
1
những điểm mạnh có được để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng TCMN. Đây là
việc làm cần thiết vì không những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn
tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông
thôn.
Do hàng TCMN được sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong
nước và nguyên liệu nhập khẩu thường không đáng kể. Vì vậy xuất khẩu hàng
TCMN đạt mức thực thu ngoại tệ rất cao, chiếm từ 95% đến 97% giá trị xuất khẩu.
Nghề thủ công ở Việt Nam tuy không ít những khó khăn, nhưng đã giữ lại
được những tinh hoa văn hóa, lịch sử của một vùng đất, con người và nhất là hình
ảnh của đất nước Việt Nam. Vì thế, việc xuất khẩu các mặt hàng này cũng đóng một
vai trò không nhỏ trong việc truyền bá, giao lưu văn hóa Việt Nam đến các nước
trên thế giới.
Xuất pháp từ vai trò của thị trường xuất khẩu với các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu, tình hình phát triển thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam và lợi ích của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Em xin chọn
đề tài: “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay”.
Trên cơ sở những kiến thức đã được học tại nhà trường cùng với các tài liệu
tham khảo, đề án của em gồm 3 chương.
Chương I: Một số lý luận cơ bản về hoạt động Xuất khẩu
1. Thực chất và vai trò của hoạt động Xuất khẩu.
2. Các hình thức và nội dung của hoạt động Xuất khẩu.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động Xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam
1. Khái quát về hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam.
2. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong
thời gian qua.
2
3. Đánh giá chung tình hình Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam thời gian qua.
3.1 Ưu điểm.
3.2 Hạn chế.
3.3 Nguyên nhân sự hạn chế đó.
Chương III : Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta
Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ trong thời gian tới
Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Một số kiến nghị góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ :
kiến nghị với nhà nước ; kiến nghị với các doanh nghiệp
Kết luận
3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Thực chất và vai trò của hoạt động Xuất khẩu.
1.1 Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa.
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một
quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có
thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoat động mua bán trao đổi hàng hóa giữa
các nước. Khi việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia có lợi thì các quốc gia đều
quan tâm và mở rộng hoạt động này.
Thực tế cho thấy, nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình và áp
dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội để vươn lên, củng cố
thế lực của mình trên thị trường quốc tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã
xuất hiện rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức cơ bản là trao đổi hàng
hóa và dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó đã được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ
xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến xuất khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất, từ máy
móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó
đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không
gian lẫn điều kiện thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài
hàng năm, có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều
quốc gia khác nhau.
1.2 Vai trò của xuất khẩu hàng hóa.
a) Đối với nền kinh tế.
Xuất khẩu là một tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với các quốc
4
gia, các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ ra rằng để tăng trưởng và
phát triển kin tế của mỗi quốc gia có 4 điều kiện là: Nguồn nhân lực, tài nguyên,
vốn và kỹ thuật công nghệ. Hầu hết các quốc gia dang phát triển như Việt Nam đều
thiếu vốn và kỹ thuật, để có vốn và kỹ thuật thì con đường ngắn nhất là phải thông
qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
Xuất khẩu phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản
Xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm cải thiện đời
xuất.
sống nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để môi trường và thúc đấy sự phát triển của mối quan
hệ kinh tế đối ngoại.
b) Đối với doanh nghiệp
Vươn ra thị trường bên ngoài là xu hướng chung của mỗi quốc gia và các
doanh nghiệp. Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển nền kinh tế đối
ngoại theo hướng “ Hướng về xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là ưu
tiên là trọng điểm của kinh tế đối ngoại”. ( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII)
Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu.
Những nhân tố thuộc về tiềm năng như tài nguyên thiên nhiên, lao động… rất dồi
dào, ngược lại những nhân tố như vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý lại thiếu. Vì vậy,
chiến lược “ hướng vào xuất khẩu” về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế để
tranh thủ vốn và kỹ thuật nước ngoài kết hợp với tiềm năng trong nước là lao động
và tài nguyên thiên nhiên nhằm mục đích đưa nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và
phát triển tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Xuất khẩu hàng
hóa để thu ngoại tệ, còn nhằm mục đích nhập khẩu những thiết bị hiện đại, chuyển
giao công nghệ tiên tiến để thực hiện ba chương trình kinh tế lớn và dần dần cải
thiện đời sốn vật chất của nhân dân.
5
2. Nội dung của hoạt động Xuất khẩu.
Chúng ta đều biết rằng, xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hóa sản xuất
trong nước ra thị trường nước ngoài. So với hoạt động buôn bán trong nước thì nó
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố phức tạp hơn do phải thực hiện trong môi trường
kinh doanh quốc tế. Vì vậy, nó được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều
khâu: tự nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hóa xuất khẩu, giao dịch
đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hóa đến
cảng và chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thủ tục thanh toán.
Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ
lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được các lợi thế nhằm đảm bảo xuất khẩu đạt hiệu quả
cao nhất.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu.
3.1 Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô.
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đem lại những lợi ích to lớn, nhưng vì
nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các quốc gia đều có những chính sách thương
mại riêng để thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều
chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia. Để
nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì một chính sách thương mại thích hợp
là cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ chính sách chủ yếu thường
được nhà nước sư dụng để điều tiết, quản lý các hoạt động này là:
3.1.1 Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là lạoi thuế đánh vào từng đơn vị hàng
xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho các nhà sản xuất kinh
doanh xuất khẩu vì nó sẽ làm tăng giá thành xuất khẩu, làm giảm sức cạnh tranh của
hàng hóa xuất khẩu. Do đó với mục tiêu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hầu hết các mặt
hàng thuộc diện khuyến khích xuất khẩu đều có thuws xuất rất thấp hoặc bằng
không. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu nên
có thuế suất xuất khẩu bằng không.
