Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

anh văn chuyên ngành tự động hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201 KB, 17 trang )

GIỮA KỲ
CHAPTER 2
MECHANISMS (CƠ CẤU CHẤP HÀNH)
Cơ cấu chấp hành là thiết bị mà có thể xem là thứ chuyển đổi chuyển động trong
đó
nó biến đổi chuyển động từ 1 dạng này sang một vài dạng khác theo yêu cầu
hoặc cđ 1 chiều thành cđ theo hướng vuông góc với nó
hoặc có lẽ là cđ tịnh tiến qua lại thành cđ quay
trong động cơ đốt trong nơi mà cđ qua lại của pistong chuyển đổi thành cđ quay
của trục khuỷu và do đó làm trục quay.
cơ cấu cơ khí có thể bao gồm việc sử dụng liên kết thanh, bánh răng, bánh răng
thanh răng, xích, đai,vv. VD, BR-TR có thể đc sử dụng chuyển cđ quay thành cd
thẳng. BR trụ răng thẳng có thể đc sd để giảm tốc độ của trục. BR côn có thể đc sd
để truyền tải cđ quay 90 độ. Đai răng hoặc xích có thể đc sd biến đổi cđ quay
trong của 1 trục đến 1 trục khác. Cam và lk thanh có thể dc sử dụng để đạt đc
những chuyển động cái mà đc quy định khác nhau trong tình huống cụ thể
Nhiều hoạt động nó trước đây thu được bởi sử dụng cơ cấp chấp hành, tuy nhiên,
ngày nay thu được, là kết quả của phương pháp cơ điện tử, bằng cách sử dụng hệ
thống vi xử lý. VD, cam trên trục quay trước đây được sử dụng cho máy giặt trong
nước cung cấp định thời cho các hoạt động như mở van để cho nước vào thùng,
tắt nước, bật máy sấy,vv. Máy giặt hiện đại sử dụng hệ thống vi xử lý bởi vi xử lý
được lập trình để chuyển đổi đầu ra theo trình tự yêu cầu.
Trong khi bây giờ điện tử có thể được sử dụng thường xuyên cho nhiều chức năng
mà trước đây được thực hiện bởi cơ cấu chấp hành, cơ cấu chấp hành vẫn có thể
được sử dụng để cung cấp các chức năng sau:
1. Khuếch đại lực, vd: bằng cách sd đòn bẩy


2. Thay đổi tốc độ, vdL sử dụng bánh răng
3. Chuyển cđ quay của 1 trục đến cđ quay của trục khác, vd: đai răng
4. Các loại cđ đặc biệt, vd: sử dụng cơ cấu hồi tiếp



TYPES OF MOTION (CÁC LOẠI CHUYỂN ĐỘNG)
Chuyển động của vật cứng bất kì có thể coi là sự kết hợp giữa cđ tịnh tiến và cđ
quay. Xét không gian 3 chiều, cđ tịnh tiến có thể xem là 1 chuyển động mà nó
phân tích thành các thành phần dọc theo 1 hoặc nhiều trong 3 trục. 1cđ quay có
thể dc xem như là 1cđ quay cái mà có những thành phần quay của 1 hoặc nhiều
hơn 3 trục
Cđ phức tạp có thể kết hợp của cđ quay và tịnh tiến. VD: nghĩ về cđ mà nó là yêu
cầu cần thiết để bạn lấy 1 cây bút chì từ 1 cái bàn. Nó có thể liên quan đến bàn tay
của bạn cụ thể là góc hướng tới cái bàn, quay của tay và tất cả cđ liên kết để mở
ngón tay của bạn và di chuyển đến các cđ phức tạp.

BẬC TỰ DO
Một khía cạnh quan trọng trong thiết kế cơ cấu cơ khí, nó định hướng và sắp xếp
cơ cấu và bộ phận. Vật thể tự do trong không gian có thể di chuyển trong 3 chiều
độc lập có hướng vuông góc lẫn nhau và quay quanh 3 hướng đó. Khi đó ta nói có
6 bậc tự do. Số bậc tự do là số thành phần của chuyển động được yêu cầu để tạo
ra chuyển động.
Vấn đề trong thiết kế là thương xuyên pải giảm số bậc tự do và đòi hỏi đó là số
thích hợp và định hướng các ràng buộc. Không có ràng buộc nào thì vật thể đó có
6 bậc tự do. Một ràng buộc cần thiết để chặn một mức tự do. Không có ràng buộc
dư thừa thì số bậc tư do là 6 trừ cho số ràng buộc. Tuy nhiên, ràng buộc dư thừa
thường xuyên xảy ra và vì thế các ràng buộc trên 1 vật rắn ta có công thức cơ bản:
6- Số ràng buộc= số bậc tự do - số ràng buộc dư thừa
Một vật cố định, có 0 bậc tự do, nếu không có ràng buộc dư thừa thì số ràng buộc
yêu cầu là 6.


