Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận căn cứ vào những tiêu chí nào để phân loại vấn đề xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.4 KB, 14 trang )

Họ và tên học viên:
Lớp:
Đề bài: Căn cứ vào những tiêu chí nào để phân loại vấn đề xã hội?
BÀI LÀM

Trong hoạt động thực tiễn, chính sách xã hội và những vấn đề xã hội đã tác
động vào quá trình phát triển xã hội. Nhiều nhà quản lý phối hợp với các nhà khoa
học nghiên cứu tìm kiếm các mô hình kinh tế - xã hội phát triển thích hợp, hạn chế
sự nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp. Những chính sách xã hội nào phản ánh
đúng hiện thực khách quan của đời sống xã hội, phù hợp với đặc điểm, điều kiện
kinh tế chính trị, xã hội của mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, sẽ góp phần
giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội nảy sinh và tạo nên sự phát triển bền
vững. Ngược lại, những chính sách xã hội nào bảo thủ, không phù hợp với thực
tiễn xã hội, không phản ánh đúng thực trạng đời sống nhân dân, sẽ gây nên những
hiệu quả nghiêm trọng và làm nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp trong tiến
trình lịch sử.
Trên cơ sở vấn đề xã hội, nhằm nắm bắt cho được trạng thái chất lượng của
xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô, ở bề mặt cắt hay tầng sâu tiềm ẩn, ở một thời gian
cụ thể và trong một không gian xác định với mục đích là thay đổi trạng thái đó theo
chiều hướng có lợi hơn và tiến bộ hơn.
Các vấn đề xã hội là những vấn đề gây tranh cãi liên quan đến cuộc sống cá
nhân và tương tác của người dân. . Các vấn đề xã hội được phân biệt với các vấn
đề kinh tế . Ngoài ra còn có các vấn đề gây tranh cãi rằng không rơi vào một trong
hai thể loại, chẳng hạn như cuộc chiến tranh. Các vấn đề như vậy thường liên quan
đến một xã hội cụ thể.
Khái niệm vấn đề xã hội: Vấn đề xã hội người ta chỉ những điều kiện và
kết quả xã hội ảnh hưởng xấu đến các nhóm và các loại thành viên xã hội
(thậm chí có thể là toàn bộ dân chúng) trong hoàn cảnh sống của họ, được
công luận hay một số bộ phận của công luận định nghĩa như là tất yếu phải
thay đổi và được biến thành biện pháp chính trị (so sánh với định nghĩa gần


1


tương từ của Stallberg, 1985). Như vậy, trong ngôn ngữ giao tiếp bằng khái
niệm này người ta muốn nói đến một loạt các điều kiện xã hội ở những dạng
hết sức khác nhau, thí dụ sự nghèo khổ, tình trạng tội phạm, thời gian rỗi, tình
trạng cô đơn, các rối loạn về tâm lý. Cả trong khoa học cho tới nay người ta
vẫn chưa nhất trí được về một định nghĩa chính xác của cái tạo nên vấn đề xã
hội. Những cố gắng đi đến một định nghĩa xuất phát từ Fuller/Myer (1941),
những người định nghĩa vấn đề xã hội như là tình trạng "được một số đáng kể
những người đánh giá là sự lệch lạc với những chuẩn bắt buộc" và qua thử
nghiệm của Merton ("Bộ phận cấu thành đầu tiên và làm nền tảng của một
vấn đề xã hội nằm trong sự khác biết căn bản giữa chuẩn mực được chấp
nhận về xã hội và những điều kiện xã hội đang tồn tại thực tế", 1971).
Fuller/Myer chú trọng vào sự nhận thức xã hội về sự sai lệch với các chuẩn
mực quy định, tức là cuối cùng chú trọng vào một thực trạng chủ quan, thì
định nghĩa của Merton bao gồm cả những trường hợp trong đó sự khác biệt
giữa chuẩn mực được chấp nhận về xã hội và những điểu kiện thực tế vừa
không được cả những người trong cuộc lẫn công luận không thừa nhận, tức là
không chỉ những vấn đề xã hội- "rõ ràng" mà cả những vấn đề xã hội "ẩn
dấu" mà các nhà xã hội học có nhiệm vụ chẩn đoán nó. Cả ở Kitsuse/Spector
cũng thấy sự nhấn mạnh các yếu tố chủ quan, khi mà họ xuất phát trừ những
tình trạng yếu kém và gắn sự tồn tại của những vấn đề xã hội với sự phát biểu
không hài lòng. Nhưng hoàn toàn khác với truyền thông, những vấn để xã hội
ở đây không còn nằm trong chính những tình trạng này, mà ở trong hoạt động
của các nhóm đang nói lên sự không hài lòng của mình và đòi hỏi có sự thay
đổi.
Vì lý do những phân biệt về mặt thuật ngữ như vậy có lẽ sẽ có ích nếu
cùng làm việc trong một khuôn khổ quy chiếu chung, nên không thể bỏ qua
một điều là mỗi một cách tiếp cận đã nêu đều có những mặt mạnh và cả