6
3.1.2 Các công cụ phi thuế quan.
Hạng ngạch (quota ) được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng
cao nhất của một mặt mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phwps xuất khẩu
sang một thị trường nhất định trong một thời gian cụ thể thông qua hình thức cấp
phép. Mục đích của việc sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm quản lý hoạt
động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả và điều chỉnh các loại hàng hóa xuất khẩu.
Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện
cán cân thanh toán. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước
và theo thời gian nhất định. Ở VN hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối
với mặt hàng gạo.
Tiêu chuản chất lượng sản phẩm: Các quốc gia đặt ra những tiêu chuẩn
về chất lượng hàng hóa hay các thông số kỹ thuật quy định cho hàng hóa xuất khẩu
hay nhập khẩu.
Giấy phép xuất khẩu: Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu cho các doanh
nghiệp tránh việc xuất khẩu lung tung.
3.1.3 Trợ cấp xuất khẩu
Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán
được hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất khẩu là giúp
nhà xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có 2 loại trợ cấp xuất khẩu: trực tiếp và gián
tiếp
- Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp như: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất
khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu, cho các nhà xuất khẩu hưởng
giá ưu đãi các đầu vào sản xuất…
- Trợ cấp xuất khẩu gián tiếp: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển
lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước
giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia.
7
3.1.4 Tỷ giá và các chính sách đòng bẩy có liên quan nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu:
Đây là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ
giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển
thực hiện chiến lược xuất khẩu ( sản xuất hướng về xuất khẩu ) cũng như ở Việt
Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thường kỳ để đạt được mức tỷ giá
cân bằng được thị trường chấp nhận và sau đó duy trì tỷ giá tương quan với chi phí
và giá cả đang bị lạm phát trong nước.
3.1.5 Chính sách đối với cán cân thanh toán quốc tế và cán cân
thương mại.
Trong hoạt động thương mại quốc tế giữ vững được cán cân thanh toán và cán
cân thương mại có ỹ nghĩ cực kỳ quan trọng trong góp phần củng cố nền độc lập và
tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy nhiên để giữ có cán cân thanh toán quốc tế cân bằng
không có nghĩa là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn. Cân bằng theo
kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách thích
hợp để khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia làm hàng xuất khẩu với chất
lượng cao, đủ sức mạnh cạnh tranh với thị trường quốc tế. Song song với việc đó là
mở rộng quy mô xuất khẩu là đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu trong đó chú
trọng đến những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Có như vậy quốc gia mới giảm dần
nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu.
3.2 Các quan hệ kính tế quốc tế.
Trong hoạt động kinh doanh quốc tế, các mối quan hệ kinh tế quốc tế có tác
động và ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ. Đối với hoạt động xuất khẩu cũng vậy, khi
xuất khẩu hàng hóa sang một nước nào đó tức là đưa hàng hóa thâm nhập vào thị
trường quốc gia khác, người xuất khẩu thường phải đối mặt với những rào cản như
thuế thu nhập hay sự phân biệt đối xử với các nhà kinh doanh nước ngoài, các tiêu
chuẩn sản phẩm mang tính chất phân biệt.
8
Có được những mối quan hệ kinh tế quốc tế mở rộng, bền vững và tố đẹp sẽ
tạo tiền đè thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Để
làm được điều đó các quốc gia cần tăng cường tham gia vào các liên minh kinh tế
khu vực cũng như quốc tế và ký kết các hiệp định thương mại song phương cũng
như đa phương với các quốc gia khác.
3.3 Các yếu tố khao học công nghệ.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian qua,
nhiều công nghệ tiên tiến ra đời tạo cơ hội, nhưng cũng gây nên những nguy cơ đối
với tất cả các ngành nghề nói chung và các đơn vị kinh doanh hàng xuất khẩu nói
riêng.
Đối với các lĩnh vực sản xuất hàng xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa
vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp
các đơn vị sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm hơn với chất lượng cao hơn, giá
thành rẻ hơn, hợp thị hiếu tiêu dùng hơn. Nhờ đó sức cạnh tranh của sản phẩm được
nâng cao và lợi nhuận thu được cũng cao hơn.
3.4 Điều kiện chính trị xã hội và quân sự.
Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ
thống chính trị và các quan điểm về chính, xã hội suy cho cùng đều trực tiếp tác
động đến phạm vi, lĩnh vực hay mặt hàng, đối tác kinh doanh.
9
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
CỦA VIỆT NAM
1. Khái quát về hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Nghề TCMN Việt Nam có truyền thống hàng nghìn năm, gắn liền với tên tuổi
của nhiều làng nghề, phố nghề, được thể hiện qua nhiều sản phẩm độc đáo, tinh xảo
và hoàn mỹ.... Ở đó, không chỉ là nơi tập trung sản xuất lớn hoặc khá lớn, mà còn là
nơi hội tụ các nghệ nhân có tay nghề cao tạo nên những sản phẩm có bản sắc riêng
khó lòng bắt chước được.
Ở nước ta, số lượng nghề, làng nghề được hình thành và phát triển khắp cả
nước với hàng trăm, hàng nghìn làng nghề có mặt từ lâu và rất nổi tiếng.
Từ thế kỷ XI dưới thời Lý việc xuất khẩu hàng TCMN đã được thực hiện. Khi đó
các sản phẩm chỉ có: gốm, đồ gỗ, mây tre, giấy dó, tơ lụa, sừng, ngà… Mười một
thế kỷ trôi qua, các phường thợ, làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước
thăng trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc, dệt quai thao) nhưng bên cạnh
đó cũng có một số làng nghề mới xuất hiện và phát triển.
Ngày nay, tiếp bước truyền thống làm nghề TCMN của cha ông để lại, hàng
nghìn làng nghề được phục hồi và phát triển trên cả 3 miền của đất nước.