Một khái niệm được sử dụng trong thiết kế là nguyên tắc ràng buộc ít nhất. Trạng
thái này nó sửa chữa vật hoặc hướng đến loại cđ cụ thể, số lượng hạn chế tối

thiểu nên đc sử dụng, không nên có dư thừa. Nó được gọi là thiết kế động học

CHAPTER 3
CAM INTRODUCTION
Cam là 1 vật thể quay hoặc lắc và nó tác động cđ lặp đi lặp lại hoặc lắc đó đến vật
thứ 2, cái đc goij là con đội, với cái mà nó tiếp xúc.
như cđ quay của cam thì con đội đc đi lên, đứng yên và đi xuống, khoảng t/gian
hoạt động của mỗi vị trí phụ thuộc vào biên dạng của cam. PHẦN ĐI LÊN của cam
là phần mà làm con đội đi lên, biên dạng của nó quyết định con đội đc đi lên
nhanh ntn. PHẦN ĐI XUỐNG của cam làm cho con đội hạ xún, biên dạng của nó
quyết định việc cam đi xun nhanh ntn. PHẦN ĐỨNG YÊN của cam là phần cho
phép con đội duy trì ở mức như vậy cho khoảng time đáng kể. phần đứng yên của
cam là nơi mà còn trong của nó cùng với bán kính cái mà nó ko thay
đổi..........................................Biên dạng của cam đc yêu cầu để tạo ra 1 cđ đặc biệt
của con đội sẽ phụ thuộc vào biên dạng của cam và loại con đội đc sử dụng.
Khoảng cách hướng tâm từ trục quay của cam đến điểm tiếp xúc của cam với con
đội có độ dịch chuyển của con đội với điểm mốc đến trục quay của cam

ECCENTRIC CAM
Cam lệch tâm thường cho phép con đội lên chậm và xuống. Tuy nhiên, cam ốc rơi
được sử dụng nơi mà con đội lên hoặc xuống đột ngột. VD cam ốc/rơi quay ngược
chiều kim đồng hồ. Quay cùng chiều kim đồng hồ có lẽ dẫn tới toàn bộ cơ cấu mắc
kẹt. Điểm này là một bất lợi nổi bật khi sử dụng loại cam này. Bên cạnh đó đảm
bảo quay êm, đường tâm trục của cam pải đặt hơi lệch sang bên trái một chút để
trượt.
Sơ đồ phía dưới cho thấy vòng quay của cam ốc/rơi. Khi quay một vòng hoàn
chỉnh con đội ở mức đầu khoảng chừng 120 độ. Con đội lên chậm và đột ngột rơi
khi đạt tới và vượt qua đỉnh.



Dụng cụ cơ khí nhìn thấy phía dưới có cam ốc/rơi là phần chính. Con đội được kết
nối với tay của người đó nhờ dây dẫn. Khi cam quay, con đội đi lên và dây dẫn
nâng tay người đó lên. Điều đó làm cho người đó nâng cái nĩa đầy thức ăn vào
miệng của a ấy. Khi cam tiếp tục quay con đội đột ngột đi xuống và bàn tay và cái
nĩa cũng thế

FLAT CAM
như biên dạng cam phẳng cđ sang trái làm cho con đổi đi lên và xún, tương ứng
với hình dạng của biên dạng. cam phẳng sau đó đảo hướng ngược lại và con đội đi
rơi và lên trở lại.................con đội ko bình thương bởi vì nó có con lăn/bánh xe để
giúp cđ êm của biên dạng cam phẳng và con đội. nó cũng có lò xo phản hồi cái mà
đẩy con đội ngược lại biên dạng, đảm bảo rằng nó luôn chạy ngc lại với nó và theo
hình dạng chính xác
MECHANICAL PAPER PUNCH: cần gạt nó đc gạt xuống bằng hệ thống BR (BR-TR) di
chuyển biên dạng tấm phẳng sang trai. Lần lượt đẩy con đội đi xuống nó đục 2 lỗ
lên giấy/ thẻ.
1. những yếu tố nào tác động đến kiểu cđ của cam
2. khoảng time của 3 phần cđ của cam phụ thuộc vào cái j
3. 2 điểm khác nhau giữa cam lệch tâm và cam rơi
4. khi nào cam rơi hoạt động êm
5. trong cam phẳng, chức năng của bánh xe/con lăn và lò xo
1. những ứng dụng của BR thẳng
2. vận tốc góc của BR phụ thuộc vào nhưng nhân tó nào
3. khi nào 2 BR thẳng ăn khớp với nhau
4. những nhược điểm của BR thẳng