những điểm yếu riêng của nó (so sánh phê phốn lý luận nội tại, G.Albrecht,
1977).
Trong những năm gần đây cả trong những cuộc tranh luận bằng ngôn

2


ngữ Đức cũng có những nỗ lực nghiêm chỉnh nhằm khắc phục sự đối đầu
tương đối vô kết quả giữa những cách tiếp cận lý luận khác nhau. Vì mục đích
này người ta đã đề nghị giải pháp có tính quan điểm sau đây: Cái mà người ta
theo truyền thống và có thể tương đối ấu trĩ gọi là vấn' đề xã hội được gọi là
tình hình "có vấn đề" hoặc tình hình "có thể gây vấn đề" mà những nhóm bộ
phận trong sự khác biệt căn bản giữa chuẩn mực được chấp nhận về xà hội và
những điều kiện xã hội đang tồn tại thực tế", 1971) và đi đến điểm kết thúc
tạm thời ở Kitsuno/Spector (1973): "Chúng ta định nghĩa vấn đề xã hội là
hoạt động của các nhóm nói lên sự không hài lòng (gắn với những tình trạng
xấu) và đưa ra những yêu sách”.
Cả ở Kitsuse/Spector cũng thấy sự nhấn mạnh các yếu tố chủ quan, khi
mà họ xuất phát từ những tình trạng yếu kém và gắn sự tồn tại của những
vấn đề xã hội với sự phát biểu không hài lòng. Nhưng hoàn toàn khác với
truyền thông, những vấn đề xã hội ở đây không còn nằm trong chính những
tình trạng này, mà ở trong hoạt động của các nhóm đang nói lên sự không hài
lòng của mình và đòi hỏi có sự thay đổi. Như vậy vấn để xã hội trở thành
"phong trào xã hội" (Mauss, 1975) cũng như thành các trường hợp của hành
vi tập thể (Bhumer, 1971).
Vì lý do những phân biệt về mặt thuật ngữ như vậy có lẽ sẽ có ích nếu
cùng làm việc trong một khuôn khổ quy chiếu chung, nên không thể bỏ qua
một điều là mỗi một cách tiếp cận đã nêu đều có những mặt mạnh và cả
những điểm yếu riêng của nó (so sánh phê phán lý luận nội tại, G.Albrecht,
1977).

Trong những năm gần đây cả trong nhũng cuộc tranh luận bằng ngôn
ngữ Đức cũng có những nỗ lực nghiêm chỉnh nhằm khắc phục sự đối đầu
tương đối vô kết quả giữa những cách tiếp cận lý luận khác nhau. Vì mục đích
này người ta đã đề nghị giải pháp có tính quan điểm sau đây: Cái mà người ta
theo truyền thống và có thể tương đối ấu trĩ gọi là vấn đề xã hội được gọi là
tình hình "có vấn đề" hoặc tình hình "có thể gây vấn đề" mà những nhóm bộ
phận hoặc những hệ thống bộ phận xã hội riêng biệt (như các đối tượng các