Hiện nay cả nước có 52 nhóm nghề truyền thống với khoảng 1.400 làng nghề
với những sản phẩm từ lâu đã có tiếng như: thổ cẩm dân tộc Mông (Lào Cai), chạm
khắc gỗ (Bắc Ninh), đúc đồng (Quảng Ngãi), gốm sứ (Hà Nội,Bình Thuận, Bình
Dương, Đồng Nai)… thu hút hơn 30% lao động cả nước trong đó có hơn 1,3 triệu là
lao động nông thôn.
Hiện nay ngoài việc sản xuất và tiêu thụ những loại sản phẩm chính yếu quen
thuộc như đồ gỗ gia dụng, gốm sứ mỹ nghệ, thêu ren, thổ cẩm, mây tre đan thì các
làng nghề còn cho ra đời những sản phẩm làm bằng chất liệu mới từ dừa, nhựa, sắt,
sừng trâu, composit, vỏ lon, polyester…
Hàng TCMN là những sản phẩm mang đậm nét văn hóa dân tộc nên không
10
những đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người mà còn là những sản phẩm văn
hóa phục vụ đời sống tinh thần. Ngày nay xu hướng mua sắm các mặt hàng TCMN
ngày càng gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Vậy Việt Nam cần tận dụng
những điểm mạnh có được để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng TCMN. Đây là
việc làm cần thiết vì không những thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước mà còn
tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông
thôn.
Ở Việt Nam, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã xuất hiện từ rất lâu, có nhiều
làng nghề nổi tiếng với những sản phẩm độc đáo mang tính chất rất riêng của Việt
Nam như: gốm sứ Bát Tràng; tơ lụa, đồ gốm, đồ mộc Hội An… Cùng với sự giao
lưu văn hóa kinh tế giữa các nước trên thế giới, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam đã có mặt trên thị trường nhiều nước EU, Đông Á, Mỹ, Nam Mỹ, Nga và
Đông Âu và dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế.
Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
+ Hàng gốm sứ: làng nghề Bát Tràng, Đông Triều…
+ Hàng mây tre đan: làng nghề Phú Vinh, Ninh Sở…
+ Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ: làng nghề Đồng Kỵ…
+ Hàng thêu ren: làng nghề Thanh Hà, Văn Lâm…
+ Hàng thổ cẩm: Các làng nghề thổ cẩm của người Ede, Bana…
2.Vị trí và vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với nền
kinh tế nước ta.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, nó đóng góp một phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoáhiện đại hoá đất nước.
Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta trong mấy năm gần đây đã
mang lại cho nước ta nguồn ngoại tệ lớn, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Cụ thể trong năm 2003 Việt Nam đã xuất khẩu được gần 400
11
triệu USD, và tính đến tháng 4 năm nay, kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ đã đạt
trên 100 triệu USD, tăng 10% so với năm ngoái. Đây là nguồn thu ngoại tệ to lớn
thực thu về cho đất nước từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền có sẵn trong tự nhiên và từ
lực lượng lao động nhàn rỗi ở các vùng nông thôn nước ta.
Nhờ có nguồn vốn đó, các làng nghề truyền thống Việt Nam có điều kiện đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đào
tạo nguồn nhân lực có tay nghề và kỹ thuật cao cho ngành thủ công mỹ nghệ.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng hiện đại hoá
Chuyển dịch cơ cấu nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông thôn lên một
bước về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất , cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm , cơ
cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập cua ra dân cư nông thôn bằng các nguồn lợi
thu được từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông nghiệp. Với mục tiêu như
vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng được thúc đẩy, nó
diễn ra ngay trong nội bộ ngành công nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của
cơ cấu kinh tế nông thôn. Việc phát triển các làng nghề truyền thống dẫ có vai trò
tích cực trong việc góp phần tăng tỉ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông nghiệp, chuyển từ lao động sản xuất nông nghiệp thu
nhập thấp sang ngành nghề nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Ngay từ đầu khi nghề
thủ công xuất hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất
mà bên cạnh còn có các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại
phát triển.
Mặt khác có thể thấy kết quả sản xuất ở các làng nghề cho thu nhập va giá trị
sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền
kinh tế thị trường, năng lực thị trường được nâng lên người lao động nhanh chóng
chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp, dặc biệt là những sản
phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước và ngoài nước. Khi đó khu
vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp , khu vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp được tăng lên.
Làng nghề truyền thống phát triển đã tạo cơ hội cho hoạt động dịch vụ ở nông
thôn mở rộng địa bàn hoạt động thu hút nhiều lao động. Khác với sản xuất nông
12
nghiệp, sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự cung cấp
thường xuyên trong việc cung ứng vật liệu và tiêu thụ sản phẩm . Do đó dịch vụ
nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức đa dạng và phong phú , đem lại
thu nhập cao cho người lao động.
Như vậy, sự phát triển của làng nghề truyền thống có tác dụng rõ rệt với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá- hiện đại hoá. Sự phát triển lan toả của làng nghề truyền thống đã mở rộng quy
mô và địa bàn sản xúât, thu hút rất nhiều lao động. Cho đếnnay cơ cấu kinh tế ở
nhiều làng nghề đạt 60-80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20-40% cho nông nghiệp.
Tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đến đời sống bao gồm rất nhiều
mặt. Trước hết thông qua mặt sản xuất hàng xuất khẩu với nhiều công đoạn khác
nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp tăng
gía trị lao động tăng thu nhập quốc dân. Bên cạnh đó, xuất khẩu thủ công mỹ nghệ
còn tạo nguồn để nhập nguồn vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong phú của nhân dân và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho người lao động .
- Tạo việc làm cho người lao động.
