Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
(Tạp chí tâm lí học, số 7/2004, trang 44)
Lưu Song Hà
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là một hiện tượng đa dạng và phức tạp.
Nó tồn tại ở mọi nơi, trong tất cả các giai đoạn phát triển của xã hội loài người.
Đặc biệt, ở giai đoạn diễn ra những biến đổi xã hội sâu sắc thì hành vi sai lệch
chuẩn mực xã hội lại càng phát triển. Nó phong phú hơn về biểu hiện, phức tạp
hơn về nguyên nhân, gây ra những tổn thất nặng nề hơn cho xã hội, khó khăn
hơn về phương thức khắc phục.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới
trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, cùng với việc đạt được những tiến bộ xã hội
đáng kể cũng nảy sinh khá nhiều hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, mà biểu
hiện rõ rệt nhất là các tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, mại dâm, nghiện
hút, cướp của, giết người…Đản và Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp để ngăn
chặn và phòng ngừa tình hình này. Nhưng thực tế, các tệ nạn xã hội vẫn diễn ra
trên phạm vi rộng hơn và ngày càng tinh vi hơn. Những nghiên cứu xã hội để
đề ra những phương hướng mang tính quản lí, những giải pháp mang tính hiệu
quả cao dường như vẫn còn ít ỏi. Đặc biệt là cách thức tiếp cận về mặt lý thuyết
cho những nghiên cứu thực tiễn chưa thật toàn diện khiến cho việc xử lí những
vấn đề này trong cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Để có thể có được
những biện pháp thiết thực nhằm hạn chế và ngăn chặn các hành vi sai lệch
chuẩn mực xã hội, trước tiên chúng ta phải hiểu đựơc khái niệm này.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội đựơc nhiều ngành khoa học quan tâm
nghiên cứu như tộ phạm học, tâm lí học, giáo dục học, đạo đức học… Mỗi
ngành khoa học khác nhau xem xét hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là hai
khoa học có mối quan liên hệ chặt chẽ với nhau và các nhà nghiên cứu thuộc hai
lĩnh vực khoa học này đã có sự thống nhất tương đối khi đưa ra định nghĩa về
hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Theo họ, hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
chính là những hành vi, là hành vi lệch chuẩn, hành vi không đựơc xã hội chấp
nhận. Như vậy, có thể hiểu hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là bất kỳ hành vi
nào không phù hợp với sự mong đợi của một nhóm hoặc của xã hội. Nói cách
khác, hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội hay còn gọi là hành vi lệch chuẩn là
hành vi chệch khỏi các quy tắc, chuẩn mực của nhóm hay của xã hội.
Ngoài hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, trong tâm lý học còn đưa ra
thuật ngữ liên quan đến hành vi lệch chuẩn là rối loạn hành vi. Rối loạn hành vi
là một thuật ngữ có liên quan nhiều đến lĩnh vực y học, bệnh lý hay tâm lý học
lâm sàng. Sự rối loạn hành vi được hiểu là hội chứng hành vi hay trải nghiệm đi
kèm theo những khó chịu, đau đớn, những trở ngại hay hạn chế ở một hay nhiều
phạm vi chức năng (như tri giác, tư duy, tình cảm, ghi nhớ, nói, vận động…) gắn
liền với nguy cơ phải cam chịu nhiều hậu quả khác nhau. Sự rối loạn này là rối
loạn tâm lý được thể hiện ra trong hành vi. Nó thường diễn ra khi cá nhân không
thể đáp ứng được các chuẩn mực, ví dụ như đái dầm, mất ngủ, mút tay, rối loạn
chú ý, tic… Thông thường, những rối lạon hành vi loại này cần được phát hiện
và chữa trị kịp thời để có thể ngăn chặn và hạn chế chúng.
Nếu như rối loạn hành vi liên quan đến khía cạnh bệnh lý thì hành vi sai
lệch chuẩn mực thông thường liên quan đến các quan hệ xã hội. Nhiều nhà tâm
lý học Liên Xô (cũ) cho rằng, hành vi vi phạm các chuẩn mực xã hội chính là
những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Vì vậy, có thể hiểu rằng hành vi sai
lệch chuẩn mực xã hội là hành vi không được xã hội chấp nhận. Trong mọi xã
hội, hầu hết các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội đều bị phê phán vì nó phá vỡ
trật tự xã hội của toàn dân, nó không được cộng đồng chấp nhận. Tuy nhiên,
trong những xã hội có giai cấp đối kháng, chuẩn mực xã hội là chuẩn mực của
giai cấp thống trị và phục vụ lợi ích của giai cấp này. Vì thế, có không ít hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội của xã hội đó không được giai cấp thống trị chấp
nhận, nhưng lại đựơc cộng đồng xã hội coi trọng, ví dụ như hoạt động cách
mạng.
