BẢNG SO SÁNH VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ
QUA TỪNG VÙNG CỦA NƯỚC TA
Mở đầu
Văn hóa các dân tộc thiểu số là di sản quý giá, góp phần làm nên sự phong phú,
đa dạng và thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa
của đồng bào các dân tộc nói chung là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược
đặc biệt quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền
vững đất nước. Không riêng gì những vùng lớn mới có những đặc trưng văn hóa
đẹp và đặc sắc, mà tất cả các cùng đều có những văn hóa mang nét riêng được
thể hiện qua nhiều dân tộc thiểu số sống ở vùng đó. Vậy những văn hóa các dân
tộc thiểu số này, giống nhau và khác nhau ở chổ nào, sau đây là bảng so sánh
qua từng vùng.
Vùng
Tiêu
chí
Ẩm
thực
Đông
Bắc
Tây Bắc
Bắc
Trung
Bộ
Miền
núi
ThanhNghệ
Mỗi địa
phương,
mỗi dân
tộc lại
có
những
nét độc
đáo
khác
nhau
trong
văn hóa
ẩm thực.
Bữa ăn
của cư
dân Việt
Bắc
mang
tính
bình
đẳng,
Đứng
hàng đầu
trong
danh
sách có
lẽ phải
kể đến
món
Chẳm
Chéo
của
người
Thái ờ
Tây Bắc.
Chẳm
Chéo
trong
tiếng
Thái có
nghĩa là
“thức
Người
Mường
thích ăn
các
món đồ
như xôi
đồ, cơm
tẻ đồ,
rau, cá
đồ.
Cơm,
rau đồ
chín
được dỡ
ra
rá
trải đều
cho
khỏi nát
trước
khi ăn.
Rượu
Người
Dao có
rất
nhiều
món ăn
nổi
tiếng
như:
+Xôi:
Giống
như
một số
tộc
người
anh
em,
người
Dao
cũng
thường
xuyên
1
Duyên
hải
Trung và
Nam
Trung
Bộ
Người
Chăm có
tập quán
ăn uống
theo
mùa, có
nghĩa là
“mùa
nào thức
ấy”. Họ
biết tận
dụng
nguồn
thức ăn
xung
quanh
khu vực
mình cư
trú, cùng
với
tri
thức
Trường
Sơn Tây
Nguyên
Nam Bộ
Sử dụng
nhiều đồ
nướng,
gia
vị
chủ yếu
là muối
và ớt. Về
đồ uống
thì chủ
yếu sử
dụng
rượu
cần.
Ví
dụ:
Các món
xôi hông
(adeep
ihoat),
xôi thui
ống, cơm
ống/lam
Cơ cấu
bữa
ăn
của người
Nam Bộ
cũng là
cơm, rau,
cá nhưng
có
sự
thay đổi
đó là họ
sử dụng
nhiều
nguồn
đạm thủy
sản hơn ở
những
vùng
khác. Các
món ăn
được chế
biến từ
nhân ái.
Tất cả
các
thành
viên
trong
nhà ăn
chung
một
mâm,
khách
đến nhà
rất được
ưu ái, nể
trọng.
-Lương
thực
chính
của cư
dân
vùng
Việt Bắc
là gạo tẻ
tuy
nhiên
các món
ăn làm
bằng
gạo nếp
cũng
được
chú
trọng,
ngô
được
chế biến
tinh tế.
Tiêu
biểu như
cốm hay
xôi ngũ
sắc.
+Cốm là
nét văn
hóa ẩm
thực đặc
sắc của
người
chấm
mang
mùi
thơm của
nhiều
rau kết
hợp lại”.
Chẳm
Chéo
được
làm từ
hạt mắc
khén, hạt
dổi cùng
một số
loại củ
quả gia
vị và rau
thơm.
Dưới
bàn tay
khéo léo
và kinh
nghiệm
truyền
lại
từ
nhiều
đời của
người
Thái,
Chẳm
Chéo trở
thành
một thức
chấm
không
thể thiếu
trong
những
bữa ăn
của
người
Thái
đồng
thời
cũng có
thể kết
hợp với
Cần của
người
Mường
nổi
tiếng
bởi
cách
chế
biến và
hương
vị đậm
đà của
men
được
đem ra
mời
khách
quý và
uống
trong
các
cuộc
vui tập
thể.
Phụ nữ
cũng
như
nam
giới
thích
hút
thuốc
lào
bằng
loại ống
điếu to.
Ðặc
biệt,
phụ nữ
còn có
phong
tục
nhiều
người
cùng
chuyền
nhau
hút
đồ xôi
để ăn
trong
những
ngày
Tết và
lễ như:
lễ vào
nhà
mới, lễ
cưới
hoặc
trong
những
ngày
gia
đình
nhờ
anh em
giúp
cây
ruộng,
gieo
trồng
ngô
lúa,
làm
chuồng
trại gia
súc.
Đặc
biệt,
trong
Tết
Thanh
minh
nhiều
nhà
còn đồ
xôi
nhiều
màu.
Ngoài
cơm và
xôi, đôi
khi
người
Dao
2
phong
phú về
cách chế
biến và
thưởng
thức nó.
Điều đó
cho thấy
thái độ
ứng xử
hài hòa
và
sự
thích
nghi
giữa con
người
với môi
trường
tự nhiên,
mà sâu
xa hơn,
đó còn là
triết
lí
âm
–
dương:
sự
hài
hòa âm –
dương
của thức
ăn với sự
quân
bình âm
– dương
trong cơ
thể và sự
cân bằng
âm
–
dương
giữa con
người
với môi
trường
tự nhiên.
Ví dụ, củ
gừng
(riya)
đứng
đầu
vị
(adeep
ihoor)…
phổ biến
trong các
lễ
hội
của
người Tà
ôi, Katu,
là món
đồng bào
thường
làm để
cúng
thần và
đãi
khách.
Cơm lam
Katu (avị
hâr/aví
hor/koo
đép)
được làm
từ
gạo
nếp và
“nướng”
trong
ống nứa
tươi,
trước khi
mang ra
đãi
khánh,
các ống
cơm lam
được chẻ
bỏ phần
cật cháy
đen bên
ngoài tạo
cảm giác
sạch sẽ.
Không
riêng gì
món cơm
lam, rất
nhiều
món ăn
của
thủy sản
cũng có
nhiều về
số lượng,
phong
phú
về
chất
lượng và
sử dụng
nguồn hải
sản cũng
nhiều hơn
so
với
Bắc Bộ.
Thiên
hướng
trong cơ
cấu bữa
ăn
của
người
Nam Bộ
là
nghiêng
về chọn
các món
có
tác
dụng giải
nhiệt.
Cách chế
biến món
ăn cũng
rất đơn
giản chứ
không
cầu
kỳ
phức tạp
như
ở
miền
Trung và
miền
Bắc. Về
đồ uống
thì họ đặc
biệt thích
sử dụng
dừa và đồ
uống từ
quả. Đặc
dân
vùng
cao mỗi
khi thu
về.
+Xôi
ngũ sắcMón ăn
đặc
trưng
cho văn
hóa của
đồng
bào dân
tộc vùng
cao
-Văn
hóa ẩm
thực
Cao
Bằng:
+Bánh
khẩu sli
chế biến
từ gạo
nếp, lạc,
đường
mật và
được
sản xuất
theo
phương
pháp thủ
công với
các công
đoạn: đồ
xôi,
phơi,
giã, sấy,
sàng,
rang....
bánh có
mùi vị
rất đặc
trưng,
thơm,
ngon và
bổ
các thức
ăn khác
với
tư
cách như
một thứ
gia
vị
đặc thù
mang vị
cay nồng
và
hương
thơm các
loài rau
rừng.