Trên phương diện xã hội đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đã kích thích
việc phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay trong các làng nghề truyền
thống bình quân mỗi cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho 27 lao động
thường xuyên và 8 đến 10 lao động thời vụ, mỗi hộ chuyên nghề tạo việc làm cho 4
đến 6 lao động thường xuyên và 2 đến 5 lao động thời vụ. Đặc biệt ở nghề dệt, thêu
ren, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 đến 250 lao động.
Nhiều làng nghề không những thu hút lực lượng lao động lớn ở địa phương
mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động ở các địa phương khác. Làng gốm bát tràng
ngoài việc giải quyết việc làm cho gần 2430 lao động của xã, còn giải quyết thêm
việc làm cho khoảng 5500 đến 6000 lao động của các khu vực lân cận đến làm thuê.
Mặt khác, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã kéo theo sự phát
triển và hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất
13
hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Ngoài các hoạt động
dịch vụ phục vụ sản xuất trực tiếp còn có các dịch vụ khác như dịch vụ tín dụng
ngân hàng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn đã tính toán cho thấy cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng
thủ công mỹ nghệ thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 đến 4000 lao
động chủ yếu là lao động tại các làng nghề nông thôn, trong đó có lao đông nông
nhàn tại chỗ và các vùng lân cận( trong khi đó chế biến hạt điều thì 1 triệu USD kim
ngạch xuất khẩu chỉ thu hút được 400 lao động).
- Nâng cao và cải thiện đới sống nhân dân.
Ngoài việc được coi là động lực gián tiếp giải quyết việc làm cho người lao
động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống
cho người lao động ở nông thôn. ở nơi nào có ngành nghề phát triển thì nơi đó thu
nhập cao và mức sống cao hơn các vùng thuần nông. Nếu so sánh với mức thu nhập
lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4
lần, đặc biệt là so với chi phí lao động và diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so
với sản xuất nông nghiệp. Bình quân thu nhập của 1 lao động trong hộ chuyên
ngành nghề phi nông nghiệp là 430000- 450000 đồng / tháng, ở hộ kiêm nghề từ
190000- 240000 đồng/ tháng, trong khi đó ở hộ lao động thuần nông chỉ có khoảng
70000-100000 đồng/ người/ tháng. Có những làng nghề có thu nhập cao như làng
gốm Bát Tràng : Mức bình quân thu nhập của các hộ thấp cũng đạt từ 10-20
triệu/năm. Thu nhập từ nghề gốm sứ Bát Tràng chiếm tới 86% tổng thu nhập của
toàn xã. Vì vậy thu nhập của các làng nghề truyền thống đã tạo ra sự thay đổi khá
lớn trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và của địa phương.
Sự phát triển ổn định của làng nghề tạo ra nguồn hàng ổn định đối với các
doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này . từ đó tạo ra sự thuận lợi trong kinh doanh,
mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao thu nhập và mức sống
cho người lao động.
Ngoài ra việc khôi phục và sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn kéo theo
nhiều ngành khác phát triển nhất là ngành du lịch và các ngành dịch vụ có liên
quan. Sản xuất thủ công mỹ nghệ và du lịch là 2 nhân tố có tác động 2 chiều . Các
14
sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn là một nét hấp dẫn rất quan trọng và ấn tượng đối
với khách du lịch nhất khách du lịch văn hoá ,các sản phẩm càng đa dạng phong
phú càng có tác dụng thu hút mạnh mẽ du khach tới tham quan, qua đó các dịch vụ
về du lịch phát triển đồng thời hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cũng được các
nước bạn biết đến nhiều hơn, đây chính là một biểu hiện của hình thức xuất khẩu tại
chỗ. Ngược lại, nếu du lịch phát triển, có nhiều khách du lịch đến tham quan tại các
làng nghề c sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ được biết đến nhiều hơn, được quảng bá
nhiều hơn, đó cũng là một hình thức khuyêch trương giới thiệu sản phẩm của Việt
Nam ra nước ngoài, từ đó ta có thể mở rộng quan hệ kinh doanh và có thể tăng kim
ngạch xuất khẩu thủ công mỹ nghệ.
Xuất khẩu TCMN là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta.
Đẩy mạnh xuấu khẩu nói chung và thủ công mỹ nghệ nói riêng có vai trò tăng
cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên
thị trường quốc tế…Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và công nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế…Mặt khác,
chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề mở rộng xuất
khẩu.
Có thể nói xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đóng vai trò xúc tác
hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên
trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế
như: vốn , kỹ thuật, lao động, thị trường tiêu thụ…Đối với nước ta, hướng mạnh về
xuất khẩu hàng là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối
ngoại.
Góp phần giữ gìn các giá trị văn hoá và ngành nghề truyền thống của
dân tộc.
Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống luôn gắn liền với lịch sử
phát triển văn hoá của dân tộc, nó là nhân tố tạo nên nền văn hoá ấy đồng thời là sự
biểu hiện tập trung nhất bản sắc của dân tộc.
15
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động
tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và trí óc sáng tạo của người thợ thủ
công. Vì vậy mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng nét đặc sắc của
dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của mỗi làng nghề
và mang mỗi dấu ấn của mỗi thời kỳ. Tìm hiểu lịch sử của mỗi làng nghề ta thấy kỹ
thuật chế tác ra các sản phẩm có từ rất xa xưa và được bảo tồn đến ngày nay. Kỹ
thuật đúc đồng và hợp kim đồng thau đã có từ thời văn hoá Đông Sơn - một nền văn
hoá với những thành tựu rực rỡ, đặc biệt là trống đồng Ngọc Lũ gắn liền với lịch sử
thời Hùng Vương dựng nước. Cho đến sau này nghề đúc đồng vẫn để lại những dấu
ấn lịch sử. Mới đây nhất ta thấy có tượng phật mới đúc được đặt ở chùa Non Nước
cao và nặng nhất Đông nam á.