CHƯƠNG 4: BÁNH RĂNG
GIỚI THIỆU
Những chuỗi bánh răng là những cơ cấu chấp hành cái mà được sử dụng rất rộng

rãi để truyền động và chuyển đổi chuyển động quay
Chúng được sử dụng khi thay đổi tốc độ hoặc moment xoắn của 1 thiết bị quay
được cần
Ví dụ, Hộp số xe hơi cho phép người lái phối chọn thiết bị tốc độ và momet xoắn
phù hợp với địa hình với năng lượng động cơ có sẵn. Hộp Bánh vít-trục vít đc sử
dụng cho việc giảm tốc độ và tăng moment xoắn cho ỗ đĩa động cơ điện
Khi 2 br ăn khớp, bánh răng lớn hơn thường đc gọi là br bị dẫn và br nhỏ hơn là br
dẫn
VD: nếu brA có 20 răng, brB có 40 răng, sau đó brA phải quay hết 2 vòng trong
cùng t/gian như vậy thì brB quay hết 1 vòng. Như vậy vận tốc góc của brA phải gấp
đôi vận tốc góc của brB
Vì số răng trên br tỷ lệ thuận với đường kính của nó, nên ta có thể viết.....
Theo cách đó cho số liệu chúng ta đã xem xét, thì brB phải có đường kính gấp 2
lần brA. Thuật ngữ tỷ số truyền được sử dụng cho tỷ số của những tốc độ góc của
1 cặp của những br ăn khớp

BÁNH RĂNG THẲNG
Br rẳng hoặc br cắt thẳng là kiểu br đơn giản nhất. Cúng bao gồm 1 trụ tròn hoặc
đĩa tròn với những răng nhô ra hướng tấm, và mặc dù chúng ko thăng đứng trong
form ,,\ cạnh của mỗi răng là thẳng và đc căng chỉnh song2 với trục quay
Những bánh răng có thể được ăn khớp chính xác với nhau chỉ khi chúng được lắp
trên các trục song song


Bánh rang thẳng được sử dụng trong nhiều thiết bị như là tua vít điện, hình nộp
nhảy, đồng hồ báo thức, máy giặt và máy sấy áo quần. Nhưng loại br này ko tìm
thấy trong xe hơi
Điều đó là vì br thẳng thực sự có thể gây ồn. Mỗi lần 1 răng br ăn khớp với 1 răng
của br khác, các răng va đập, và điều này tác động gây ồn. Nó cũng làm tăng ứng
suất trên những răng của br

Để giảm tiếng ồn và ứng suất trong những br, hầu hết những br trong xe của bạn
là nghiêng

CUỐI KỲ
HELICAL GEAR (Bánh răng nghiêng)
…đưa ra caritieens hơn bánh răng trụ răng thẳng. Cạnh dẫn của răng không
song song với trục quay, nhưng tạo thành góc. Khi bánh răng được uốn cong,
nguyên nhân này gây ra biên dạng răng có hình xoắn ốc. Bánh răng nghiêng
có thể ăn khớp dạng song song hoặc chéo nhau. Dạng trước (ăn khớp song song)
Khi các trục song song với nhau, đây là dạng phổ biến nhất. Dạng sau ( ăn khớp
chéo nhau), các trục không song song, và trong cấu hình này đôi khi được gọi là
“bánh răng lệch chéo nhau”.
Các răng nghiêng ăn khớp từ từ hơn so với bánh răng thẳng dẫn tới chúng chạy
êm mượt (trơn tru) và yên lặng hơn. Đối với bánh răng nghiêng song song, mỗi
cặp răng đầu tiên tiếp xúc tại một điểm duy nhất tại 1 mặt của bánh răng;
đường cong tiếp xúc di chuyển tăng dần dần qua mặt răng đến mức tối đa


sau đó lùi về tới khi phá vỡ tiếp xúc tại một điểm trên mặt đối diện. Răng của
bánh răng trụ răng thẳng tiếp xúc đột ngột tại một đường thẳng trên toàn bộ
chiều rộng của chúng gây ra ứng suất và tiếng ồn. Trong khi đó bánh răng thẳng
được sử dụng trong trường hợp tốc độ thấp và những trường hợp nơi kiểm soát
tiếng ồn không là vấn đề, sử dụng bánh răng nghiêng chỉ khi những trường hợp
liên quan đến tốc độ cao, hiệu suất truyền tải lớn hoặc nơi giảm tiếng ồn là quan
trọng. Tốc độ được xét là cao khi vận tốc vòng chia vượt quá 25m/s.
Nhược điểm của bánh răng nghiêng là lực dọc trục của bánh răng, chúng cần
được khắc phục bởi ổ bi đỡ chặn thích hợp, và góc ma sát trượt lớn giữa 2
bề mặt răng, thường giải quyết bằng chất phụ gia đó là chất bôi trơn.