Người
miền
xuôi
thậm chí
còn nhắc
tới Chẳm
Chéo
như một
“huyền
thoại”
của Tây
Bắc.
-Sâu chít
Điện
Biên:
Gọi tên
là
sâu
chít vì
loài sâu
này sinh
sống
trong
thân cây
Chít.
Người
Tây Bắc
chẻ đôi
thân cây
Chít để
bắt
những
con sâu
về làm
thức ăn.
chung
một
điếu
thuốc.
-Người
BruVân
Kiều ăn
cơm tẻ,
canh
rau nấu
lẫn với
gạo
thường
ngày,
thích
các
món
nướng;
quen ăn
bốc,
uống
nước lã,
rượu
cần, hút
thuốc lá
bằng
tẩu.
cũng
ăn
cháo,
ăn các
loại củ
tự gieo
trồng
hoặc
tìm
kiếm
từ
trong
rừng.
+Quà
bánh:
Các
loại
quà
bánh
của
người
Dao
cũng
khá đa
dạng
như:
bánh
chưng,
bánh
dầy,
bánh
rán,
bánh
giò,
bánh
trôi,
bánh
chay,
bánh
đúc,
bánh
sừng
bò...
-Thức
ăn chủ
yếu là
các
loại rau
3
nhiệt
mang
tính
dương,
có
tác
dụng
làm
thanh
hàn, giải
cảm, cho
nên được
dùng
làm gia
vị
đi
kèm với
các thực
phẩm có
tính hàn
mang
tính âm.
Trái ớt
(abaoh
mraih)
cũng
thuộc
loại
nhiệt
(tính
dương),
cho nên
được
dùng
nhiều
trong các
loại thức
ăn thủy
sản như
cá, tôm,
cua,
mắm,
gỏi… là
những
thứ vừa
hàn, bình
lại
có
mùi
tanh.
Còn lá
người Tà
ôi được
nướng
như các
loại
bánh,
phản ánh
tập quán
ăn uống
của tộc
người.
Thịt
nướng
hoặc thui
là món
ăn thông
dụng và
ưa thích
của đồng
bào, từ
các con
vật nhỏ
tới lớn,
bởi
sự
linh
động
trong
môi
trường đi
rừng,
cũng như
tập quán
không
dùng
xoong
nồi. Từ
nhiều
cách chế
biến,
đồng bào
đã làm ra
nhiều
món thịt
nướng
khác
nhau như
nướng
biệt trà ở
Nam Bộ
thì dùng
để
giải
khát chứ
không để
thưởng
thức như
ở Bắc Bộ.
dưỡng.
+Bánh
Trứng
kiến
(tiếng
Tày gọi
là pẻng
rày)
được
làm từ
bột nếp,
trứng
kiến đen
cùng lá
non của
cây vả.
Bánh
trứng
kiến ăn
dẻo,
thơm
mùi lá
vả, béo
và ngậy
mùi
trứng
kiến
+Nằm
khâu là
món ăn
trong cỗ
cưới của
người
Tày ở
Cao
Bằng.
Nguyên
liệu làm
từ thịt
ba chỉ
rán và
khoai
sọ,
mang vị
ngọt béo
khó
quên.
-Khi nói
Sâu chít
được
ngâm
với rượu
nhạt sau
đó tiếp
tục ngâm
rượu
hoặc nấu
cháo.
Đây là
một loại
thực
phẩm rất
được ưa
chuộng
và tiêu
thụ
nhiều ở
miều
xuôi do
vị thơm
ngon
cũng như
hàm
lượng
dinh
dưỡng
dồi dào
mà
nó
đem lại.
-Món ăn
Măng
nộm Hoa
ban Lai
Châu
gắn với
một
truyền
thuyết có
tên Hoa
ban
–
măng
đắng kể
về mối
tình
ngang
trái của
rừng và
rau tự
trồng.
-Lương
thực
chính
là gạo,
bao
gồm cả
gạo tẻ
và gạo
nếp.
Sau
gạo,
nguồn
lương
thực
quan
trọng
thứ hai
là ngô.
Ngô
thường
được
xay
thành
bột để
nấu
cháo
đặc.
Ngoài
ra, khi
thiếu
đói họ
còn tìm
các
loại củ
như củ
mài, củ
bấu
hoặc
các
loại bột
như
bột
đao,
bột
báng
4
lốt thuộc
loại hàn
(tính âm)
để dùng
kèm theo
với các
thực
phẩm có
vị nhiệt
(tính
dương)
…
-Người
Chăm
quan
niệm
bệnh tật
phát sinh
do
sự
mất quân
bình âm
dương
cho nên
họ còn
sử dụng
những
thức ăn
như
những vị
thuốc để
trị bệnh.
Ví dụ,
đau bụng
nhiệt
(tính
dương)
thì cần
ăn
những
thứ hàn
(tính âm)
như chè
đậu đen
(abu
ratak
juk)
mang
tính âm;
tươi,
nướng
khô,
nướng
trực tiếp,
nướng
bằng ống
tre,...
Điều này
đã mang
lại
sự
khác biệt
từ cùng
một
nguyên
liệu
là
thịt
(pr’hâr)
và
cá
(koo
gdhoong
),
hay
thú rừng
săn được
như nai,
nhím,
lợn rừng,
khỉ và cả
các loài
như
A
đút (con
nhái),
Xoong
đồng
(con
chuột), A
chim
(chim)...
Ngoài
cách
nướng
thông
thường,
còn có
kỹ thuật
nướng
xiên, mà
đặc sản
về các
sản vật
quý của
Cao
Bằng ai
cũng
nhớ đến
Hạt dẻ
Trùng
Khánh,
đó là thứ
qủa
ở
Việt
Nam
duy nhất
chỉ có ở
Cao
Bằng.
-Văn
hóa ẩm
thực
Bắc
Kạn:
+Bánh
dày là
loại
bánh
truyền
thống,
đặc sản
của
vùng
quê Bắc
Kạn.
-Cơm
lam
được
làm từ
gạo
(thường
là gạo
nếp)
cùng
một số
nguyên
liệu
khác,
cho vào
chàng
Khôm
xuất thân
nghèo
khó và
nàng
Ban thùy
mị nết na
lại
có
giọng
hát hay
nhất
vùng.
Măng
nộm hoa
ban có
đủ
vị:
đắng,
chua,
cay,
mặn,
ngọt,
bùi. Tình
yêu của
đôi trai
gái kia,
cũng có
đủ khổ
đau,
hạnh
phúc và
đơm kết.
-Tiếp
theo là
món
Nậm Pia
Sơn La.
Nậm Pia
được
biết đến
như một
món ăn
lạ lẫm về
nguyên
liệu cũng
như cách
nấu,
đồng
để chế
biến đồ
ăn.
-Cuộc
sống
của
người
Tày
thường
gắn bó
với
thiên
nhiên,
do đó,
nguồn
lương
thực,
thực
phẩm
chính
của
người
Tày là
những
sản
phẩm
thu
được
từ hoạt
động
sản
xuất ở
vùng
có
rừng,
sông,
suối,
đồi núi
bao
quanh.
Một số
món ăn
nổi
tiếng
là: Xôi
trứng
kiến,
xôi ngũ
5
đau bụng
hàn (tính
âm) thì
dùng các
thứ nhiệt
(tính
dương)
như
gừng
(riya).
Đặc biệt
ở
tộc
người
Chăm
còn có
món
cháo
chua
(abu
litham)
rất đặc
trưng,
mang
tính âm
có
tác
dụng
giải
nhiệt cho
cơ thể và
được
nhiều
người ưa
chuộng,
nhất là
người
già, bởi
vì nó rất
tốt cho
đường
ruột,
-Thông
qua các
món ăn,
cách
thức chế
biến
món ăn,
chúng ta
là món
Lap (thịt
trâu
nướng
xiên).