Ngày nay các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với tính độc đáo và độ tinh xảo của
nó vẫn có ý nghĩa rất lớn với nhu cầu đời sống của con người. Những sản phẩm này
là sự kết tinh, sự bảo tồn các giá trị văn hoá lâu đời của dân tộc, là sự bảo lưu những
văn hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác tạo nên những thế
hệ nghệ nhân tài ba với những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Chính vì vậy
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ không những góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị
văn hoá của dân tộc Việt nam mà còn có nhằm quảng bá chúng trên khắp thế giới .
3.Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong
thời gian qua.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của Việt Nam,
và được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp tích cực vào kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng thời có một vai trò quan trọng trong giải quyết
một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn.
Là mặt hàng có mức độ tăng trưởng khá cao trong những năm qua,bình quân khoảng
20% trên 1 năm, với kim ngạch xuất khẩu 300 triệu USD trong năm 2004 và đạt hơn 750
triệu USD vào năm 2007, dự kiến sẽ đạt 1 tỷ USD vào năm 2008. Thị trường xuất khẩu
TCMN của nước ta ngoài các nước chủ yếu như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh , Pháp, Đức,
Hàn Quốc, Đài Loan... Hiện đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, cũng
là mặt hàng có tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu rất lớn.
16
Những năm trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu bằng
nguyên liệu sẵn có ở trong nước dựa trên cơ sở nguồn nguyên liệu thô dồi dào, phù
hợp và đa dạng, tỷ trọng vật tư nhập khẩu thường ở mức dưới 10%. Đây là một
thuận lợi lớn trong việc phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cho nên ngoại tệ
thực thu trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ lệ rất cao, hơn 90%. Kế
hoạch năm 2006 hàng thủ công mỹ nghệ dự kiến là 660 triệu USD, nhưng thực tế
đạt được khoảng 630,4 triệu USD, tăng trưởng có 10,8% so với dự kiến là 16,3%, vì
vậy những năm sau ngành hàng thủ công mỹ nghệ phải phấn đấu tăng trưởng rất
cao mới thực hiện được kế hoạch đề ra. Ước đoán kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ từ năm 2006-2010
Đơn vị (triệu USD)
2006
KN
662
Tăng
2007
Tăng
2008
2009
Tăng
Tăng
KN
KN
KN
(%)
(%)
(%)
(%)
16,3 821 24,0 997 21,5 1.214 21,7
2010
KN
1511
Tăng
(%)
24,5
Giai đoạn
2006-2010
Tăng
KN
(%)
5.024 21,6
Cơ cấu nhóm hàng:
Nhóm hàng
Mây tre, cói, lá thảm
Gốm sứ
Đá, kim loại quý
Thực hiện năm 2006
Dự kiến năm 2010
191,6 tr USD tỷ trọng 30,4%450 tr USD tỷ trọng 30%
274,3
4,3% 660
44%
164,5
26% 390
26%
Mặc dù ngành thủ công mỹ nghệ có kim ngạch xuất khẩu không cao so
sánh nhiều mặt hàng xuất khẩu khác, nhưng hàng mỹ nghệ lại mang về cho
đất nước thực thu ngoại tệ có một tỷ trọng rất cao trong kim ngạch xuất khẩu
của mình. So với một số mặt hàng khác như may mặc, gỗ và giày da do
nguyên liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài giá trị gia tăng của các ngành
này chủ yếu là chi phí gia công và khấu hao máy móc thiết bị, cho nên giá trị
thực thu ngoại tệ mang về cho đất nước chỉ chiếm một tỷ trọng từ 5-20%
trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD,
giảm 13,08% so với tháng 3/2008, và giảm 12,10% so với tháng trước. Tính
17
chung 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30
triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng
23,3% so với kế hoạch năm đề ra.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của
Việt Nam, được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác, đã đóng góp
tích cực vào tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, đồng thời có vai
trò quan trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội tại nông thôn. Các
mặt hàng này mức độ tăng trưởng bình quân khá cao 20%/năm, với kim
ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD trong năm 2004 và đạt hơn 750 triệu USD
vào năm 2007, nưm 2008 mặc dù bị tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu
nhưng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng đạt gần 1 tỷ USD. Tuy kim
ngạch xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ trong những năm qua tuy không
lớn, nhưng lại có vai trò quan trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, là
ngành thu hút nhiều lao động tham gia làm hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này mang lại giá trị gia
tăng lớn nên có thể coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất
khẩu trong các năm tới. So với một số mặt hàng khác như may mặc, gỗ và
giày da co nguyên liệu đầu phải nhập khẩu nên giá trị thực thu ngoại tệ chỉ
chiếm tỷ trọng từ 5-20% trong tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu. Nhưng đối
với mặt hàng này thì nguyên vật liệu lại được thu lượm từ phế liệu và thứ liệu
của nông lâm sản nên mang lại hiệu quả từ thực thu giá trị ngoại tệ rất cao, có
những mặt hàng thủ công mỹ nghệ hầu như đạt 801-100% giá trị xuất khẩu.
Cứ 1 triệu USD xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ thì lãi gấp 5-10 lần so
với ngành khai thác; giải quyết việc làm từ 3 đến 5 nghìn lao động, nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào nhóm sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu
lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao. Đây cũng là mặt hàng được liệt vào danh
sách 10 mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim
ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD,
giảm 13,08% so với tháng 3/2008, và giảm 12,10% so với tháng trước. Tính
chung 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30
18
triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng
23,3% so với kế hoạch năm đề ra.