Để xác định một hành vi có phải là lệch chuẩn hay không, trước hết phải
xác định đựơc các quy tắc văn hoá của xã hội (nhóm) mà chủ thể hành vi đang
sống. Trên cơ sở đó xác định mức độ phù hợp giữa hành vi của cá nhân (nhóm)
với quy tắc đó. Một hành vi cá nhân (nhóm) bao giờ cũng là một hành vi xã hội.
Nó có thể là bình thường hay lệch chuẩn tuỳ thuộc vào giá trị của nó đối với xã
hội.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội có tính tương đối về văn hoá và lịch sử.
Có những hành vi có thể được thừa nhận là đúng đắn trong nền văn hoá của xã
hội này, nhưng lại bị coi là lệch chuẩn nếu so với nền văn hoá khác. Chẳng hạn,
hành vi đa thê đựơc coi là là hành vi bình thường, hợp quy tắc trong một số xã
hội Hồi giáo ở Ấn Độ, Malaixia, nhưng lại là hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
trong xã hội Việt Nam, phương Tây. Mặt khác, trong cùng xã hội cụ thể, quan
niệm về chuẩn mực xã hội cũng biến đổi theo thời gian, những cái được coi là
bình thường, thậm chí là phù hợp ở lúc này lại có thể bị coi là lệch lạc vào lúc
khác, do đó việc xem xét hành vi có lệch chuẩn hay không cũng thay đổi theo. Ví
dụ, hành vi đốt pháo trong ngày cưới, ngày Tết hiện nay bị lên án và được coi là
phạm luật ở nước ta, nhưng trước đây lại được xem là bình thường.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội không thể quy vào một hành động mà
là “ một hệ thống những hành động: hoạt động, cách ứng xử của con người, lối
sống”. Khái niệm chuẩn mực xã hội bao trùm lên mọi hoạt động của con người
trong đời sống xã hội nên khái niệm hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội cũng rất
rộng. Nó lớn hơn khái niệm vi phạm pháp vì pháp luật chỉ là một loại chuẩn mực
xã hội phù hợp mà thôi.
Có nhiều cách phân chia các loạii hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội dựa
vào các tiêu chí khác nhau. Dựa trên mục đích của hành vi, R. K. Merton đã
phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội thành hành vi lầm lạc chỉ sự sai
lệch khỏi cái đã được coi là bình thường và đúng đắn. Những người thực hiện
hành vi này không có ý thay đổi giá trị của chuẩn mục mà đơn giản chỉ là sự vi
phạm chuẩn mực vì những mục đích cá nhân mà thôi. Hành vi phạm tội là ví dụ
loại này. Trái lại, hành vi không theo khuôn phéo được thực hiện với mục đích
thay đổi những chuẩn mực mà cá nhân phủ định trên thực tế. Anh ta muốn thay
thế chuẩn mực cũ bằng chuẩn mực mới mà anh ta tin là đúng đắn hơn. Vì thế,
nếu như những người có hành vi lầm lạc thường cố ý che giấu hành vi của mình
thì những ngưòi thực hiện hành vi không theo khuôn phép lại công khai thể hiện
giá trị của chuẩn mực mới.
Dựa trên chủ thể hành vi, có thể chia hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội
thành hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội tập thể và hành vi sai lệch chuẩn mực
xã hội cá nhân. Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở cấp độ tập thể là hành vi
của cả tập thể đi lệch khỏi chuẩn mực xã hội, ví dụ như cả tập thể cùng tham ô,
cùng buôn lậu…Còn hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở cấp độ cá nhan là
những hành vi của cá nhân nhất định. Hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực
xã hội do tập thể thực hiện bao giờ cũng nghiêm trọng bởi nó đã góp phần vào
việc giảm bớt đi đáng kể cảm giác tội lỗi của mỗi cá nhân thực hiện hành vi và
phá vỡ trật tự xã hội ở phạm vi rộng hơn.
Căn cứ vào loại chuẩn mực mà hành vi của các nhân vi phạm, có thể chua
thành các loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội sau: Các hành vi sai lệch về luật
pháp và các quy tắc sinh hoạt công cộng ( nội quy, quy chế,..), các hành vi sai
lệch chuẩn mực đạo đức, các hành vi sai lệch chuẩn mực thẩm mỹ, các hành vi
sai lệch chuẩn mực chính trị.
Dựa vào mức độ nhận thức và chấp nhận các chuẩn mực đạo đức, có thể
chia ra hai loại hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Đó là hành vi sai lệch thụ
động và hành vi sai lệch chủ động.Hành vi sai lệch thụ động là những hành vi sai
lệch do không nhận thức đầy đủ hoặc nhận thức sai các chuẩn mực đạo đức nên
có những hành vi không bình thường so với chuẩn chung của cộng đồng. Còn
hành vi sai lệch chuẩn chủ động là những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội do
cá nhân cố ý thực hiện dù họ có thể nhận thức được yêu cầu của chuẩn mực xã
hội.