3


nhà khoa học, các chính khách, dư luận quần chúng) dưới những điều kiện
nhất định có phản ứng lại tức là tạo nó thành vấn đề và như vậy đã xây dựng
nó thành vấn đề xã hội.
Sự hình thành các vấn đề xã hội
Khi quan sát sự phát triển xã hội ta thầy: Con số của những tình trạng
được coi là vấn đề xã hội trong những thập kỷ gần đây tăng lên rõ rệt và các
vấn đề xẫ hội chịu tác dộng của những biến đổi lịch sử. Một số vấn đề sau
nhiều năm vẫn được quan tâm, một số vấn đề khác biến mất để sau một thời
gian lại xuất hiện ở dạng đã biến đổi. Theo cách nhìn truyền thông chúng ta
có thể tìm nguyên nhân của sự mở rộng con số các vấn đề có thể là do tính
phức tạp xã hội ngày càng tăng, sự biến đổi về xã hội một cách đột ngột... đã
dẫn đến các hiện tượng như "sự phi tổ chức hoá về mặt xã hội", dẫn đến các
xung đột và khủng hoảng gây tác động trong quá trình mở rộng các vấn đề xã
hội "cũ" và hình thành "các vấn đề xã hội mới". Theo cách nhìn mới có kềt
quả hơn tuy không bác bỏ hoàn toàn những giải thích này, nhưng cùng đã mở
rộng thêm bằng các suy nghĩ thêm: chẳng hạn ngưòi ta đã đặt cầu hỏi là liệu
sự mở rộng những tình trạng được xem là vấn đề xã hội cũng có thể được hiểu
như là hệ quả của sự biến trị gây tác động ngược lại làm những tình trạng vẫn
tồn tại cho tới thời điểm đó do những thay đổi về giá trị giờ đây lại được coi là

"những tình trạng xấu", hoặc là từ trước đã được xem là "tình trạng xấu"
nhưng giờ đây lại được đánh giá có phê phán là những tình trạng không thể
tránh được và được nêu lên thành vấn đề.
Ngoài ra có thể thấy sự tăng tiến về mức độ giàu có của xã hội cũng đưa
đến việc một xã hội hoặc những lĩnh vực bộ phận của xã hội cảm thấy bây giờ
đây có đủ nguồn lực để tích cực giải quyết những tình hình nhất định và đưa
những qúa trình hình thành vấn đề vào cuộc.
Trong quá trình dân chủ hóa hoặc việc mở rộng chung cho các cơ hội tham
gia của mọi người, các nhóm xã hội với quyền lợi và cách nhìn của mình đã hội
nhập được với các phương tiện truyền thông xã hội và các thẩm cấp quyết định, mà
từ trước tới đây họ vẫn bị loại ra ngoài, vì thế mãi giờ đây họ mới có được những

4


cơ hội đưa quá trình hình thành vấn đề này vận động. Thậm chí phần nhiều có thể
chứng minh được là các cấp thẩm quyền Nhà nước về phần mình cũng hình thành vấn
đề từ các tình trạng nhất định và biến thành những vấn đề xã hội mới cũng có thể là
trên cơ sở các dự thảo chính sách dài hạn nhằm tránh những khó khăn trầm trọng
nhưng cũng có thể là vì các mục đích tạo dựng niểm tin (chính trị như là nghi lễ).
Các tiếp cận giải thích những vấn đề xã hội
Một phân tích khoa học các vấn đề xã hội như vậy phải nghiên cứu quá
trình hình thành vị trí vấn đề, xây dựng vấn đề/vấn đề hoá và sự can thiệp vào
vấn đề. Những công trình lý luận thực nghiệm cho tới nay về những mối liên
hệ phức tạp này trên nguyên tắc đi đến kết quả là đối với sự giải thích ba khối
vấn đề khác nhau ở trên phải xây dựng được những lý luận khác nhau tương
ứng, sao cho một "lý thuyết của các vấn đề xã hội" trong mọi trường hợp có
thể có là một dây xích kết nối của các lý thuyết bộ phận thông qua những khái
niệm cầu nối nhất định. Nếu được như thế, thì khi đó sẽ nảy sinh câu hỏi là
liệu còn có ý nghĩa gì không nếu ta làm việc với phạm trù "vấn đề xã hội".