DOUBLE HELICAL GEAR (BÁNH RĂNG NGHIÊNG KÉP)

Bánh răng nghiêng kép hoặc bánh răng xương cá, khắc phục vấn đề lực dọc trục
tạo
ra từ bánh răng nghiêng đơn bởi có 2 bộ răng thiết lập thành dạng chữ V.
Mỗi bánh răng trong bánh răng nghiêng kép có thể được xem như là 2 bánh răng
nghiêng
đối xứng nhau (xếp chồng lên nhau). Nó triệt tiêu lực dọc trục tại vì mỗi nửa lực
của
bánh răng ngược chiều nhau. Bánh răng nghiêng kép sản xuất khó khăn hơn bởi vì
nó có hình dạng phức tạp hơn.
Với mỗi vòng quay có thể có sắp xếp theo 2 cách là sắp xếp đối ngược 2 bánh răng
nghiêng


hoặc mặt răng. Cách sắp sếp thứ nhất, mặt răng nghiêng được sắp xếp sao cho lực
trục tạo ra
bởi mỗi trục có chiều từ tâm ra ngoài bánh răng, đó là cách sắp xếp không ổn
định. Cách sắp xếp
thứ hai, nó ổn định, các mặt bánh răng nghiêng được sắp xếp sao cho lực trục của
mỗi trục hướng vào tâm của bánh răng.
Trong cả 2 cách sắp xếp, khi bánh răng được căn chỉnh chuẩn, tổng lực dọc trục
mỗi bánh răng bằng không. Nếu bánh răng trở nên lệch hướng theo hướng của
trục, sắp xếp không ổn định tạo ra hợp lực làm tháo gỡ hệ thống bánh răng , trong
khi sắp xếp ổn định tạo nên hợp lực chuẩn hơn. Nếu quay ngược chiều, chiều của
lực dọc trục sẽ đảo ngược, kết cấu ổn định thành không ổn định, và ngược lại.
Bánh răng nghiêng kép ổn định có thể thay thế trực tiếp cho bánh răng trụ răng
thẳng mà không cần bất kì vòng bi khác.

BEVEL GEAR
- Một bánh răng côn có ình dạng giống như hình nón đúng với hầu hết phần đỉnh
của nó bị cắt

Khi 2 bánh răng côn ăn khớp, đỉnh ảo của chúng phải giao nhau tại 1 điểm.
Các trục của chúng luôn luôn giao nhau tại điểm đó, tạo thành 1 góc ko thẳng
hàng bất kỳ giữa các trục.
Góc giữa các trục có thể là bấy kỳ trừ 0 hoặc 180 độ.
Những br côn có cùng số răng và góc giữa các trục tại 90 độ đc gọi là br đỉnh
vuông.
- răng của br côn có thể cắt thẳng như br thẳng, hoặc chúng có thể đc cắt theo
nhiều hình dạng khác nhau.


Răng br côn xoắn đc uốn cong dọc theo chiều dài răng và tạo thành 1 góc, tương
tự cho cách răng br nghiêng tạo thành 1 góc ví như cho răng br thẳng.
Br côn ko có răng cái mà đươc uốn cong dọc theo chiều dài của chúng, nhưng ko
góc cạnh.
Br côn xoắn có ưu và nhược điểm tương tự liên quan đến họ hàng cắt thẳng của
chúng như br nghiêng so với br thẳng.
Br côn thẳng chỉ được sử dụng ở tốc độ dưới 5m/s, cho br nhỏ,

WORM GEAR
- Trục vít có hình dạng tương tự những cái vít. Một trục vít thường được ăn
khớp với 1 br thẳng hoặc 1 br nghiêng, cái đc gọi là br, bánh xe, hoặc bánh vít.
Bộ trục vít và bánh răng là 1 cách đơn giản và gọn nhẹ để đạt được 1 momen
xoắn cao, tỷ số truyền lớn. Ví dụ, br nghiêng bình thường dược giới hạn để tỷ số
truyền ít hơn 10:1 trong khi Bộ truyền TV-BV thay đổi từ 10:1 đến 500:1.
Một nhược điểm là có khả năng ma sát trượt lớn, dẫn đến hiệu suất thấp.
- Trục vít có thể được xem như là 1 dạng của br nghiêng, nhưng góc xoắn của
chúng thường hơi lớn (gần 90 độ) và thân của nó thường khá dài trong hướng
trục; và nó có thuộc tính như đinh vít.
Điều khác biệt giữa trục vít và br nghiêng là chế tạo khi ít nhất 1 răng quấn hết
vòng theo đường xoắn ốc. Nếu điều đó xảy ra, nó là trục vít; Nếu ko, nó là br

nghiêng.
Một trục vít có thể có ít nhất 1 răng. Nếu răng đó quấn 1 vài vòng theo đường
xoắn ốc, trục vít sẽ xuất hiện, mặt khác, để có nhiều hơn 1 răng, nhưng cái mà
trên thực tế thấy là cùng 1 răng tái xuất hiện tại 1 khoảng dọc theo chiều dài của
trục vít.
Tên gọi vít thường đươc áp dụng: trục vít 1 răng được gọi là ren đơn hoặc 1 đầu
mối; 1 trục vít với nhiều hơn 1 răng được gọi là nhiều ren hoặc nhiều đầu mối.