Căn cứ vào tình chất và mức độ của những sai lệch trong hành vi cá nhân
và hành vi xã hội của trẻ em, một số nhà nghiên cứu ( Võ Quang Phúc, Lê Như
Hoa, Nguyễn Đức Mạnh..) đã đưa ra những khái niệm: trẻ chưa ngoan, trẻ hư và
trẻ phạm pháp ( trẻ làm trái pháp luật). Trẻ chưa ngoan là trẻ phát triển bình
thường, đôi khi biểu hiện hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội ở mức dộ nhẹ, còn
có nhược điểm trong tiếp thu giáo dưỡng của gia đình và xã hội, dễ tiếp thu sự
giáo dục, uốn nắn của người lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Trong trường
phổ thông, trẻ chưa ngoan còn phạm sai lầm thuộc về thái độ đối với trường học
và đối với việc học tập của chính các em như lười học, ngại học, trốn học, bỏ
học, nói dối thầy cô giáo và cha mẹ…Trẻ chưa ngoan ở trường phổ thông được
gọi là “ học sinh cá biệt về mặt đạo đức”…Trẻ hư là trẻ có các hành vi sai lệch
chuẩn mực xã hội có tính hệ thống, ổn định, thành thói quen xấu, khó tiếp thu sự
uốn nắn, giáo dục của gia đình và xã hội, có nhiều hành vi sai lệch chuẩn mực xã
hội từ không nghiêm trọng đến nghiêm trọng nhưng chưa đến mức độ phạm tội,
vi phạm nghiêm trọng luật pháp có thể phải truy tố trước các cơ quan pháp luật
nhà nước.
Dựa vào phạm vi ảnh hưởng đến xã hội, một số nhà nghiên cứu thuộc các
lĩnh vực tâm lí học, xã hội học, xã hội học truyền thống đã chỉ ra một số dạng
tiêu biểu của hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Đó là những sai lệch trong việc
dùng ma tuý, dùng rượu, sai lệch trong hành vi tình dục, hành vi phạm pháp, tự
tử. Với phạm vi ảnh hưởng sâu rộng hơn, một số dạng hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội được xác định là tệ nạn xã hội,cần có phương hướng ngăn ngừa và
khắc phục. Trong Sổ tay công tác phòng ngừa tệ nạn xã hội thì tệ nạn xã hội
được coi là “ những hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội (chuẩn mực về truyền thống văn hoá, lối sống đạo đức của dân tộc…
và những chuẩn mực đã trở thành qui định của pháp luật) mang tính phổ biến, có
xu hướng phát triển trong xã hội, gây ảnh hưởng xấu về đạo đức và những hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá xã hội của nhân dân”. Có thể
kể ở đây một số hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội nhu mại dâm, ma tuý, cờ bạc,
buôn lậu, tham nhũng, hối lộ…
Từ góc độ lợi ích và sự phát triển xã hội, những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội được chia thành hai loại: tiêu cực và tích cực. Hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả xấy, kìm hãm sự phát triển xã hội.
Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội tích cực có tác động đến sự phát triển xã hội
khi nó báo hiệu cho nền văn hoá chung phải suy nghĩ về tính lạc hậu của các
chuẩn mực xã hội trước hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tính không hoạt động, không
điều tiết được các quan hệ xã hội và tính không có hiệu quả của chuẩn mực xã
hội khi áp dụng vào thực tế,… Nó phản ánh sự cần thiết và cấp bách của việc
thay đổi chuẩn mực xã hội cũ, hình thành những chuẩn mực xã hội mới phù hợp
vơi nhu cầu của sự phát triển xã hội. Việc chậm thay đổi các chuẩn mực xã hội
đã lỗi thời thường làm cho xã hội theo xu hướng bảo thủ và cấp tiến.
Tóm lại, hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là hành vi chệch khỏi các quy
tắc, chuẩn mực của nhóm hay của xã hội. Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội có
tính chất tương đối về văn hoá và lịch sử. Chúng rất phong phú và đa dạng. Tuỳ
vào các tiêu chí khác nhau mà mỗi tác giả có sự phân chia hành vi này thành các
loại khác nhau.
Trong đời sống xã hội, do nhu cầu điều chỉnh các loại quan hệ xã hội khác
nhau nên đã xuất hiện và tồn tại nhiều loại chuẩn mực xã hội khác nhau như
chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực chính trị, chuẩn mực
phong tục tập quán….. Nếu mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức xã hội đều nghiêm
chỉnh tuân thủ theo các quy tắc, yêu cầu của các loại chguẩn mực xã hội thì đó là
nền tảng của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong thực tế
xã hội không phải tất cả các chuẩn mực xã hội luôn luôn được tôn trọng, tuân thủ
ở mọi lúc mọi nơi; mà thường xảy ra các hành vi của cá nhân, nhóm xã hội vi
phạm, phá vỡ hiệu lực, tính ổn định, sự tác động của các loại chuẩn mực xã hội.