Dự báo, nhu cầu của thị trường Thế giới đối với mặt hàng thủ công mỹ
nghệ sẽ tiếp tục tăng. Do đó chiến lược đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ phải đạt 1,5 tỷ USD là có khả năng thực hiện được.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này nhất là trong bối cảnh khó khăn như hiện
nay thì cần phải có sự liên kết giữa các cơ quan quản lý nhằm kết hợp hài hoà
và tối ưu hoá các nguồn lực phát triển cho ngành hàng này. Về lâu dài, nếu có
chính sách khuyến khích phù hợp, sẽ giúp doanh nghiệp ngành thủ công mỹ
nghệ có điều kiện đầu tư phát triển, tăng cường khả năng sản xuất; tạo ra các
sản phẩm có mẫu mã riêng; kiểu dáng đẹp; chất lượng phù hợp … để tiếp cận
và mở rộng hơn nữa với các thị trường xuất khẩu.
Về chủng loại xuất khẩu:
Cơ cấu các mặt hàng chính
Hàng làm bằng tre
Hàng làm bằng cói
Hàng làm bằng mây
Hàng làm bằng lục bình, lá buông
Hàng làm bằng chuối
Hàng sơn mài
Các loại khác
Tỷ trọng (KN) tháng 4/09
40,08%
16,94%
15,96%
18,68%
2,62%
0,58%
5,12%
Trong cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tháng 4/2009
thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng tre đạt cao nhất 4,5 triệu USD chiếm tỷ trọng 40,08%
giảm nhẹ 4,25% so với tháng trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm chính
như: đũa tre (487.421 USD); hộp tre (342.921 USD); ghế tre (338.516 USD)….
Tiếp theo là mặt hàng làm bằng lục bình, lá buông với tỷ trọng 18,68% trong
cơ cấu kim ngạch xuất khẩu đạt gần 2,1 triệu USD so với tháng 3/2009 thì không
thay đổi. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm làm từ lá buông đạt trên 446,7 nghìn
USD; các sản phẩm chính làm từ lục bình như: giỏ lục bình (429.356 USD); rổ lục
bình (204.977USD); chậu lục bình (183.925 USD)…
Mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn xếp thứ 3 là hàng làm từ cói với kim
ngạch đạt 1,9 triệu USD chiếm tỷ trọng 16,94%, tăng 46,15% so với tháng trước.
Một số sản phẩm chính được làm từ cói như: rổ cói (388.301 USD); hộp cói
(257.634 USD); rổ lục bình (204.977 USD); chậu lục bình (183.925 USD)….
19
Mặt hàng bằng mây có kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt trên 1,79 triệu
USD giảm không đáng kể so với tháng 3/2009, chiếm tỷ trọng 15,96% trong cơ cấu
các mặt hàng.
Ngoài ra, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu khác như: hàng làm bằng chuối
(294.828 USD); hàng làm bằng sơn mài(65.284 USD); các loại khác (574.691
USD)…
Về thị trường xuất khẩu:
Một số thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu cao
Thị trường
Đức
Nhật Bản
Hoa Kỳ
Đài Loan
Italia
Hàn Quốc
Hà Lan
Anh
Tây Ban Nha
Ôxtrâylia
Pháp
Ba Lan
Tháng 4/2009
2.654.351
2.334.715
1.326.129
818.839
707.760
642.458
532.641
489.056
472.925
453.797
426.643
404.544
Trong thời gian qua, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam ngày càng được mở rộng, ngoài các thị trường chủ yếu như: Đức, Pháp, Hàn
Quốc, Nhật Bản… thì hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Theo thông tin từ Bộ Công thương thị trường EU có nhu cầu rất lớn về các
mặt hàng này, trong những năm qua thị trường Eu đã nhập khẩu khoảng 7 tỷ USD
và Việt Nam cũng chiếm được 5,4% kim ngạch nhập khẩu trong số đó.EU sẽ là thị
trường nhiều hứa hẹn của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Thực tế, trong tháng
4/2009 mặt hàng này xuất khẩu sang EU đạt kim ngạch 6,3 triệu USD giảm nhẹ
3,07% so với tháng 3/2009. Tính chung trong 4 tháng kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng này đạt 27,54 triệu USD giảm 20,8% so với cùng kỳ năm trước.Cụ thể như
kim ngạch xuất khẩu sang Đức đạt trên 2,65 triệu USD giảm 10,81% so với tháng
4/2008 nhưng lại tăng 18,16% so với tháng trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong
20
4 tháng sang Đức đạt trên 9,5 triệu USD giảm 14,85% so với 4 tháng 2008; kim
ngạch xuất sang Italia đạt 707 nghìn USD giảm 6,7% so với tháng 3/2009 và giảm
nhẹ 2,7% so với cùng kỳ năm 2008 nhưng tính chung 4 tháng tại thị trường này thì
kim ngạch lại tăng 7,06% so với 4 tháng 2008 và đạt trên 3 triệu USD…
Thị trường có kim ngạch lớn thứ 2 của mặt hàng này trong tháng 4/2009 là
Nhật Bản với kim ngạch đạt trên 2,3 triệu USD,giảm 4,28% so với tháng trước và
giảm 9,15% so với tháng 4/2008.
Với kim ngạch xuất khẩu đạt trên8,4 triệu USD thì Hoa Kỳ là thị trường có
kim ngạch lớn thứ 3 của mặt hàng này, tuy có giảm 18,98% so với 4 tháng 2008.
Riêng trong tháng 4/2009 kim ngạch đạt trên 1,3 triệu USD giảm 56,25% so với
tháng 3/2009 và giảm 35,67% so với tháng 4/2008.
Năm 2010, dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam sẽ đạt mức 1,5 tỉ đô la Mỹ, tăng 170% so với năm 2009. Hiện các mặt thủ
công mỹ nghệ của nước ta có mặt tại 163 nước, vùng lãnh thổ và trở thành nước
xuất khẩu thủ công mỹ nghệ đứng thứ 3 thế giới, sau Trung Quốc và Indonesia.
4. Đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ
nghệ của nước ta thời gian vừa qua.