Đặc biệt,
món
nướng
trong
ống có
hương vị
hấp dẫn,
nhất là
bộ lòng
trâu, bò,
heo, dê
làm sạch
cho vào
ống nấu,
thịt cứng
săn lại,
khô,
thơm
ngào
ngạt.
Thịt
xông
khói là
món ăn
bắt
nguồn từ
kinh
nghiệm
và
sự
ứng phó
của đồng
bào
trong
cách dự
trữ
nguồn
thực
phẩm lâu
dài, cho
mùa
đông hay
lúc đói
kém.
ống tre,
giang,
nứa v.v.
và
nướng
chín trên
lửa.
-Gạo
bao thai
Chợ
Đồnmột loại
đặc sản
mà thiên
nhiên ưu
ái ban
tặng cho
vùng đất
chiến
khu xưa.
-Măng
ớt – Đặc
sản
hương
rừng
Bắc Kạn
-Văn
hóa ẩm
thực
Lạng
Sơn:
+Vịt
quay
Thất
Khê
+Lợn
quay xứ
Lạng
+Rượu
Mẫu
Sơn
-Văn
hóa ẩm
thực
Thái
Nguyên:
+Chè
Tân
thời
cũng rất
kén
người
ăn. Đến
Sơn La,
nhất
định bạn
phải ăn
thử món
ăn đặc
biệt này.
-Cơm
Lam
Hòa
Bình
:
Cơm
Lam là
loại cơm
đặc sản
của đồng
bào miền
cao. Trở
thành
một món
ăn không
thể quên
khi đến
với Hòa
Bình –
Tây Bắc.
sắc,
măng
chua,
nhộng
ong
đất,
khâu
nhục,
lạp
xưởng,
thịt lợn
hong
khô,
trám
đen,
cơm
lam,
lợn vịt
quay,
coóng
phù
(trôi
tàu).
6
còn biết
được
cách ăn
uống của
người
Chăm
mang
tính tổng
hợp cao.
Bắt đầu
từ khâu
chế biến
các món
ăn cũng
đã có sự
pha chế
tổng hợp
như họ
biết kết
hợp các
loại rau
khác
nhau, rau
xanh với
các gia
vị, rau
quả
đi
với các
loại cá,
tôm, thịt,
…
Từ
cách chế
biến
tổng hợp
các
nguyên
liệu
người
Chăm đã
tạo nên
các món
ăn
đủ
chất dinh
dưỡng
bao hàm
các
lượng
đạm, độ
Zờ rá là
món ăn
được ưa
thích
nhất của
đồng
bào. Đây
là món
ăn thập
cẩm, là
một
phương
pháp giải
quyết
thức ăn
khá sáng
tạo trong
điều kiện
mỗi thứ
kiếm
được
một ít,
không
thể
đủ
nấu
thành
một món
ăn cho
một gia
đình
đông
người.
Zờ rá là
tên gọi
của một
món ăn
được làm
hỗn hợp
nhiều
nguyên
liệu khác
nhau,
gồm
động vật
(cá, thịt,
lòng gà,
vịt, ruột
cá), thực
+Cương
hội tụ
tinh hoa
đất trời món quà
thiên
nhiên ưu
ái ban
tặng
Thái
Nguyên
+Bánh
chưng
Bờ Đậuđặc sản
Phú
Lương
+Bánh
cooc mò
(sừng
bò) dân
tộc Tày,
Nùng
+Gạo
bao thai
Định
Hóa
-Văn
hóa ẩm
thực
Tuyên
Quang:
+Thịt
lợn, thịt
trâu gác
bếp của
người
Tày
+Mắm
cá ruộng
Chiêm
Hóa vừa
là món
ăn
truyền
thống,
vừa là
một vị
béo, có
chất tinh
bột, có
chất
muối
khoáng,
lượng
nước…
Ngoài
những
giá trị về
dinh
dưỡng
các món
ăn còn
tạo nên
một
hương vị
độc đáo
ngon
miệng,
nó làm
cho con
người có
một cảm
giác
ngon
miệng
khi ăn,
ngon
mắt khi
nhìn,
ngon
mũi khi
ngửi,
ngon tai
khi nghe.
Qua văn
hóa ẩm
thực,
thông
qua tính
tổng hợp
của các
món ăn,
nó còn
thể hiện
tính
7
vật (nấm,
rau rừng,
sắn, bắp
chuối,
mùng)
và
các
loại gia
vị
(ớt,
tiêu, mùi
tàu, củ
kiệu)…
thuốc
hiệu
nghiệm.
+Cam
sành
Hàm
Yên
-Văn
hóa ẩm
thực Hà
Giang:
-Thịt bò
khô
Cao
nguyên
đá Đồng
Văn
+Lạp
xưởng
gác bếp
+Bánh
tam giác
mạch
+Thắng
dền
cộng
đồng rất
cao, vì
người
Chăm
sống tập
trung
thành
các palei
(làng),
còn các
gia đình
thì sống
theo đại
gia đình
nên
thường
ăn
chung,
đây
là
mối liên
hệ
cố
kết, tạo
nên tình
cảm thân
thiết
giữa các
thành
viên
trong gia
đình.
Ngoài ra
còn có
các loại
đồ uống,
hút
truyền
thống
như là
trầu cau
(hala
panâng),
thuốc lá
(pakaw),
rượu
(alak),
aia tapai
(rượu
8
Trang
phục
Mỗi dân
tộc có
một
trang
phục
truyền
thống
khác
nhau.
Đó
chính là
nét đẹp
trong
bản sắc
văn hóa
Việt
Nam.
Ở vùng
Việt
Bắc,
phần
đông
dân cư
là người
Tày và
người
Nùng.
Vùng
núi cao
có người
Hmông,
người
Hà Nhì,
người
Lô Lô,
người
Dao,…
ngoài ra
còn có
người
Mường,
dân tộc
Mán
(
Sán
-Nét
chung
nữa
trong
văn hóa
Tây Bắc
là
sở
thích
trang trí
trang
phục,
chăn
màn, đồ
dùng với
các sắc
độ của
gam màu
nóng ;
rất nhiều
màu đỏ,
xen vào
với vàng
tươi,
vàng đất,
vàng
rơm, rồi
da cam,
tím và
nếu có
xanh thì
phải là
xanh da
trời tươi
Phải
chăng
giữa
mênh
mông
xanh lá
cây,
những
màu ánh
lên như
những
-Người
mường
Nam
mặc áo
cánh xẻ
ngực,
cổ tròn,
cúc
sừng
vai, hai
túi dưới
hoặc
thêm túi
trên
ngực
trái.
Đây là
loại áo
cánh
ngắn
phủ kín
mông.
Đầu cắt
tóc
ngắn
hoặc
quấn
khăn
trắng.
Quần lá
tọa ống
rộng
dùng
khăn
thắt
giữa
bụng
còn gọi
là khăn
quần.
Xưa có
tục để
tóc dài
búi tóc.
-Về
trang
phục
truyền
thống
của
đàn
ông
người
Dao
Thanh
Y và
Dao
Thanh
Phán
không
khác
nhau là
mấy.
Họ có
hai loại
áo. Áo
ngắn
có thể
là áo
cánh,
áo
5
thân
được
nhuộm
màu
nâu
hoặc
màu
chàm.