Đó chính là những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, trong đó các hành vi sai
lệch có tác động rất lớn đến việc thực hiện các chuẩn mực xã hội.
Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho hành
vi ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội. Đặc biệt hành vi sai lệch chuẩn
mực pháp luật có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc thực hiện các chuẩn mực
pháp luật. Từ việc phân tích nội dung các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực
pháp luật chúng ta có thể nhận ra ý nghĩa của các cơ chế đó trong công tác phòng
chống vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay.
1. Khái quát chung về sai lệch chuẩn mực pháp luật
1.1 Khái niệm về hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật
Hành vi bao gồm một chuỗi hành động nối tiếp nhâu một cách tương đối
nhằm đạt được mục đích để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật là hành vi của một cá nhân hay một
nhóm xã hội vi phạm các nguyên tắc các quy định của chuẩn mực pháp luật.
Chuẩn mực pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, định hướng cho hành vi ứng xử của các cá nhân và các nhóm xã hội.
Việc một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó thực hiện một hành vi xâm hại tới các
nguyên tắc, quy định của chuẩn mực pháp luật được xã hội học pháp luật gọi là
sai lệch chuẩn mực pháp luật.
Dưới góc độ luật học, hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật chính là hành vi
vi phạm pháp luật. Hành vi này có các dấu hiệu cơ bản: là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi của chủ thể và chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý.
1.2 Phân loại hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật
Có nhiều loại hành vi sai lệch chuẩn mực tuy nhiên nhiều hành vi sai lệch
chuẩn mực có nét tương đồng nên được phân vào một loại. Tuy nhiên hành vi sai
lệch chuẩn mực thường được phân loại theo các tiêu chí sau:
Thứ nhất : căn cứ và nội dung, tính chất của các chuẩn mực pháp luật bị
xâm hại, hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật được chia thành hành vi sai lệch
tích cực và hành vi sai lệch tiêu cực.
Hành vi sai lệch tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi
phạm phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật đã lỗi thời, không còn phù
hợp với thực tế xã hội hoặc không còn được nhà nước và xã hội thừa nhận.
Hành vi sai lệch tiêu cực là những hành vi (có thể cố ý hoặc vô ý) vi phạm
phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực pháp luật hiện hành, có nội
dung, tính chất phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được nhà nước và
các cộng đồng người thừa nhận rộng rãi trong xã hội.
Thứ hai :căn cứ vào thái độ tâm lý chủ quan (lỗi) của người thực hiện hành
vi sai lệch, gồm hành vi sai lệch chủ động và hành vi sai lệch thụ động.
Hành vi sai lệch chủ động là hành vi có ý thức, có tính toán, cố ý (trực tiếp
hoặc gián tiếp) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực pháp luật, dù chuẩn
mực pháp luật đó đã lỗi thời lạc hậu hay còn đang tiến bộ phù hợp.
Hành vi sai lệch thụ động là hành vi vô ý, không mong muốn vi phạm, phá
vỡ tính ổn định, sự tác động của các chuẩn mực pháp luật.
Thứ ba: nếu căn cứ và xem xét đồng thời cả hai tiêu chí phân loại nêu trên
trong một hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật thì chúng sẽ có thêm các loại
hành vi sau:
- Hành vi sai lệch chủ động – tích cực là hành vi cố ý vi phạm phá vỡ sự tác
động của các chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với
yêu cầu của đời sống xã hội hiện tại.
- Hành vi sai lệch chủ động - tiêu cực là hành vi cố ý vi phạm phá vỡ hiệu
lực của các chuẩn mực pháp luật hiện hành mang tính chất tiến bộ, phù hợp,
đang phổ biến, thịnh hành và được nhà nước, xã hội thừa nhận rộng rãi.
- Hành vi sai lệch thụ động – tích cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ sự
tác động của chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với
yêu cầu của đời sống xã hội.
- Hành vi sai lệch thụ động – tiêu cực là hành vi vô ý vi phạm, phá vỡ hiệu
lực của các chuẩn mực pháp luật tiến bộ, phù hợp, đang phổ biến, thịnh hành và
được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.