Góc xoắn của trục vít thường ko rõ ràng. Thay vào đó, góc dẫn, cái mà bằng 90 độ
trừ góc xoắn.
- Trong bộ truyền TV-BV, trục vít luôn dẫn bánh răng. Tuy nhiên, nếu bánh răng cố
gắng dẫn trục vít, nó có thể hoặc ko thể thành công. Đặc biệt nếu góc dẫn là nhỏ,
răng của br có thể khóa chống lại răng của trục vít, bơi vì thành phần lực vòng ko
đủ để thắng lại lực ma sát.
Bộ truyền TV-BV điều mà khóa đó được gọi là tự hãm, cái mà có thể đc sử dụng
làm ưu điểm, Ví dụ khi nó được mong muốn để ở vị trí của một cơ cấu bằng vòng
quay trục vít và sau đó có cơ cấu giữ lại ở vị trí đó.
- Nếu bánh răng trong Bộ truyền TV-BV là một br nghiêng thường suy nhất 1 điểm
của sự tiếp xúc sẽ đạt được. Nếu hoàn cảnh hiệu suất cao được mong muốn, biên
dạng răng của bánh răng được biến đổi để đạt được sự tiếp xúc mật thiết bằng
cách làm cho cả 2 br bao hết 1 phần lẫn nhau. Điều này đạt được bằng cách cả 2
chúng làm lõm và tiếp xúc tại điểm lồi; điều này được gọi là . Trục vít có thể là
hướng trái hoặc phải dọc theo chiều dài thực tế cho ren vít.

HỆ BÁNH RĂNG
Thuật ngữ Hệ bánh răng sử dụng để mô tả một loạt các bánh răng liên kết với
nhau, hệ bánh răng đơn giản được sử dụng cho một hệ thống mà mỗi trục chỉ
mang một bánh răng, đối với một hệ bánh răng như vậy, tỉ lệ tổng thể là tỉ lệ vận
tốc gốc tại trục đầu vào và trục đầu ra, tức là A/c, i.e


Xem xét một hệ bánh răng đơn giản, bao gồm các bánh răng A, B, và C, như trong
hình trên với A có 9 răng và c có 90 răng, khi vận tốc góc của bánh xe tỷ lệ nghịch
với số răng trên bánh xe, tỉ số bánh răng là 90/9 = 10. Tác động của bánh xe B là
hoàn toàn thay đổi hướng quay của bánh xe đầu ra so với những gì nó đã có được
chỉ với hai bánh xe A và C xen kẽ, Các bánh xe trung gian, B, được gọi là bánh răng
làm biếng, Chúng ta có thể viết lại phương trình này cho tỷ lệ bánh răng chung,


Một bánh răng đơn giản của các bánh răng thẳng, xoắn ốc hoặc côn răng thường
được giới hạn ở tỷ lệ bánh răng tổng thể khoảng 10. Điều này là do cần phải giữ
bánh răng xuống đến một kích thước có thể quản lý được là số lượng răng trên
bánh răng sẽ được giữ trên một số lượng tối thiểu thường là khoảng 10 đến 20. Tỷ
số bánh răng cao hơn có thể, tuy nhiên, thu được với các hệ bánh răng. Điều này
là do tỷ số truyền là kết quả của các tỷ số truyền của từng bộ bánh răng song song.
Thuật ngữ tổ hợp hệ bánh răng được sử dụng để mô tả một hệ bánh răng khi hai
bánh răng được gắn trên một trục chung. Khi hai bánh răng được gắn trên cùng
một trục, chúng có cùng vận tốc góc. Như vậy, đối với cả hai bánh răng tổ hợp
trong hình dưới đây, B = C Do đó, tỷ số truyền tổng thể bánh răng G là….

Xem xét một hệ bánh răng tổ hợp với A, là bánh răng truyền động, có 40 răng, B
20 răng, C 30 răng và D là bánh răng cuối cùng, 10 răng, từ dó vận tốc góc của
một bánh răng tỷ lệ nghịch với số lượng răng trên bánh răng, tỷ số truyền tổng thể
là,
G=20/40 * 10/30 =1/6
Do đó, nếu đầu vào cho bánh răng A là vận tốc góc 40 vòng / phút, thì vận tốc góc
đầu ra của bánh răng là 40: (1/6) = 160 vòng / phút.

BELT AND CHAIN DRIVES (ĐAI VÀ XÍCH)
Đai là vòng tròn bằng vật liệu mềm dẻo được sử dụng để kết nối 2 hoặc nhiều trục

quay máy móc.
Đai có thể được sử dụng như nguồn chuyển động, truyền nặng lượng hiệu quả,
hoặc theo dõi chuyển động tương đối. Đai được quấn quanh puli. Trong một hệ
thống 2 puli, đai có thể dẫn puli cùng chiều, hoặc đai có thể chéo nhau, vì vậy
chiều của trục bị đảo ngược. Như một nguồn chuyển động, băng tải là một ứng
dụng mà đai là bộ chuyển đổi liên tiếp mang tải giữa 2 điểm.