Áo
ngắn
mặc
trong
sinh
hoạt
thường
nhật;
còn áo
9
nếp),
nước trà
(aia
caiy)…
-Người
chăm
sống ở
đây,
+trang
phục
nam:
trang
phục của
họ
là,
Trang
phục cổ
truyền:
Đàn ông
lớn tuổi
thường
để
tóc
dài, quấn
khăn. Đó
là
loại
khăn
màu
trắng có
dệt thêu
hoa văn
màu nhạt
(vàng
hoặc
bạc), ở
hai đầu
khăn có
các tua
vải.
Khăn đội
theo lối
chữ
nhân.
Những
vị
có
chức sắc
(tôn
giáo),
hai đầu
khăn có
Người
dân vùng
Trường
Sơn
–
Tây
Nguyên
vẫn còn
giữ được
trang
phục cổ
sơ của
người
dân
Đông
Nam Á
cổ
đại
mà ngày
nay
không
tìm thấy
ở những
vùng văn
hóa
khác. Đó
là
loại
hình
trang
phục
kiểu
choàng
quấn.
Nam
:
đóng
khố, mặc
áo, quấn
khăn có
gài lông
chim quý
nhiều
màu Nữ:
mặc váy
có nhiều
hoa văn.
Ví
dụ:
Do đặc
điểm về
thời tiết,
địa hình
và
phương
thức canh
tác nông
nghiệp
mà người
dân nơi
đây
đã
chọn cho
mình
những bộ
trang
phục phù
hợp,
mang
tính đặc
trưng. Về
gam màu
cũng như
miên Bắc
họ chọn
những
gam màu
tối như
đen, nâu
sậm,
ít
khi mặc
màu sáng
trừ khi có
lễ
hội,
đám tiệc.
Trang
phục phổ
biến nơi
đây
là
chiếc áo
bà ba và
chiếc
khăn rằn,
dường
Chay,
Sán
Dìu..).
Trang
phục
của
người
Tày có
tính
thống
nhất,
được
phân
biệt theo
giới
tính, địa
vị, lứa
tuổi,
theo
nhóm
địa
phương.
Y phục
của nam
giới Tày
theo một
kiểu
gồm có
Áo cánh
4 thân,
áo dài 5
thân,
khăn đội
đầu và
giày vải.
Chiếc áo
4 thân
được cắt
may
theo
kiểu xẻ
ngực, cổ
áo tròn,
cao,
không
có cầu
vai, tà
áo
xẻ
điểm
sáng,
khẳng
định sự
có mặt
của con
người ?
Còn họa
tiết, bố
cục, phối
màu của
trang trí
thì
rất
nhiều và
phong
phú, đến
nỗi chỉ
một
chiếc
khăn
piêu
Thái,
một bộ
nữ phục
H'mông,
Lô Lô,
Dao đỏ,
một mặt
chăn
Mường,
một
điểm
màn
Kháng
cũng đủ
tầm cỡ
để phải
làm
riêng
một
chuyên
khảo. ..
Trong
lễ hội
dùng áo
lụa tím
hoặc tơ
vàng,
khăn
màu tím
than,
ngoài
khoác
đôi áo
chúng
đen dài
tới gối,
cái cúc
nách và
sườn
phải.
-Bộ y
phục nữ
đa dạng
hơn
nam
giới và
còn giữ
được
nét độc
đáo.
Khăn
đội đầu
là một
mảnh
vải
trắng
hình
chữ
nhật
không
thêu
thùa,
yếm, áo
cánh
(phổ
biến là
màu
trắng)
thân rất
dài
(thườn
g
không
khác
mấy so
với áo
dài đàn
ông
người
Kinh)
là để
mặc
khi đi
chợ
phiên,
lễ hội
v.v..
Riêng
áo
ngắn
của
đàn
ông
người
Dao
Quảng
Ninh
thì may
theo lối
của
người
Hoa,
với cổ
áo cao,
nẹp
ngực
to, đính
nhiều
khuy
được
tết
bằng
vải
hoặc
khuy
đồng.
Đàn
10
hoa văn
màu
vàng, tua
vải màu
đỏ, quấn
thả ra hai
mang tai.
Nam
mặc áo
có cánh
xếp chéo
và
cài
dây phía
bên hông
(thắt
lưng),
thường
là
áo
màu
trắng,
trong là
quần
soọc,
ngoài
quấn váy
xếp.
+ Trang
phục nữ:
Về
cơ
bản, phụ
nữ các
nhóm
Chăm
thường
đội khăn.
Cách
hoặc là
phủ trên
mái tóc
hoặc
quấn gọn
trên đầu,
hoặc
quấn
theo lối
chữ
nhân,
hoặc với
Trang
phục của
người
Xơ Đăng
chủ đạo
là màu
đen
chàm,
trang trí
bằng các
hoa văn
màu,
trắng,
đỏ.
Trang
phục của
đồng bào
Ba Na là
màu
chàm
xanh,
trang trí
nhiều
văn hoa
đẹp.
Trang
phục của
người
Giẻ
Triêng là
màu đen,
xanh
trang trí
bằng các
chỉ màu
vàng,
trắng,
đỏ.
Trang
phục của
đồng bào
Gia Rai
chủ đạo
là màu
trắng
hoặc
màu
chàm.
như nó đã
trở thành
nét đặc
trưng cơ
bản
không thể
lẫn được
với các
vùng
miền
khác. Và
mỗi vàng
miền, dân
tộc
lại
chọn cho
mình
những
màu sắc
khác
nhau sao
cho phù
hợp với
tôn giáo,
tín
ngưỡng
của họ.
Như là:
Người
Khơme:
Chiếc sà
rông của
người
Khơme
ngày
chàng ít
thấy trừ
trong
ngày cưới
vì đó là
trang
phục bắt
buộc của
chú
rể.
Thường
ngày nam
cũng như
nữ
đều
mặc bà
cao, có
hàng
cúc vải
ở trước
ngực và
hai túi.
Quần
của nam
giới
được
may
theo
kiểu
đũng
chéo, cả
quân lẫn
áo của
nam
giới Tày
được
may
bằng vải
chàm.
Về đồ
trang
sức, họ
ít dùng
đồ trang
sức. Vìu
vậy,
trang
phục
của đàn
ông Tày
khá giản
dị,
không
có
sự
trang trí
bằng
hoa văn.
Giữa
nam
giới Tày
và Nùng
chỉ khác
nhau đôi
chút về
ngắn
thường
xẻ
ở
ngực và
váy dài
đến mắt
cá chân
gồm hai
phần
chính là
thân
váy và
cạp váy.
Cạp váy
nổi
tiếng
bởi các
hoa văn
được
dệt kỳ
công.
Trang
sức
gồm
vòng
tay,
chuỗi
hạt và
bộ xà
tích 2
hoặc 4
giây
bạc có
treo hộp
quả đào
và
móng
vuốt hổ,
gấu bịt
bạc.
-Áo
mặc
thường
ngày có
tên là
áo pắn
(áo
ngắn).
ông
người
Dao
xưa
cũng
dùng
đồ
trang
sức
bằng
bạc
hoặc
đồng
để đeo
tay,
đeo cổ.
Một số
người
để tóc
búi tó
quấn
lên
bằng
miếng
vải
màu
chàm.
-Đối
với phụ
nữ,
trang
phục
phong
phú,
sặc sỡ
và
nhiều
hoa
văn
hơn.
Phụ nữ
Dao
Thanh
Y để
tóc dài
rẽ ngôi,
quấn
sau gáy
11
loại khăn
to quấn
lên đầu,
khăn đội
đầu chủ
yếu
là
màu
trắng, có
loại
được
trang trí
hoa văn
theo lối
viền các
mép
khăn
(khăn
to),
nhóm
Chăm
Hroi thì
đội khăn
màu
chàm. Lễ
phục
thường
có chiếc
khăn vắt
vai ngoài
chiếc áo
dài màu
trắng.