1.3 Hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật
Do là hành vi vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực pháp luật
nên hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật gây nên những hậu quả nhất định. Để
đánh giá hậu quả của các hành vi sai lệch có tác động như thế nào ta cần dựa vào
các căn cứ nhất định như: căn cứ vào tính chất , khuynh hướng và sự phổ biến
tương đối của các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật đó; căn cứ vào các điều
kiện lịch sử - địa lí, hoàn cảnh xã hội cụ thể; căn cứ vào địa điểm và thời gian
xảy ra hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật đó. Dựa vào các căn cứ đó cho phép
chúng ta nhận thức và đánh giá đúng đắn hậu quả của một hành vi sa lệch chuẩn
mực pháp luật. Hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật có thể được
nhìn nhận trên hai phương diện:
Thứ nhất, hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật có thể mang
nội dung, tính chất tích cực, tiến bộ, cách tân nếu như nó có vi phạm, phá vỡ
hiệu lực, sự chi phối của các chuẩn mực pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời, đang kìm
hãm sự phát triển của các cá nhân và xã hội. Khi đó, hành vi sai lệch chuẩn mực
pháp luật có thể góp phần làm thay đổi nhận thức chung của một cộng đồng xã
hội và thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội trong xã hội.
Thứ hai, ngược lại hậu quả của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật có thể
mang nội dung và tính chất tiêu cực, ảnh hưởng xấu hoặc nguy hiểm cho xã hội
nếu như nó vi phạm, phá hoại tính ổn định, sự tác động của những chuẩn mực
pháp luật tiến bộ, phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến, thịnh hành và được thừa nhận
rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, hành vi sai lệch chuẩn mực pháp
luật đó phải bị xã hội phê phán, lên án hoặc đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp
trừng phạt theo các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
2. Nội dung các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật và ý
nghĩa của nó trong công tác phòng chống vi phạm pháp luật ở nước ta hiện
nay
2.1 Sự không hiểu biết, hiểu biết không đúng không chính xác các quy
tắc, yêu cầu của chuẩn mực pháp luật
a) Nội dung
Đây là cơ chế mà trong đó các hành vi sai lệch xảy ra chủ yếu là do các cá
nhân, nhóm xã hội có thiếu thông tin, kiến thức, hiểu biết về chuẩn mực pháp
luật, thiếu kinh nghiệm thực tế; do họ không hiểu hoặc hiểu không đúng nội
dung tinh thần của các quy tắc, yêu cầu được nêu trong chuẩn mực pháp luật. Từ
chỗ thiếu hiểu biết pháp luật mà họ đã đi đến thực hiện những hành vi sai lệch
chuẩn mực pháp luật. Những người thiếu kiến thức, hiểu biết về pháp luật
thường ít hoặc không tham gia bàn luận về các sự kiện pháp lí, bởi vì họ không
có các chuẩn mực pháp luật làm cơ sở cho việc đưa ra các ý kiến, nhận xét của
mình. Những người dân thiếu hiểu biết về pháp luật thường thực hiện pháp luật
một cách thụ động. Thực tế chỉ ra rằng, khi người dân thiếu kiến thức, hiểu biết
về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật kém thì dễ dẫn đến hành vi sai lệch,
phạm pháp phạm tội.
b) Ý nghĩa
Từ cơ chế này, vấn đề đặt ra là, trong trường hợp hành vi vi phạm xảy ra có
nguyên nhân là do người vi phạm pháp luật xảy ra có nguyên nhân là do người vi
phạm thiếu các thông tin kiến thức, hiểu biết về pháp luật thì các cơ quan tư pháp
và các cơ quan chức năng khác cần phối hợp với các phương tiện thông tin đại
chúng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật một cách
sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân về những nguyên tắc, quy định của các bộ
luật, các văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho người dân có được những kiến
thức những hiểu biết nhất định về pháp luật. Qua đó góp phần hạn chế những
hành vi vi phạm pháp, phạm tội xảy ra có nguyên nhân là do thiếu kiến thức,
hiểu biết về pháp luật. Bên cạnh đó, đối với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên
trách làm công tác thực thi và bảo vệ pháp luật trong các cơ quan công quyền thì
cần được đào tạo, trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật một cách bài bản tại cơ
sở đào tạo luật của nhà nước. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện đi học
luật mà nhu cầu hiểu biết pháp luật ở họ thì vẫn có. Theo tinh thần đó, phát huy
vai trò của các phương tiên thông tin đại chúng đối với công tác phổ biến giáo
dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân là biện pháp không thể thiếu nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật.