Theo Steinert bác bỏ khái niệm "vấn đề xã hội" vì với tư cách là công
cụ phân tích lý luận nó là vô dụng, vì nó một phần vô hại hoá các tình trạng,
một phần lại kịch tính hoá chúng và trước tiên là đưa đến một mô hình phi
lịch sử và phi đặc thù về xã hội và đồng thời phê phán những người cố gắng
phát triển của một lý thuyết các vấn đề xã hội là một cố gắng như vậy rất trừu
tượng và không có giá trị thực tiễn; như vậy sự phê phán này về cơ bản dành
cho mọi định nghĩa lý thuyết. Nhưng điều trước tiên là những thuật ngũ đề ra
như là để thay thế những khái niệm tốt hơn như "mâu thuẫn", "chiến lược tư
bản" hoặc "can thiệp của Nhà nước" hoàn toàn chẳng kém trừu tượng hoặc
đã "lỗi thời".
Cách tiếp cận cũ giải thích hiện tượng xã hội như là những hiện tượng
bệnh lý học xã hội, sẽ phi tổ chức hoá, hay xung đột về giá trị. Cách tiếp cận
bắt nguồn từ truyền thống tư duy của thế kỷ 19 và có thiên hướng về loại suy
tổ chức của bệnh lý học xã hội lại hiểu vấn đề xã hội như là những vi phạm đối
với kỳ vọng về đạo đức và lí giải chúng bởi quá trình xã hội hoá không thành

5


công. Và quá trình này lại được giải thích theo di truyền ở những công trình
mide kìa và bằng các điều kiện xã hội bệnh lý ở các công trình sau này. Do
những phản bác mạnh mẽ về phương pháp luận chống lại cao khái niệm như
"sức khoẻ của xã hội" và chống lại các tiêu chuẩn mang nàng tính chất đánh
giá giá trị đốỉ với "sức khoẻ" và "tính chuẩn" không đủ mạnh nên rất bất ngờ
là ta vẫn có những công trình gắn bó với cách tiếp cận này.
Các tiếp cận phổ biến nhất trong xã hội học của các vấn đề xã hội và
ngày nay vẫn còn được vận dụng là bắt nguồn từ lý thuyết về sự phi tổ chức
hoá xã hội. Theo đó các vấn đề xã hội là kết quả trực tiếp của sự phi tổ chức
hoá xã hội đặc trưng bởi sự thất bại của các quy tắc. Việc thất bại này của các
quy tắc được lý giải thông qua các quá trình biến đổi xã hội nhanh chóng và

toàn diện gây ra hoặc đi liền vói những đổi thay về công nghệ, dân số và văn
hoá. Sự phi tổ chức hoá về xã hội đã tạo ra những tình trạng phi tổ chức hóa
về nhân sự và mất cân bằng về xã hội được thấy rõ qua hành vi của những
ngưòi hành động bị tác động hàng loạt bởi vấn dề xã hội hoặc ảnh hưởng tới
chúng.
Rõ ràng là cần phải nêu lên những hạn chế về phương pháp luận cũng
chống lại quan điểm lý luận này. Những hạn chế nói chung được phát biểu
chống lại lý thuyết hệ thống chức năng: Sự xây dựng khái niệm quá lỏng lẻo
để phân tích toàn bộ các hệ thống xã hội; sự thiếu khả năng xác định chính
xác các điểu kiện cân bằng và do đó không phân biệt được giữa sự thay đổi về
xả hội ("bình thường") và sự phi tổ chức hoá về xã hội; sự pha trộn giữa phân
tích khoa học với đánh giá về tư tưởng; các vấn đề đánh giá hiện tượng liên
quan tới các hệ quả và chức năng của chúng (xem cuộc tranh luận về những
chức năng "tích cực" của tội phạm, mại dâm, nghèo khổ...
Liên hệ với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề xã hội hiện nay
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp
lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Những vấn
đề xã hội Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển
của con người và xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm,