Đó
là
chiếc
khăn dài
tới 23 m
vắt qua
vai chéo
xuống
hông,
được dệt
thêu hoa
văn cẩn
thận với
các màu
đỏ,
trắng,
vàng của
Trang
phục của
người
Rơ
Măm,
hầu như
không
nhuộm
màu…
Theo tập
quán, cả
nam giới
và phụ
nữ các
dân tộc
đều thích
dùng đồ
trang
sức. Phụ
nữ thích
đeo các
đôi bông
tai lớn
bằng ngà
voi,
đồng,
nhôm,
nứa.
Những
chuỗi hạt
cườm ở
cổ,
những
vòng
xoắn dài
bằng
đồng.
Nam giới
thích đeo
những
chuỗi hạt
nhiều
vòng,
những
vòng tay
có
gai
lớn bằng
đồng…
ba đen và
quấn
khăn rằn.
Trong dịp
lễ tết họ
mặc áo
bà
ba
trắng
,
quần đen
(hoặc áo
đen,
quàng
khăn
quàng
trắng
chéo,
ngang
hông vắt
lên
vai
trái.
Trong
đám cưới
chú
rể
thường
mặc bộ “
xà rông “
(hôl) và
áo ngắn
bỏ ngoài
màu đỏ .
Đây là áo
ngắn sẻ
ngực cổ
đứng
ngoài
cúc,
quàng
khăn
trắng vắt
qua vai
trái
và
đeo thêm
“con dao
dưới”
(
kầm
pách) với
ý nghĩa
bảo vệ cô
kích
thước
trong
trang
phục.
Trong
khi đó,
trang
phục
của nữ
giới lại
đa dạng
và
phong
phú.
Y phục
của nữ
giới lại
đa dạng
và
phong
phú hơn.
Người
phụ nữ
Nùng
chỉ mặc
một màu
chàm,
khác với
người
phụ nữ
Tay mặc
chiếc áo
lót trong
màu
trắng. Y
phục
của phụ
nữ TàyNùng
gồm áo
cánh, áo
dài
5
thân,
quần,
thắt
lưng,
khăn đội
Đây là
loại áo
cánh
ngắn,
xẻ
ngực,
thân
ngắn
hơn so
với áo
cánh
người
Kinh,
ống tay
dài, áo
màu
nâu
hoặc
trắng
(về sau
có thêm
các màu
khác
không
phải
loại vải
cổ
truyền).
Bên
trong là
loại áo
báng,
cùng
với đầu
váy nổi
lên giữa
hai vạt
áo
ngắn.
Đầu
thường
đội
khăn
trắng,
xanh
với
phong
cách
và
quanh
đầu,
vuốt
ngược
lên
thành
búi.
Các
búi lại
cột
chặt
với
nhau
bằng
dây
gai.
Hằng
ngày
họ đội
một cái
mũ làm
bằng
xơ
mướp,
quấn
chỉ
đen, có
gắn
ngôi
sao và
những
hàng
khuy
bằng
bạc.
Họ
mặc áo
màu
chàm,
áo dài,
ống tay
rộng.
Cổ áo
thấp có
thêu
chữ
Vạn
12
các mô
tip trong
bố cục
của dải
băng.
Nữ mặc
áo
cổ
tròn cài
nút phía
trước
ngực
xuống
đến
bụng,
quấn váy
xếp (khi
làm lễ)
hoặc
mặc váy
ống
(thông
thường),
đầu quấn
khăn
không
ràng
buộc về
màu sắc.
Phụ nữ
Chăm ở
Châu
Đốc dệt
vải theo
phương
pháp
truyền
thống
Nhóm
Khánh
Hòa và
một số
nơi, phụ
nữ mặc
quần bên
trong áo
dài.
Nhóm
Chăm
dâu
Thanh
niên hiện
nay khi ở
nhà
không
mặc áo
và quấn
chiếc “xà
rông” kẻ
sọc...
Trang
phục
Chăm, vì
có nhóm
cơ bản là
theo đạo
Hồi nên
cả nam
và nữ lễ
phục
thiên về
màu
trắng. Có
thể thấy
đặc điểm
trang
phục là
lối
tạo
hình áo
(khá điển
hình) là
lối khoét
cổ và can
thân và
nách từ
một
miếng vải
khổ hẹp
(hoặc can
với
áo
dài)
thẳng ở
giữa làm
trung tâm
áo cho cả
áo ngắn
và áo dài.
đầu, hài
vải. Đồ
trang
sức
cũng
đơn
giản:
vòng cổ,
vòng
tay,
vòng
chân, xà
tích
bằng
bạc.
Chiếc
khăn
của phụ
nữ Tày
là khăn
vuông.
Phụ nữ
Nùng có
khác đôi
chút là
họ
thường
bịt răng
vàng, ưa
thích đồ
trang
sức bạc
như
vòng
chân,
vòng
tay,
khuyên
tai, hoa
tai,…
không
cầu kỳ
như một
số tộc
người
khác.
Váy là
loại váy
kín màu
đen.
Toàn bộ
phận
được
trang trí
là đầu
váy và
cạp váy,
khi mặc
mảng
hoa văn
nổi lên
giữa
trung
tâm cơ
thể.
-Người
Bru vân
kiều:
Nam
giới
BruVân
Kiều để
tóc dài,
búi tóc,
ở trần,
đóng
khố.
Trước
đây, họ
thường
lấy vỏ
cây sui
làm
khố, áo.
Phụ nữ
BruVân
bằng
tiếng
Hán.
Hai
thân
trước
may so
le
nhau.
Phụ nữ
Dao
Thanh
Y mặc
quần
cộc,
chỉ dài
tới
ngang
đùi,
ống hơi
hẹp,
dưới
gấu
không
thêu.
-Người
Tày
mặc
các bộ
trang
phục
có màu
chàm.
Trang
phục
cổ
truyền
của
người
Tày
được
làm từ
vải sợi
bông
tự dệt,
được
nhuộm
chàm
13
Hroi
mặc váy
quấn
(hở) có
miếng
đáp sau
váy.
Nhóm
Quảng
Ngãi
mặc áo
cánh xẻ
ngực, cổ
đeo vòng
và các
chuỗi hạt
cườm.
Trang
phục
Chăm, vì
có nhóm
cơ bản là
theo đạo
Hồi nên
cả nam
và nữ lễ
phục
thiên về
màu
trắng. Có
thể thấy
đặc điểm
trang
phục là
lối tạo
hình áo
(khá
điển
hình) là
lối khoét
cổ
và
can thân
và nách
từ một
miếng
vải khổ
hẹp
Mặt khác
có
thể
thấy
ở
đây duy
nhất
là
dân tộc
còn thấy
nam giới
mặc váy
ở
Việt
Nam với
lối mang
trang
phục và
phong
cách
thẩm mỹ
riêng.
Trang
phục
Người
Xtieng
(Xa
Điêng) :
Trang
phục : Nữ
mặc váy,
nam đóng
khố. Mùa
đông
choàng
thêm tấm
vải. Họ
để tóc dài
búi sau
gáy, tai
xâu
lỗ,
xăm mặt,
xăm
mình.
Ðeo
nhiều loại
trang sức
làm bằng
gỗ hoặc
ngà voi.
Người
Chơ Ro
Kiều
mặc áo
và váy.
Áo nữ
có đặc
điểm xẻ
ngực
màu
chàm
đen và
hàng
kim loại
bạc tròn
đính ở
mép cổ
và hai
bên nẹp
áo. Có
nhóm
mặc áo
chui
đầu,
không
tay, cổ
khoét
hình
tròn
hoặc
hình
vuông.