Ví dụ : Khi tham gia giao thông, trên đường có biển cấm quay đầu xe
nhưng do thiếu kiến thức và hiểu biết về luật giao thông đường bộ nên người
tham gia lại thực hiện hành vi rẽ phải. Như vậy, người đó đã vi phạm pháp luật,
thực hiện hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật dẫn đến vi phạm pháp luật. Từ ví
dụ này các cơ quan chức năng biết được nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ vi phạm
Luật giao thông đường bộ là do thiếu hiểu biết vì vậy cần phải tuyên truyền đưa
luật giao thông đường bộ vào phổ biến hơn nữa trên các phương tiên thông tin
đại chúng và đặc biệt tuyên truyền đến mọi người ở những vùng xa xôi khi
phương tiện thông tin không phổ biến, đến những đối tượng ít được tiếp xúc với
các quy định của pháp luật, để mỗi người dân đều biết đến các quy định pháp
luật mà hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật
2.2 Tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn các chuẩn mực pháp luật
thiếu căn cứ logic và sử dụng các phán đoán phi logic
a) Nội dung
Tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn các chuẩn mực pháp luật thiếu
căn cứ logic và sử dụng các phán đoán phi logic là cơ chế của hành vi sai lệch
chuẩn mực pháp luật. Có nghĩa là khi tham gia vào các lĩnh vực cụ thể của đời
sống xã hội, do đó thói quen suy diễn sai lầm, sử dụng các phán đoán thiếu căn
cứ logic nên một số cá nhân thường nhầm lẫn hoặc cố ý áp dụng các chuẩn mực
xã hội khác vào lĩnh vực pháp luật. Do đó, hành vi này đã vi phạm một số chuẩn
mực pháp luật nào đó, tức là đã thực hiện một hành vi sai lệch chuẩn mực pháp
luật.
Ví dụ như: Nhà ông A bị mất trộm con gà, lại nghi ngờ rằng ông B là hàng
xóm lấy cắp, rồi xông và nhà ông B lục xét một cách bất hợp pháp, đây là hành
vi sai lệch vì đã vi phạm pháp luật.
b) Ý nghĩa
Từ cơ chế này chúng ta nhận thấy những thói quen trong nếp tư duy, nếp
suy nghĩ sai lầm của một số bộ phận dân cư trong xã hội thường là nguyên nhân
khiến cho họ nhận thức sai, làm lệch lạc nội dung và phạm vi áp dụng của pháp
luật. Từ nội dung cơ chế này chúng ta rút ra được ý nghĩa trong việc xây dựng
pháp luật, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, các nhà
làm luật cần phải hết sức lưu ý và cân nhắc nội dung của ngôn từ , thuật ngữ
pháp lí được sử dụng. Từng quy phạm pháp luật được đưa ra phải có bố cục chặt
chẽ, nội dung phải đầy đủ, rõ ràng và chính xác để tránh trường hợp bị suy diễn
sai và áp dụng sai. Trong công tác phòng chống tội phạm nếu đã có trường hợp
xảy ra như vậy chúng ta cần xem xét đến các quy phạm pháp luật đã sai hoặc cần
giải thích hơn về quy phạm pháp luật không được hiểu theo đúng nghĩa để không
có trường hợp tiếp theo vi phạm.
2.3 Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của những chuẩn mực
pháp luật đã lỗi thời không còn phù hợp với pháp luật hiện hành
a) Nội dung
Đây cũng là một cơ chế dẫn tới hành vi sai lệch. Tức là, trong xã hội có
những chuẩn mực xã hội như chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục tập
quán… đã được hình thành do nhu cầu điều chỉnh, điều hòa các quan hệ xã hội
nhất định; đã thể hiện được vai trò, hiệu lực của nó. Tuy nhiên, cùng với sự thay
đổi của các mối quan hệ xã hội, của các điều kiện lịch sử – xã hội, có những
chuẩn mực pháp luật dần tỏ ra lạc hậu, lỗi thời, không còn đáp ứng được các yêu
cầu, đòi hỏi của thực tiễn xã hội hiện nay, đã bị nhà nước bãi bỏ hoặc thay thế
bằng văn bản pháp luật khác. Mặc dù vậy, nhưng vẫn có những cá nhân, tập thể
nào đó do không biết, hoặc biết nhưng vẫn cố ý thực hiện, áp dụng các quy tắc
đã lạc hậu, lỗi thời đó, dẫn đến vi phạm chuẩn mực pháp luật hiện hành trong xã
hội.
Ví dụ: Việc đốt pháo vào dịp lễ tết hay cưới hỏi ngày xưa là một việc làm
thường xuyên, thậm chí thành tục lệ. Nhưng do tính chất nguy hiểm, việc này đã
bị Nhà nước nghiêm cấm. Tuy nhiên, nhiều gia đình, cá nhân biết nhưng vẫn
thực hiện hành vi sai lệch là buôn bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng pháo,
thuốc nổ. Hành vi này dẫn đến việc vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lí.