PROS AND CONS OF BELT DRIVER
(ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA BỘ TRUYỀN ĐAI)
Bộ truyền đai, hơn thế nữa, nó đơn giản, rẻ tiền, và không yêu cầu trục song song
nhau. Nó giúp bảo vệ máy móc quá tải và mắc kẹt, và giảm và cách li tiếng ồn và
rung động. Độ dao động của tải được giảm sốc (đệm). Chúng không cần bôi trơn
và rất ít bảo dưỡng. Chúng có hiệu suất cao (90-98%, thường 95%), dung sai
không thẳng hàng cao, và chúng rẻ tiền nếu trục cách xa nhau. Bộ li hợp được kích
hoạt bởi giảm căng đai. Tốc độ khác nhau có thể thu được bởi puli bậc hoặc nón.
Tỉ số vận tốc góc có thể không là hằng số hoặc bằng đường kính puli, bởi vì trượt
và co dãn. Tuy nhiên, vấn đề đó hầu như được giải quyết khi sử dụng đai răng.
Phạm vi nhiệt độ từ -31 độ F (-35 độ C) đến 185 độ F (85 độ C). Điều chỉnh khoảng
cách trục hoặc thêm vào puli đệm cần thiết để bù lại mòn và co giãn.
Như một phương pháp truyền năng lượng giữa 2 trục, bộ truyền đai có ưu điểm là
chiều dài của đai có thể dễ dàng điều chỉnh để cho nó phù hợp với nhiều khoảng
cách trục đến trục và hệ thống tự động bảo vệ khi quá tải bởi vì xu hướng trượt
nếu tải trọng vượt quá sức kéo căng tối đa nó có thể duy trì bởi lực ma sát. Nếu
khoảng cách giữa các trục lớn, bộ truyền đai phù hợp hơn bánh răng, nhưng
khoảng cách quá nhỏ bánh răng thích hợp hơn. Kích thước puli khác nhau có thể
được sử dụng để tạo nên hiệu ứng bánh răng. Tuy nhiên, tỉ số truyền của bánh
răng tối đa là 3 vì chúng cần duy trì tiếp xúc phù hợp giữa đai và puli.

FLAT BELTS (ĐAI DẸT)

Đai dẹt được sử dụng rất sớm trong dây chuyền để truyền năng lượng trong nhà
máy. Chúng cũng được sử dụng rất nhiều trong trồng trọt, khai khoáng, và khai
thác gỗ, như là cưa, máy cưa, máy đập lúa, máy thổi , băng tải cho kho chứa ngô
hoặc cỏ khô, máy đóng kiện, máy bơm nước (cho giếng, mỏ than, nông trại đầm
lầy), và máy phát điện
Đai dẹt là hệ thống đơn giản để truyền năng lượng thích hợp cho ngày nay. Nó
mang công suất cao với tốc độ cao (500hp for 10000ft/min), trong trường hợp bề


rộng đai và puli lớn. Bộ truyền này cồng kềnh, đòi hỏi lực kéo lớn, dẫn tới tải trọng
cao, vì thế đai chữ V được thay thế chủ yếu đai dẹt ngoại trừ khi tốc độ cao cần
hơn công suất.
Cuộc cách mạng công nghiệp sớm đòi hỏi nhiều hơn từ hệ thống, và bộ truyền đai
dẹt cần căn chỉnh cẩn thận để ngăn chặn đai trượt ra ngoài. Bởi vì đai dẹt có xu
hướng leo lên phần cao hơn của puli, puli đã được chế tạo nhỏ lồi hoặc bề mặt
“nón”(thay vì phẳng) để giữ đai nằm ở giữa.
Đai có xu hướng trượt ra khỏi puli khi sử dụng tải lớn và nhiều thành phần bao
phủ có sẵn có thể được sử dụng cho các dây đai để tăng ma sát, và để truyền năng
lượng.
Độ bám tốt nếu dây đai được gắn thêm vào các sợi bên da để chống lại puli mặc
dù dây đai thường được lộn ngược lại trước khi nối lại các đầu, vì vậy mòn phân
bố đều 2 bề mặt của dây đai.
Dây đai được nối với nhau bằng cách viền các đầu với nhau bằng miếng da, hoặc
sau đó bằng miếng kim loại như lược. Mọt cách sử dụng hiện đại hơn cho đai dẹt
là với puli nhỏ hơn và khoảng cách tâm lớn. Có thể kết nối bên trong và bên ngoài
puli, và có thể cả 2 đầu và nối lại.

ROUND BELTS (ĐAI TRÒN)
Đai tròn có tiết diện mặt cắt ngang đai được thiết kế chạy trong bánh đai rãnh chữ
V góc 60 độ.