Váy
trang trí
theo các
mảng
lớn
trong
bố cục
dải
ngang.
Gái
chưa
chồng
búi tóc
về bên
trái, sau
khi lấy
chồng
búi tóc
đồng
nhất
trên
trang
phục
nam và
nữ, hầu
như
không
có hoa
văn
trang
trí. Phụ
kiện
trang
trí là
các đồ
trang
sức
làm từ
bạc và
đồng
như
khuyên
tai,
kiềng,
lắc tay,
xà
tích,....
Ngoài
ra còn
có thắt
lưng,
giày
vải có
quai,
khăn
vấn và
khăn
mỏ quạ
màu
chàm
đồng
nhất.
14
(hoặc
can với
áo dài)
thẳng ở
giữa làm
trung
tâm áo
cho cả
áo ngắn
và
áo
dài. Mặt
khác có
thể thấy
ở
đây
duy nhất
là
tộc
còn thấy
nam giới
mặc váy
ở nước
ta với lối
mang
trang
phục và
phong
cách
thẩm mỹ
riêng.
(Châu
Ro, Đơ
Ro) mặc
như
người
Kinh
trong
vùng. Nữ
thích đeo
các vòng
đồng,
bạc, dây
cườm...
trên
đỉnh
đầu.
Trước
đây phụ
nữ BruVân
Kiều ở
trần,
mặc
váy.
Váy
trước
đây
không
dài
thường
qua gối
20 đến
25 cm.
Có
nhóm
nữ BruVân
Kiều
đội
khăn
bằng
vải
quấn
thành
nhiều
vòng
trên đầu
rồi thả
sau gáy,
cổ đeo
hạt
cườm,
mặc áo
cánh xẻ
ngực,
dài tay
màu
chàm
cổ và
hai nẹp
trước áo
15
Kiến
trúc
nhà ở
Đồng
bào các
dân tộc
Tày,
Nùng có
ngôi nhà
sàn. Nhà
sàn là
kiểu nhà
truyền
thống,
độc đáo
và giản
dị
nhưng
rất phổ
biến của
người
Tày,
Nùng
các tỉnh
-Nhà ở
của các
tộc
người
Thái,
Lào,
Mường,
Khơmú,
Xinhmu
n,
Kháng,
Cống
đều bằng
nhà sàn.
Với
người
Hmông,
Dao lại ở
nhà trệt,
mái thấp,
tường
có đính
các
"đồng
tiền"
bạc nhỏ
màu
sáng,
nổi bật
trên nền
chàm
đen tạo
nên một
cá tính
về
phong
cách
thẩm
mỹ
riêng
trong
diện
mạo
trang
phục
các dân
tộc Việt
Nam.
Người
Mường
sống
trong
những
ngôi
nhà sàn
truyền
thống,
kiểu
nhà bốn
mái.
Phần
trên sàn
người
ở, dưới
gầm đặt
chuồng
gia súc,
gia
cầm, để
Nhà
sàn là
kiểu
đặc
trưng
vùng
rừng
núi để
chống
thú dữ,
rắn rết.
Mát về
mùa hè
và ấm
về mùa
đông
và nhà
nửa
sàn
nửa đất
.
16
Nhà
ở
của
người
Chăm là
một
quần thể
nhà
trong
một
khuôn
viên
(bây giờ
do việc
quy
hoạch
phân lô
đất theo
kiểu nhà
liên kế
hẹp nên
việc phát
Cũng
giống
như các
vùng văn
hóa khác
người
dân nơi
đây cũng
sinh
sống tập
trung
trong các
buôn,
plây.
Kiến trúc
nhà
ở
chủ yếu
là
nhà
sàn, nhà
dài… vật
liệu làm
Nhà
ở
của người
Việt Nam
Bộ có 3
loại chính
đó là: nhà
đất
cất
dọc theo
ven
lộ,
nhà sàn
cất dọc
theo ven
kênh rạch
và
nhà
nổi trên
sông
nước.
Khác biệt
hẳn với
nhà của
vùng Bắc
Lạng
trình.
Sơn,
Cao
Bằng,
Bắc
Cạn...
Có hai
kiểu nhà
sàn:
kiểu nhà
sàn bốn
mái (tứ
thiết) và
kiểu nhà
sàn hai
mái.
Nhà
đất:
Loại nhà
xuất
hiện
nhiều,
về qui
mô, kết
cấu, bố
cục có
nhiều
thay đổi
so với
nhà sàn.
cối giã
gạo, các
công cụ
sản xuất
khác..
- Theo
quan
niệm
của
người
Mường,
làm nhà
không
được
ngược
hướng
với đồi
núi,
chính vì
vậy, bề
ngoài,
nhà của
người
Mường
có vẻ
không
theo
một quy
luật
nào.
Nhà
dựng ở
đồi gò
thì lưng
dựa vào
đồi gò,
cửa
hướng
ra
khoảng
không
thung
lũng,
cánh
đồng
trước
mặt.
Nhà
Những
nhà
truyền
thống
thường
là nhà
sàn,
nhà đất
mái lợp
cỏ
gianh
và một
số
vùng
giáp
biên
giới có
loại
nhà
phòng
thủ.
Trong
nhà
phân
biệt
phòng
nam ở
ngoài,
nữ
ở
trong
buồng.
Phổ
biến là
loại
nhà đất
3 gian,
2 mái
(không
có
chái),
tường
trình
đất
hoặc
thưng
phên
nứa, gỗ
17
triển nhà
theo
quần thể
trong
một
khuôn
viên dần
không
còn
nữa).
Mối
quan hệ
của các
nhà
trong
quần thể
này đã
thể hiện
quá trình
tan vỡ
của hình
thái gia
đình lớn
mẫu hệ
để
trở
thành
các gia
đình
nhỏ. Bộ
khung
nhà của
người
Chăm ở
Bình
Thuận
khá đơn
giản. Vì
cột
cơ
bản là vì
ba
cột
(kèo
được
liên kết
với cột
hoặc
không có
vì
kèo
thì dùng
nhà chủ
yếu
là
gỗ.
Những
ngôi nhà
nơi đây
người
dân rất
chú ý tới
kiến trúc
và
lối
trang trí
trên mái
nhà. Đặc
biệt
là
nhà gươl
có mái
hình mai
rùa. Nổi
bật hơn
cả đó là
kiến trúc
nhà mồ,
xung
quanh
nhà mồ
có một
hệ thống
tượng rất
phong
phú chủ
yếu được
làm bằng
gỗ.
Một số
ví
dụ:
Các tộc
người
Bâhnar,
Sê Đăng,
Jrai,
Triêng,
Ca Tu…
thường
định cư
một chỗ
nên có
nhà sinh
Bộ
thì
nơi đây
họ ít khi
xây dựng
nhà kiên
cố vì họ
ít
chú
trọng tới
việc xây
nhà, và
việc làm
nhà cũng
không
chú trọng
tới vấn đề
phong
thủy, kiến
trúc như
ở miền
Bắc. Tùy
theo từng
địa hình
khác
nhau mà
họ
xây
dựng lên
những
ngôi nhà
sao cho
phù hợp.
Nhà của
người
Khơme
hầu hết là
nền đất,
lợp
lá
không
khác gì
nhà của
người
Việt. Và
nhiều nhà
thành
một
“phum”.
“Sóc”
gồm
nhiều
dựng ở
ven
sông thì
mặt có
thể
hướng
ra dòng
sông
hay
hướng
vào
trong.
Nhà của
người
Mường
thường
ba đến
năm
gian.
Nhà dù
ít hay
nhiều
gian
đều có
một sàn
bên trái
để bắc
cầu
thang
và
máng
nước
sinh
hoạt.