b) Ý nghĩa
Như vậy hiểu được cơ chế này có ý nghĩa rất quan trong trong việc thực
hiện pháp luật đặc biệt là công tác phòng chống tội phạm. Pháp luật luôn luôn
phải bám sát và phù hợp với thực tiễn xã hội. Do đời sống xã hội luôn luôn vận
động, biến đổi và phát triển với những biểu hiện đa dạng, phức tạp, nhiều lĩnh
vực quan hệ xã hội khác nhau nên có không ít những sự kiện, tình huống nảy
sinh từ thực tế, liên quan đến lợi ích vật chất tinh thần của nhà nước, xã hội và
công dân. Có những quan hệ cũ mất đi và quan hệ mới nảy sinh. Điều đó dẫn tới
tình trạng pháp luật nhiều khi không theo kịp, chưa phản ánh hết các quan hệ xã
hội mới hoặc trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với đòi hỏi của cuộc
sống. Vì vậy khi trong thực tế xã hội có những quy phạm pháp luật tỏ ra lỗi thời
lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn xã hội hoặc đã hết hiệu lực thi hành thì
Nhà nước cần sớm thay đổi bổ sung hoặc tuyên bố chấm dứt hiệu lực của chúng
một cách kịp thời . Điều đó có tác dụng ngăn chặn, không tạo ra những khe hở
để kẻ xấu có thể lợi dụng vào các mục đích phạm pháp phạm tội.
2.4 Cơ chế đi từ quan niệm sai lệch tới việc thực hiện hành vi sai lệch
chuẩn mực pháp luật
Trong quá trình vận động và phát triển của xã hội, có những quan điểm,
quan niệm chỉ có giá trị, ý nghĩa thực tiễn, xã hội chỉ được coi là đúng trong các
xa hội trước đây; còn trong xã hội ngày nay, chúng tỏ ra không còn phù hợp, bị
coi là quan niệm sai lệch cả về nội dung và tính chất. Tuy nhiên, vẫn có những cá
nhân, nhóm xã hội nào đó làm theo các quan niệm sai lệch đó nên dẫn vi phạm
chuẩn mực pháp luật hiện hành, tức là đã thực hiện một hành vi sai lệch.
Chẳng hạn như trong xã hội truyền thống có quan niệm “phép vua thua lệ
làng”. Quan niệm này chỉ phù hợp nhất định trong điều kiện xã hội phong kiến
trước đây, còn trong xã hội hiện nay, quan niệm này bị coi là quan niệm sai lệch
cả về nội dung và tính chất. Một mặt, quan niệm này đề cao vi trí “lệ làng” mà
trong đó nhiều quy định của lệ làng không phù hợp với đạo đức hiện nay trái quy
định của pháp luật hiện hành. Ví dụ như trước đây chúng ta có quy định của “lệ
làng” như các cô gái chưa có chồng mà có thai thì sẽ cạo đầu bôi vôi và cho trôi
sông, như thế quy định này là xâm phạm đến tính mạng danh dự của con người
và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Mặt khác, quan niệm “phép vua thua lệ
làng” hạ thấp uy tín, vai trò của pháp luật do nhà nước ban hành; cản trở công
tác thực thi, đưa pháp luật vào đời sống xã hội nông thôn, ảnh hưởng tiêu cực tới
ý thức pháp luật của người dân nông thôn. Nếu cộng đồng làng xã nào đó vận
dụng quan niệm “phép vua thua lệ làng” trong giải quyết các vấn đề phát sinh
trong xã hội hiện nay thì rất có thể điều đó sẽ đưa họ tới hành vi vi phạm pháp
luật. Ví dụ như các tập tục của một vùng dân tục nào đó trong lĩnh vực hôn nhân
như tảo hôn ép cưới hỏi …..
b) Ý nghĩa
Từ cơ chế này cho thấy, khi phát hiện ra có những quan niệm sai lệch về đặc
điểm, nội dung, tính chất hay phạm vi áp dụng của một bộ luật hay văn bản pháp
luật nào đó, hoặc những quan niệm sai lệch có thể dẫn tới hành vi vi phạm pháp
luật, thì các cơ quan chức năng của Nhà nước phải sớm có biện pháp định
hướng, giải thích, điều chỉnh lại những quan niệm sai lệch đó để kịp thời ngăn
chặn những hành vi phạm pháp, phạm tội có thể xảy ra, góp phần hình thành
những hành vi cư xử hợp pháp, hợp đạo đức của công dân.