Rãnh tròn chỉ phù hợp với puli đệm để dẫn đai, hoặc khi vòng đệm hình O được
sử dụng.
Rãnh chữ V truyền momen xoắn thông qua chèn thêm nêm động do đó làm tăng
ma sát. Tuy nhiên
Đai tròn chỉ sử dụng trong trường hợp momen xoắn tương đối thấp và có thể
được mua độ dài khác nhau hoặc cắt theo chiều dài và nối lại, hoặc bằng kẹp, đầu
nối kim loại (trong trường hợp nhựa rỗng)


, keo hoặc hàn (trong trường hợp nhựa PU)
Máy may đầu tiên dùng đai da, nối lại hoặc bằng đinh kim loại hoặc dán, để có
hiệu quả tuyệt vời.

VEE BELTS (ĐAI THANG)
Đai thang (hay còn gọi là đai V hoặc dây nêm) giải quyết vấn đề trượt và thẳng
hàng. Nó bây giờ là đai cơ bản (nhiều) để truyền năng lượng. Nó là sự kết hợp tốt
nhất của lực kéo, tốc độ chuyển động, tải của ổ bi và tuổi thọ lâu dài.
Đai chữ V được phát minh vào năm 1917 bởi John Gates của công ty Gates
Rubber.
Chúng không có điểm cuối, và mặt cắt ngang của chúng có dạng hình thang.
Hình dạng chữ V của dây đai ăn khớp hết rãnh của puli (con lăn), làm cho đai
không bao giờ trượt ra ngoài. Đai có xu hướng chèn vào rãnh vì vậy tải trọng tăngtải trọng càng lớn, việc chèn vào càng lớn, cải thiện truyền momen xoắn và làm
cho đai V là một giải pháp hiệu quả, cần chiều rộng và lực căng nhỏ hơn so với đai
dẹt.
Đai V chủ yếu hơn đai dẹt khi khoảng cách nhỏ và tỉ số truyền lớn. Khoảng cách 2
trục phải lớn hơn đường kính puli lớn, những nhỏ hơn 3 lần tổng 2 puli. Tốc độ tối
ưu phạm vi 1000-7000ft/min.
Đai V cần puli lớn cho chiều dày chúng lớn hơn đai dẹt. Chúng ta có thể cung cấp
chiều dài cố định khác nhau hoặc từng đoạn, nơi các đoạn được liên kết tạo thành
đai có chiều dài yêu cầu. Đối với năng lượng cao đòi hỏi yêu cầu 2 hoặc nhiều đai

V có thể sắp xếp nối với nhau được gọi là nhiều đai V chạy tương ứng trong nhiều
rãnh


Sức bền của những sợi dây đai thu được bằng tăng cường thêm bằng các sợi như
thép, nhựa, chất dẻo. Chúng được gọi là bộ truyền nhiều đai V. Đôi khi một đai dài
không phù hợp với nhu cầu, nối và liên kết đai V có thể được sử dụng. Tuy nhiên
nó yếu hơn và chỉ sử dụng cho tốc độ lên tới 4000ft/min. Một liên kết đai V là một
số liên kết vải cao su được nối với nhau bằng miếng Kim loại. Chúng điều chỉnh
chiều dài bằng cách tháo rời và vất đi các liên kết đó.

TIMING BELTS ( ĐAI ĐỊNH THỜI/ĐAI RĂNG)
Đai định thời, ( còn gọi như răng, rãnh, vấu hoặc đai đồng bộ) là đai truyền tích
cực và có thể theo dõi chuyển động tương đối. Đai này có răng ăn khớp phù hợp
với puli răng. Khi được căng chuẩn, chúng không bị trượt, tốc độ chạy không đổi,
và thường xuyên được sử dụng để truyền chuyển động thẳng cho phân độ hoặc
mục đích định thời. Chúng thường được sử dụng để thay thế cho xích hoặc bánh
răng, nhưng chúng ít ồn và không cần bể dầu bôi trơn. Trục khuỷu của xe máy, hệ
thống định thời nhỏ, và động cơ bước thường sử dụng loại đai này. Đai răng cần
lực căng ít nhất trong tất cả và hiệu suất cao nhất. Chúng có thể chịu tải lớn đến
200 hp (mã lực) (150kW) đến tốc độ 16000 ft/min.
Đai định thời có dạng răng nghiêng thiết kế có sẵn. Thiết kế răng nghiêng này nó
hình thành dạng gợn sóng vì vậy các răng ăn khớp theo từng bước (nấc). Thiết kế
kiểu chữ là sắp xếp tự lựa. Kiểu thiết kế chữ V không tạo ra tiếng ồn một số đai
định thời làm ở tốc độ riêng, và có hiệu suất truyền tải cao(lên đến 98%)
Nhược điểm bao gồm giá thành cao, cần chế tạo puli răng đặc biệt, bảo vệ kém
khi quá tải và mắc kẹt, và thiếu li hợp.