Gian
đầu tiên
từ cầu
thang
lên gọi
là gian
gốc.
Đây là
gian
quy tụ
mọi
tính
linh
thiêng
xung
quanh,
mái lợp
cỏ
tranh,
người
Tày
sống
định
cư,
quây
quần
thành
từng
bản
chừng
15 đến
20 hộ.
18
tường
thay thế
kèo).
Nếu là vì
năm cột
thì
có
thêm xà
ngang
đầu gác
lên cây
đòn tay
cái nơi
hai đầu
cột con.
Từ các
kiểu vì
này dần
xuất hiện
cây kèo
và
trở
thành vì
kèo.
Mặt
trước
nhà quay
về
hướng
Nam
hoặc
hướng
Tây.
Gian giữ
là trung
tâm
(người
Chăm
gọi
là
sangyơ), phía
phải là
phòng
ngủ của
bố mẹ,
bên trái
là kho,
sau
là
phòng
ngủ của
hoạt
cộng
đồng, gọi
chung là
Rông.
Ngôi nhà
Rông
của các
cộng
đồng
làng đều
là
nhà
sàn, phổ
biến có
hình
dạng mái
cao vút
dáng như
lưỡi rìu,
vượt hẳn
lên trên
mái các
ngôi nhà
trong
làng.
Trên mái
nhà rông,
cầu
thang lên
xuống,cá
c
xà
ngang,
cột cái
trong
nhà trang
trí nhiều
mô típ
hoa văn.
Nhà
ở
của Sê
Đăng
cũng
được làm
từ những
nguyên
liệu
truyền
thống
“phum”
tương
đương
như làng
xã
của
người
Việt.
Người
Chơ Ro
(Châu
Ro, Đơ
Ro) trước
đây sống
ở
nhà
sàn, hiện
nay họ đã
ở
nhà
trệt.
của
ngôi
nhà, là
nơi xuất
phát
những
tục lệ
đối xử
hành vi
của con
người
với ngôi
nhà.
Gian
thứ hai
của
ngôi
nhà
(gian kế
theo
gian
gốc)
dành
cho
nam
giới ngủ
nghỉ.
Gian
giữa
thường
là gian
để thóc
và làm
bếp
Gian
cuối
cùng là
nơi
dành
cho phụ
nữ sinh
hoạt có
chạn
bát, để
đồ dùng
gia
đình,
nơi sửa
con cái.
Mặt
trước có
một hiên
ở giữa
nhà.
Nhà bếp
được xây
dựng
riêng
biệt với
nhà
chính và
ở phía
Tây nhà
chính,
trong
nhà bếp
có khu
bếp, khu
chứa
nước
uống và
kho chất
đốt (củi,
than,
v.v.).
19
vốn có
sẵn ở núi
rừng
như: Gỗ,
tranh,
tre, nứa,
lồ
ô…
Nhà sàn
có độ dài
tuỳ thuộc
vào số
lượng
thành
viên
trong
từng gia
đình, từ
mặt đất
đến gầm
sàn
khoảng
dưới 1m.
Nhà mồ
cũng chủ
yếu làm
bằng vật
dụng gỗ,
nứa,
tranh tre
có
sẵn
trên
rừng.
Cột gỗ là
chủ yếu,
không có
các
vì
kèo, mà
chỉ
là
những
cột
chống và
phủ mái
lên.Nhà
mồ tạm
thì mái
có
thể
lợp
tranh,
soạn
cơm
nước.
Gian
này
được
ngăn
với các
gian
khác
trong
nhà bởi
một tấm
liếp.
Đây
cũng là
nơi
người
phụ nữ
thay
quần áo
và ngủ
nghỉ.
Đầu hồi
nhà,
người
Mường
để một
cái cối
đuống
và một
cối tròn.
Cối
đuống
không
chỉ
dùng để
giã thóc
gạo mà
còn là
phương
tiện để
gia đình
báo nhà
có việc
lớn như
đám
cưới mà
nhưng
sau lễ bỏ
mả phải
làm mái
gỗ.Ở
vùng
người Ca
Tu & Tà
Ôi, nhà
mồ được
làm hoàn
toàn
bằng gỗ.
20
tang
ma. Bên
cạnh
đó, cối
đuống
còn là
một
nhạc cụ
sử dụng
để gõ
những
bản
nhạc
vui
trong
ngày lễ
tết, hội
hè.
-người
bru vân
kiều:
Mỗi
làng là
một
điểm cư
trú quần
tụ. Mỗi
gia đình
có nhà
sàn, bếp
lửa bố
trí ngay
trên sàn
nhà,
kiêng
nằm
ngang
sàn.
Nhóm
Trì,
Khùa,
Ma
Coong
nhà
thường
ngăn
thành
buồng
21
làm chỗ
ngủ
riêng
cho vợ
chồng
gia chủ,
cho bố
mẹ già
(nếu
có), cho
con đã
lớn.
Tôn
giáo
tín
ngưỡn
g
Về tôn
giáo: Có
5
tôn
giáo:
Đạo
Phật,
Ðạo Tin
Lành,
Đạo
Công
giáo,
Đạo Cao
Đài và
Đạo Hồi
.
-Vùng
này có
những
tục sau
đây:
+Tục
thờ cúng
thần đất,
thần lúa.
+Tục
thờ cúng
tổ tiên.
+Tục
thờ
phụng
những
người
anh
hùng
dân tộc
-Các dân
tộc trong
vùng.
Tây Bắc
đều có
tín
ngưỡng
"mọi vật
có linh
hồn"
,
một loại
tín
ngưỡng
mà mọi
dân tộc
trên
hành
tinh đều
trải qua.
Có
đủ
loại
"hồn" và
các loại
thần
sông núi,
suối khe,
đá, cây,
súc vật,
các lực
lượng
thiên
nhiên
như sấm,
chớp,
mưa,
-Người
mường
theo
đạo Tin
Lành,
Thiên
Chúa,
Phật
giáo
nhưng
có sự
khác
biệt ở
người
theo
đạo
Phật là
mọi
nghi lễ
đều
phải có
chủ lễ
là thầy
mo chủ
trì.
-Ở
người
Dao
còn tồn
tại rất
nhiều
tàn dư
tôn
giáo
nguyên
thủy,
nhưng
Tam
giáo đã
biểu
hiện rất
rõ rệt,
đặc
biệt là
Đạo
giáo có
nhiều
ảnh
hưởng
sâu sắc
tới tôn
Người
giáo,
Mường tín
thờ Vua ngưỡn
Cha
g của
Ngọc
người
Hoàng, Dao.
Phật,
-Người
Thánh, Dao có
Quốc
tục
22
-Tại tỉnh
Ninh
Thuận,
nơi có
nhiều
người
Chăm ở
Việt
Nam cư
trú.
-Người
Chăm
Ninh
ThuậnBình
Thuận
có
hai
nhóm
chính
phân
theo tín
ngưỡng
là Chăm
Ahiêr
(Chăm
Bàlamôn
)
và
Chăm
Awal
(Chăm
Bàni).
Ngoài ra
còn có
một
nhóm
-Do kinh
tế
nơi
đây còn
phụ
thuộc
khá
nhiều
vào
tự
nhiên
nên tín
ngưỡng
nơi đây
cũng gắn
liền với
thiên
nhiên, đó
là
tín
ngưỡng
vạn vật
hữu linh,
bất
cứ
thứ
gì
xung
quanh
con
người
nơi đây
đều có
thể trở
thành
thần linh.
Nơi đây
các
vị
thần
được họ
-Là một
vùng đất
đa
tộc
người,
Nam Bộ
cũng là
nơi gặp
gỡ
của
các
tín
ngưỡng,
tôn giáo
từ khắp
nơi trên
đất nước.