2.5 Các khuyết tật về tâm sinh lí dẫn tới hành vi sai lệch chuẩn mực pháp
luật.
a) Nội dung
Các khuyết tật về tâm sinh lí là điểm thiếu sót của một người nào đó trong
xã hội, do di tật bẩm sinh hoặc các tai nạn mắc phải ( tai nạn giao thông, tai nạn
lao động….) khiến cho họ phải mang trên người những khuyết tật nhất định về
tâm – sinh lí. Đó cũng có thể là những khuyết tật về thể chất, như biểu hiện ở
những người bị mù, câm, điếc hoặc mắc những khuyết tật ngoại hình khác. Đó
cũng có thể là các khuyết tật về trí lực , như biểu hiện ở những người bị mắc các
chứng thần kinh căng thẳng rối loạn, hoang tưởng hoặc là mắc bệnh tâm thần…
những khuyết tật đó làm cho những cá nhân mang khuyết tật bị mất đi một phần
hoặc toàn bộ khả năng cảm nhận, nhận biết về các quy tắc, yêu cầu của chuẩn
mực xã hội nói chung, chuẩn mực pháp luật nói riêng, khiến họ vi phạm các
chuẩn mực pháp luật mà không biết hoặc không tự kiềm chế, kiểm soát được
hành vi pháp luật của bản thân.
Ví dụ như những người bị mắc bệnh mù màu, khi họ tham gia giao thông
khi đến đèn đỏ họ không nhận ra họ vẫn tiếp tục đi như vậy do có khuyết tật về
mắt nên đẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Hay những người bị tâm thần họ
không kiểm soát hành vi của mình không nhận thức được hành vi vi phạm pháp
luật như khi cầm dao giết người nhưng họ không biết là vi phạm.
b) Ý nghĩa
Nghiên cứu các khuyết tật về tâm – sinh lý ở những cá nhân có hành vi
phạm pháp, phạm tội có tác dụng rất lớn trong việc phát hiện và làm sáng tỏ
những nguyên nhân dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật. Nó giúp cho các cơ
quan bảo vệ pháp luật tùy theo từng trường hợp phạm pháp cụ thể mà đưa ra
những kết luận đúng đắn về nguyên nhân, mục đích hay động cơ phạm pháp
phạm tôi; từ đó mà xác định đúng người đúng tội và vận dụng các biện pháp xử
lý, áp dụng khung hình phạt phù hợp. Thực hiện nguyên tắc không xử oan người
vô tội, người không bị coi là tội phạm, đồng thời cũng không để lọt lưới kẻ phạm
tội; đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
2.6 Cơ chế về mối liên hệ nhân - quả giữa các hành vi sai lệch chuẩn
mực pháp luật.
a) Nội dung
Đây là trường hợp cá nhân đi từ việc thực hiện một hành vi sai lệch chuẩn
mực pháp luật này tới việc thực hiện một hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật
khác theo mối liên hệ nhân – quả mà chủ thể có thể không biết, hoặc biết nhưng
vẫn cứ thực hiện. Trong đó hành vi sai lệch thứ nhất là nguyên nhân, dẫn đến kết
quả là hành vi sai lệch kế tiếp. Chính vì vậy, người ta gọi đây là cơ chế về mối
liên hệ nhân quả giữa các hành vi sai lệch.
Ví dụ: Việc nghiện hút, sử dụng ma túy là một hành vi sai lệch, vi phạm
pháp luật và từ hành vi sai lệch đó, một người nghiện khi lên cơn có thể thực
hiện hành vi trộm cắp, cướp giật để có tiền mua ma túy sử dụng. Đây lại tiếp tục
là một hành vi sai lệch được phát sinh từ hành vi sai lệch đầu tiên là sử dụng ma
túy. Hành vi sử dụng ma túy là hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội nhưng hành vi
trộm cắp cướp giật tài sản là
b) Ý nghĩa
Từ cơ chế này cho thấy, thông thường khi cá nhân nào đó thực hiện liên tiếp
các hành vi vi phạm pháp luật thì giữa các hành vi đó thường có mối liên hệ
nhân quả nhất định. Vì vậy, khi một hành vi vi phạm pháp luật, nhất là phạm tội
xảy ra, các cơ quan chức năng phải tùy từng trường hợp cụ thể mà sớm áp dụng
các biện pháp ngăn chặn kịp thời nhằm hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xấu
có thể xảy ra. Nghiên cứu cơ chế này chúng ta có thể nhận rõ các hành vi dẫn
đến hành vi phạm pháp mà ngăn chặn ngay từ những hành vi sai lệch đầu tiên để
hạn chế những hành vi tiếp theo cũng là một trong các biện pháp phòng chống
tội phạm ở nước ta hiện nay.
Như vậy có sáu cơ chế của hành vi sai lệch pháp luật việc nghiên cứu và
phân tích các cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong công tác phòng chống vi phạm pháp luật ở nước ta. Mọi
hành vi đều có nguyên nhân của nó, cơ chế của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp
luật chính là những nguyên nhân gây ra các hành vi vi phạm pháp luật. Nghiên
cứu phân tích tìm hiểu các cơ chế này sẽ giúp các cơ quan chức năng ngăn chặn
các hành vi từ nguyên nhân gốc rễ của nó nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra ở nước ta hiện nay và hoàn thiện một hệ thống
pháp luật chặt chẽ và đầy đủ nhất.