CHAIN DRIVE
- Bộ truyền xích là 1 cách của việc truyền tải năng lượng cơ khí từ 1 nơi đến nơi

khác. Nó thương được sử dụng để truyền năng lượng đến những bánh xe của
phương tiện giao thông, cụ thể là xe đạp và xe máy. Nó được sử dụng rộng rãi đa
dạng....


- Most often, năng lượng được truyền bởi chuỗi con lăn, biết như là chuỗi dẫn
hoặc chuỗi truyền, đi qua đĩa xích, với răng của đĩa xích ăn khớp với những cái lỗ
trong mối nối của chuỗi. Đĩa xích được quay, và điều đó kéo theo chuỗi đưa lực cơ
học vào hệ thống.
- Trượt có thể được ngăn chặn bằng cách sử dụng các chuỗi cái mà khóa vào răng
trên con lăn trụ tròn quay tương đương với với sự ăn khớp của 1 cặp br. Một bộ
truyền xích có mối liên hệ giống nhau cho tỷ số truyền như một chuỗi br đơn
giản. Xích cho phép một số của trục được điều khiển bởi 1 bánh xe và do đó có
nhiều ổ đĩa. Chúng ko như bộ truyền đai định thời nhưng có thể đc sử dụng cho
momen xoắn lớn.

CHAINS VERSUS BELTS
- Xích thường làm bằng kim loại, trong khi đai thường là cao su, nhựa, hoặc các
vật liệu khác. Mặc dù xích được sản xuất tốt có thể chứng tỏ nó mạnh hơn so với
đai, khối lượng lớn của chúng làm tăng quán tính.
- Đai có thể trượt (trừ khi chúng có răng) cái có nghĩa rằng đầu ra có thể ko quay ở
tốc độ chính xác, và tức là ma sát trong đai mất đi chống lại sự trượt của nó. Răng
trên bộ truyền đai răng nói chung mòn nhanh hơn liên kết trên xích, nhưng mòn
trên đai sau su hoặc đai nhựa và răng của chúng thường dễ khắc phục.
- Thông thường xích con lăn có khả năng chịu đựng đao động, nhưng bán kính
hoạt động hiệu quả trong xích và đĩa xích kết hợp ko biến thiên trong suốt vòng
quay. Nếu xích di chuyển với tốc độ hằng số, sau đó trục phải tăng tốc và giảm tốc
liên tốc. Nếu đĩa xích quay ở RPM ko đổi, sau đó xích (và có lẽ là bánh xích) phải
tăng tốc và giảm tốc liên tục. Điều này thường ko là vấn đề với nhiều hệ thống
truyền động, tuy nhiên hầu hết xe máy được trang bị một lớp cao su ở trung tâm

bánh xe nên loại bỏ hoàn toàn vấn đề rung động. Bộ truyền đai răng được thiết kế
để tránh vấn đề này khi quay với bán kính vòng chia không đổi.
- Xích thường hẹp hơn so với đai, và nó có thể chế tạo chúng dễ dàng để thay đổi
bánh răng lớn hoặc nhỏ để thay đổi tỉ số truyền. Xe đạp nhiều tốc độ với rẽ bánh
chế tạo sử dụng nó. Như thế, sự ăn khớp tích cực hơn của xích có thể xây dựng


bánh răng dễ dàng hơn làm tăng hoặc giảm đường kính, thay đổi tỉ số bánh răng
lần nữa.
- Cả hai có thể được sử dụng để di chuyển các đối tượng bằng cách gắn các túi, xô
hoặc khung cho chúng; chuỗi ổ đĩa thường được sử dụng để di chuyển mọi thứ
theo chiều dọc bằng cách giữ chúng trong khung, như trong lò nướng công
nghiệp, trong khi đai là tốt lúc di chuyển theo chiều ngang trong các hình thức của
băng tải. Nó không thường được sử dụng trong các hệ thống kết hợp, ví dụ các
con lăn trong các thiết bị chuyển tải bản thân chúng được thúc đẩy bởi các chuỗi ổ
đĩa.
- Trục truyền động là một phương pháp phổ biến khác được sử dụng để di
chuyển năng lượng cơ học xung quanh mà đôi khi được đánh giá so với ổ đĩa xích;
đặc biệt là ổ trục so với ổ đĩa xích là một quyết định thiết kế quan trọng cho hầu
hết các xe máy. Trục quay thậm chí còn cứng hơn và đáng tin cậy hơn xo với ổ đĩa
xích, nhưng cân nặng hơn( tốn nhiều năng lượng), và tác động moomen xoắn
quay. Hầu như tất cả các xe máy hiệu suất cao đều sử dụng ổ đĩa xích, với bố trí
trục định hướng thường được sử dụng cho nhiều máy không thể thao. Răng vành
đai ổ đĩa được sử dụng nhiều cho các xe máy có năng lượng thấp.



×