Vì
vậy
đây chính
là vùng
đất phong
phú nhất
về
tín
ngưỡng,
tôn giáo
ở
Việt
Nam. Ở
đây họ ít
bị ràng
buộc bởi
Nho giáo
nên ở đây
đã đâm
chồi 1 số
tôn giáo
mới như:
Cao Đài,
Hòa
có công
với
nước, có
công
khai
làng, lập
ấp, …
Hầu như
phường
xã nào ở
thành
phố
cũng
đều có
nhân vật
lịch sử,
có đền,
có miếu
thờ.
Nhân
vật lịch
sử được
thờ
phụng
nhiều
nhất là
Phò mã
triều Lý
Dương
Tự
Minh,
Đức
thánh
Trần
Hưng
Đạo,
danh
nhân
lịch sử
Đội
Cấn,
Lương
Ngọc
Quyến.
-Tục
làm vía:
của dân
tộc Thái.
gió. Các
bộ phận
trên thân
thể con
người
cũng có
hồn.
mẫu
Hoàng
Bà.
Đối với
người
Mường:
"Vạn
- Những vật hữu
dòng
linh".
suối
cũng
Thầy
đóng vai tâm linh
trò quan Mường
trọng
gồm có:
trong
tâm linh Thầy
của các đồng: là
dân tộc nam,
vùng
người
Tây Bắc. được
thánh
thần
mượn
thân để
làm
việc.
Không
vào làm
việc
được
trong
đám
ma.
Thầy
Mỡi:
giống
thầy
đồng
nhưng
là Nữ.
Thầy
Mo:
Người
lo tang
ma là
kiêng
ăn thịt
chó.
Họ có
phong
tục thờ
tổ tiên
là Bàn
Hồ. Có
thể xác
định
dòng
họ và
thứ bậc
của
người
Dao
qua tên
đệm.
Ma
chay
của
người
Dao
được
làm
theo
tục lệ
xa xưa.
Vài
vùng
có tục
hỏa
táng
cho
người
chết từ
12 tuổi
trở lên.
Tục ở
rể có
thời
hạn và
vĩnh
viễn.
-Lễ cầu
mùa
thường
23
nhỏ
người
Chăm
Bàni đã
cải sang
theo Hồi
giáo
chính
thống
vào thập
niên
1960 do
tiếp xúc
với
người
Chăm
Nam Bộ.
-Hồi
giáo
Chăm
Bani hay
đạo Bà
Ni
là
một tôn
giáo của
người
Chăm ở
vùng
Ninh
Thuận,
Bình
Thuận,
là
tôn
giáo đặc
thù bởi
sự
kết
hợp giao
hòa giữa
đạo
Islam
(đạo
Hồi) với
đạo Bà
La Môn
mà
người
Chăm đã
theo
gọi
chung là
Giàng.
Có 2 loại
Giàng đó
là Giàng
tốt
chuyên
giúp đỡ
mọi
người và
Giàng
xấu thì
hại
người.
Ngày
nay thì
người
dân
ở
đây lại
chủ yếu
là theo
đạo Tin
lành.
Hảo…
Ngoài ra
còn
có
một
số
đạo
lạ
như Đạo
Dừa, Đạo
đi chậm,
Đạo
câm…
Cũng
giống
như các
vùng
khác nơi
đây cũng
dành ưu
tiên cho
đạo Phật
và có sự
kết hợp
với
tín
ngưỡng
vạn vật
hữu linh.
Ngoài ra
mỗi dân
tộc khác
nhau
ở
đây cũng
có những
đạo riêng
cho dân
tộc minh
chẳng
hạn:
Người
Khơme
Nam Bộ
thì theo
đạo Phật
Tiểu
Thừa
Therava.
Ở dân tộc
này còn
có
tín
ngưỡng
-Tục
cưới
người
Tày
Nùng
kèm
theo Tục
“slắng
lẩu cẩu
vằn”,
Tục lễ
“slam
nâư.
-Tục
“khẩu
lẩu”
(gạo
rượu).
-Tục
"háy pù"
của Dân
tộc
H'Mông.
chủ
yếu.
thầy
này mới
biết mo
đẻ đất
đẻ tác.
Trượng
(Đá
Trượng)
: là thầy
nhưng
không
có
thánh
thần ốp
đồng.
Thầy
này là
đi học
mà
thành.
Thầy
bùa,
ếm,
chài....
- người
Mường
có tục
làm lễ
nhóm
lửa. Gia
chủ lấy
bẹ
chuối
cắt hình
ba con
cá
to
kẹp vào
thanh
nứa
buộc
lên cột
bếp, ở
cột cái
của bếp
còn đặt
được
gắn
liền với
ngày
hội của
làng,
được tổ
chức
vào
ngày 12 âm
lịch
hàng
năm.
-Người
Tày
thờ tổ
tiên và
bái vật
giáo.
Bàn
thờ tổ
tiên
của
người
Tày đặt
chính
giữa
nhà và
làm
thành
một
không
gian
riêng
và
được
cung
kính
hết
mực.
Khách
và phụ
nữ có
thai,
mới
sinh
không
24
trước đó
cùng với
các tín
ngưỡng
dân gian
khác của
người
Chăm.
Về
cơ
cấu
tổ
chức,
đạo Hồi
Chăm
Bani có
một đội
ngũ các
tu
sĩ,
chức sắc,
họ
am
hiểu và
có kinh
nghiệm
về các
lĩnh vực
sản xuất
nông
nghiệp,
vừa có
uy
tín
bên đạo
và có uy
tín bên
đời.
Chức sắc
Chăm
Bani là
đội ngũ
theo chế
độ cha
truyền
con nối,
gồm có 4
cấp.
Sư cả: là
cấp cao
nhất, là
người
quyết
thờ Neak
tà
(các
nam
thần) và
thờ Arăk
(là bà tổ
dòng họ).
Người
Hoa Nam
Bộ theo
các
tín
ngưỡng
dân gian
và
thờ
cúng tổ
tiên. Một
bộ phận
khác thì
theo đạo
Phật, đạo
Thiên
Chúa,
đạo Tin
Lành.
Người
Chăm thì
theo đạo
Hồi
(Islam).
một quả
bí xanh.
Trước
lúc đun
nấu ở
nhà
mới, gia
chủ làm
lễ nhóm
lửa xin
thần
bếp cho
đặt
3
hòn đầu
rau và
hòn đá
cái.
Ðêm đó
gia chủ
mời
mọi
người
uống
rượu
cần
dưới
ánh
sáng
của
ngọn
lửa
không
tắt.
- người
bru vân
kiều
Chú
trọng
thờ
cúng tổ
tiên và
thờ đa
thần
(Yang,
thần
lúa,
thần
bếp lửa,
được
phép
ngồi
hay
nằm
trên
ghế,
giường
trước
bàn
thờ.
Trong
tôn
giáo
của
người
Tày,
ngày
tảo mộ
(3/3
âm
lịch) là
ngày lễ
quan
trọng
nhất
của
người
Tày.
25
định hầu
hết mọi
vấn để
đời sống
tôn giáo
của tín
đồ
Mum: là
cấp thứ
hai,
là
người
điều
khiển
các buổi
lễ tại các
đền thờ,
thông
hiểu
kinh
Koran,
có đạo
đức tốt
và
có
khả năng
kinh tế
Khotip:
còn gọi
là Tip, là
cấp thứ
ba, đảm
nhận
một số
nghi lễ
tại các
đền thờ
hoặc tư
gia mà
không
đảm
nhiệm
việc
giảng
giáo lý
Chang:
là
cấp
cuối
cùng, là
những