4.1 Ưu điểm
Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang ngày càng hấp dẫn khách hàng nước
ngoài nhờ sự tinh xảo, chất lượng và giá cả.
Nhiều tham luận tại Hội thảo đã khẳng định: Sản xuất và xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ đã, đang và sẽ tiếp tục là hướng kinh doanh chủ đạo của nhiều làng
nghề và công ty của Việt Nam vì: thứ nhất, đây là lĩnh vực kinh doanh có tiềm
năng rất lớn, và nước ta có ưu thế với đầu vào là nguồn nguyên liệu trong nước rất
dồi dào, chủ động, nguồn nhân công - thợ thủ công đông đảo, có tay nghề cao với
kinh nghiệm truyền thống hàng trăm năm, chi phí lao động thấp, có thể nói, so với
các ngành hàng khác thì hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nhóm ít bị cạnh tranh
nhất; thứ hai, đây là lĩnh vực đầu tư còn bỏ ngỏ, chưa có sự đầu tư lớn, tập trung,
21
mà chỉ là các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, manh mún; thứ ba, đây là lĩnh vực
đầu tư có hiệu quả cao. Vốn đầu tư khá nhỏ so với các ngành đầu tư khác, lợi nhuận
trên đồng vốn đầu tư khá cao, số ngoại tệ thu về được hoàn toàn sử dụng trong
nước; thứ tư, đây là lĩnh vực kinh doanh có ý nghĩa xã hội rất cao, vì mang lại công
việc và thu nhập cho hàng vạn người, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn Việt
Nam và thu về nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Đây còn là lĩnh vực đầu tư
được Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện phát triển với nhiều ưu đãi; thứ
năm, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều chứa đựng sâu sắc tính nghệ thuật, nội
dung văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Có thể nói, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có rất nhiều tiềm năng và điều
kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu như:
-
Là ngành hàng được nhà nước chính thức đưa vào loại ngành nghề
được ưu đăi đầu tư
- Là ngành hàng không đđ̣i hỏi vốn đầu tư nhiều trong sản xuất
-
Mặt bằng sản xuất có thể phân tán trong các gia đđ́nh, không nhất
thiết phải có cơ sở tập trung
-
Một số khâu sản xuất có thể sử dụng máy móc thay thế cho lao động
thủ công nên giá thành hạ
- Nguồn nguyên liệu trong nước phong phú
-
Nguyên phụ liệu để phục vụ cho sản xuất chiếm tỷ lệ rất thấp (35%)
- Nguồn nhân lực dồi dào
- Nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước ngày càng gia tăng
4.2 Hạn chế
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có rất nhiều đặc điểm thu hút các
bạn hàng nước ngoài, tạo được một chỗ đứng trong lòng những người tiêu dùng
khắp thế giới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng tới quy mô xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn còn nhiều khó khăn cần giải quyết. Một
là, hiện nay, ta vẫn nặng lối tư duy cũ là chỉ bán những sản phẩm mình có, mà chưa
quan tâm tới nhu cầu của từng nước. Để cởi bỏ, doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất
22
cần phải làm ra những sản phẩm phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Hai là kiến thức
về các thị trường nước ngoài vẫn còn hạn chế.
Ba là, rất nhiều nước đang có những sản phẩm cạnh tranh với chúng ta, như
Trung Quốc, Thái Lan. Bốn là, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp quốc tế của các
doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Năm là, đa phần doanh nghiệp còn nóng vội,
chưa kiên nhẫn trong việc nghiên cứu và thâm nhập thị trường nước ngoài, nhất là
những thị trường khó tính.
- Bộ Thương mại đánh giá, trong thời gian tới, thủ công mỹ nghệ là mặt hàng
còn nhiều tiềm năng xuất khẩu trên phương diện thị trường và năng lực sản xuất.
Tuy nhiên, thủ công mỹ nghệ Việt Nam còn nhiều điểm yếu cần khắc phục, trong đó
khả năng thiết kế mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu; năng lực đáp ứng sản
xuất theo các đơn hàng lớn... là những hạn chế lớn đang cần được khắc phục nhanh
chóng.
- Mức độ phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ vẫn còn hạn chế so với tiềm
năng của nó: đặc biệt những năm gần đây doanh thu xuất khẩu của ngành thủ công mỹ
nghệ mặc dù có tăng trưởng nhưng vẫn không đạt được chỉ tiêu đề ra, ngoài một số mặt
hàng gốm sứ mỹ nghệ, các mặt hàng TCMN còn lại đã bộc lộ nhiều điểm yếu.
- Một trong những yếu tố hạn chế doanh nghiệp Việt Nam là tiếp cận thị
trường của chúng ta vẫn còn yếu, đơn cử như chúng ta vẫn chưa tiếp cận trực tiếp
với khách hàng được.
- Ngoài những hạn chế về vốn, quy mô, công nghệ... vấn đề mẫu mã sản phẩm
đơn điệu, chậm cải tiến đã khiến sản phẩm thủ công mỹ nghệ (TCMN) của các làng
nghề giảm sức cạnh tranh.
4.2 Nguyên nhân hạn chế.
Trước hết có thể thấy, chính những khó khăn trong sản xuất là một trong
những yếu tố cơ bản nhất gây ra hạn chế trong xuất nhập khẩu hàng thu công mỹ
nghệ ở nước ta thời gian qua.
Có 3 khó khăn lớn quyết định sự sống còn của các DN sản xuất kinh doanh
XK hàng TCMN hiện nay. Đó là:
+Thứ nhất, về nguồn nguyên liệu do các địa phương đã khai thác bừa bãi,
23
thiếu quy hoạch và đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu dẫn đến tình trạng nguồn :
gỗ, tre, trúc, giang, nứa, mây... dần cạn kiệt. Hệ quả là hiện các DN phải NK khoảng
50% mây từ Lào, Cam phuchia và Indonesia... Giá của nguyên liệu tre đã tăng lên
từ 7000 tới 17000 đồng/cây chỉ trong vòng 2 năm gần đây. Nhìn chung, tình trạng
cạn kiệt nguồn nguyên liệu thô là nguy cơ chung đối với các nhà sản xuất Việt
Nam.Trong khi đó, các ngành phụ trợ của Việt Nam hiện nay chưa phát triển, các
nhà XK thường phải NK rất nhiều loại nguyên liệu và phụ trợ từ nước ngoài, ví dụ
như sơn mài PU và chất nhuộm màu để thực hiện các khâu hoàn thiện sản phẩm.
Vải có chất lượng cho sản xuất hàng thêu ren hầu như phải NK hoàn toàn làm chi
phí cho nguyên liệu chiếm từ 60 đến 80% chi phí sản xuất. Giá NK sợ visco cao
cũng tạo ra mối đe dọa cho các ngành dệt khác...
Ngoài việc giá nguyên liệu thô tăng ảnh hưởng đến năng lực thu mua nguyên
liệu của các DN, nó còn làm giảm khả năng cạnh tranh hàng XK của Việt Nam.
+Thứ hai, đối với mẫu mã. Theo nhận xét của khách hàng, 90% mẫu hàng
TCMN hiện nay dựa trên đặt hàng từ người mua và các sản phẩm thủ công của Việt
Nam đều có vẻ bề ngoài khá giống nhau. Hạn chế này xuất phát từ việc Việt Nam
chưa có viện thiết kế mẫu riêng cho các sản phẩm TCMN, thiếu khoa, trường lớp
đào tạo lao động các nghề TCMN. Học nghề TCMN chủ yếu bằng phương pháp
“truyền nghề” theo kinh nghiệm trong làng nghề hoặc gia đình.
+Thứ ba, mạng lưới sản xuất kinh doanh hàng TCMN đa số nhỏ lẻ, nhiều cơ
sở không có điều kiện tham gia XK trực tiếp, các đơn đặt hàng thường qua trung
gian nên hạn chế phát triển... Ngoài ra còn hàng loạt các khó khăn như vốn đầu tư
cho sản xuất kinh doanh hàng TCMN nói chung không lớn, tuy nhiên để tiếp cận
với nguồn tài chính như thủ tục vay vốn ngắn hạn của các DN, khu vực nông thôn
và người nghèo mất quá nhiều thời gian. Trong khi đó, tiền vay được lại ít hơn
nhiều so với nhu cầu. DN rất khó đáp ứng được những điều kiện bảo đảm thế chấp,
do đó dẫn đến hạn chế hoạt động kinh doanh. Các đơn vị sản xuất còn thiếu mặt
bằng để mở rộng sản xuất, điều kiện về cơ sở hạ tầng rất thấp kém; chi phí vận
chuyển quá cao...
Cùng với ảnh hưởng từ việc sản xuất thì nguyên nhân của những hạn chế trong
24
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta thời gian qua là:
Các đơn vị sản xuất nhỏ thường thiếu thông tin, thiếu vốn, khả năng tiếp thị và
xúc tiến thương mại rất hạn chế, hàng hoá nhiều lúc phải bán qua nhiều trung gian,
làm cho giá bán thấp, sản xuất thiếu hiệu quả, không có khả năng đầu tư mở rộng
nhà xưởng, mua sắm trang bị và cải tiến máy móc thiết bị, hạn chế việc phát triển và
nâng cao chất lượng lẫn số lượng sản phẩm.
Mức độ phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ vẫn còn hạn chế so với tiềm
năng của nó: đặc biệt những năm gần đây doanh thu xuất khẩu của ngành thủ công
mỹ nghệ mặc dù có tăng trưởng nhưng vẫn không đạt được chỉ tiêu đề ra, ngoài một
số mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ, các mặt hàng TCMN còn lại đã bộc lộ nhiều điểm
yếu.
Hầu hết các mẫu mã sản phẩm chậm cải tiến, thiếu mặt hàng mới, kiểu dáng
sản phẩm không theo kịp tập quán và thói quen tiêu dùng của thị trường xuất khẩu,
sản phẩm không dự đoán được những biến đổi khí hậu của từng địa phương. Sản
phẩm thiếu đồng bộ, tính hoàn thiện sản phẩm còn thấp, công dụng không rõ nét, độ
an toàn chưa được chú ý, bao bì không hấp dẫn... đặc biệt là thiếu sản phẩm được
thiết kế kiểu dáng sáng tạo từ đơn vị trực tiếp sản xuất, chi phí giá thành sản phẩm
vẫn còn cao, làm giảm đi khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Những mặt hàng được
sản xuất mang đặc tính và tượng trưng của từng địa phương còn hạn chế, chưa gây
được ấn tượng mạnh cho người tiêu dùng và các nhà phân phối.
Theo các chuyên gia, hiện nay, đa số các cơ sở sản xuất của Việt Nam thường
nằm trong các các làng nghề co quy mô nhỏ dang, tổ hợp, hợp tác xã, hộ gia đình...
năng lực sản xuất rất hạn chế. Bên cạnh đó, việc đào tạo nhân lực thường theo
phương thức truyền nghề chỉ nhằm nắm vững những kỹ năng cơ bản, những quy
chuẩn và nguyên tắc sản xuất theo truyền thống mà không có nền tảng cơ bản về tạo
hình, mỹ thuật cũng như thiếu tính sáng phù hợp với nhu cầu trang trí và sử dụng
của đời sống hiện đại.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng, một số mặt hàng thủ công Việt
Nam lúc ban đầu được nhiều thị trường nhập khầu nhiều do sự mới lạ và tinh xảo
nhưng càng về sau thì việc kinh doanh bị giảm sút do chậm đổi mới và đa dạng hoá
25