6


giáo dục và y tế, đạo đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã
hội của đời sống cá nhân và cộng đồng.
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do vị trí của
con người trong xã hội quy định. Song, do địa vị của con người ở mỗi chế độ
xã hội khác nhau là không giống nhau, cho nên vai trò, bản chất của các vấn đề
xã hội cũng khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm
thuê, mục tiêu của chủ nghĩa tư bản là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai

cấp tư sản. Để đạt tới mục tiêu đã được xác định, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ
trương, giải pháp về các vấn đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như coi
trọng giảm nhẹ sự bất bình đẳng trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng
trong xã hội. Tuy nhiên, những mặt tiến bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản là xã hội hoá của sản xuất và chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người làm chủ, con người được coi là vốn quý nhất, mục tiêu phục vụ của chủ
nghĩa xã hội là nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Do vậy, nhà nước xã
hội chủ nghĩa luôn tạo ra những khả năng khách quan để thủ tiêu tình trạng người
bóc lột người, cải thiện không ngừng các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề cho sự
phát triển của cá nhân, của người lao động để họ tự giác tham gia có hiệu quả các
hoạt động sống, cũng như xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người,
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và
lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta
luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã
hội. Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải giải
quyết tốt những vấn đề xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền
vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường vững
chắc…. Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa
giữ được ổn định xã hội, không có những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh
hưởng đến việc huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát triển bền
vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà nhập vào nhau. Mục

7


tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội
như vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo….. thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân
dân, công bằng xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo

động lực phát triển kinh tế. Đó chính là sự khác nhau căn bản về mục tiêu phát
triển giữa con đường chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta
lựa chọn….
Trên cơ sở nhận thức mới về vai trò của các vấn đề xã hội, mở đầu công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ “Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là
mục đích của các hoạt động kinh tế”. Đến Đại hội VII (1991), sau khi xác định
được những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng, Đảng ta đã nêu lên định hướng lớn “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh
phúc con người là động lực to lớn phát triển mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở định hướng ấy, Đảng ta đã chính
thức khẳng định một số quan điểm chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể là: Mục tiêu của chính sách xã hội
thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố
con người và vì con người. Kết hợp hài hoà giữa kinh tế với phát triển văn hoá, xã
hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời
sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện
chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế. Đến Đại hội VIII (1996) Đảng ta đã bổ sung một quan điểm quan trọng là
“Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Đồng thời, Đảng đã đề ra những
quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống chính sách xã hội, đó là:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện
ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở
việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình.

8



Thứ hai, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các
vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”,
“đền ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu, thủy chung”...
Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần
xã hội. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham
gia giải quyết những vấn đề xã hội. Đại hội IX của Đảng không nhắc lại các quan
điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, nhưng nhấn mạnh “Thực hiện các chính sách xã
hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong
phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm
giàu hợp pháp” và “Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội
hoá, đề cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn
lực trong nhân dân, các tổ chức xã hội”. Đồng thời Đại hội IX cũng chỉ ra
những nhiệm vụ, mục tiêu của từng lĩnh vực cụ thể cần tập trung giải quyết
trong những năm tới là: giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
chính sách xã hội; Tiền lương và thu nhập; xoá đói, giảm nghèo; đền ơn đáp
nghĩa; uống nước nhớ nguồn; xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội; chính sách dân
số; chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chính sách chăm sóc và
bảo vệ trẻ em; phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao; phong trào toàn
dân đấu tranh phòng chống tội phạm...
Trên cơ sở khái quát những thành tựu và hạn chế của 30 năm đổi mới, trong
đó có thành tựu và hạn chế của việc xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, Đại

hội XI của Đảng khẳng định quan điểm: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các

9


mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và
nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho
phát triển kinh tế xã hội…. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”.
Nội dung chủ yếu của quan điểm Đại hội XI là:
Thứ nhất, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, trên
bình diện cả nước cũng như từng lĩnh vực, địa phương. Sự kết hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội được xác định ở tất cả các cấp, các ngành không
chỉ ở Trung ương mà từng ngành, từng địa phương, tạo thành sự thống nhất trong
chính sách kinh tế và chính sách xã hội của địa phương, ngành và cơ sở. Sự kết
hợp này bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi
vùng miền, khắc phục tình trạng phân hoá, bất bình đẳng do các khuyết tật của cơ
chế thị trường và những phát sinh do nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi gây
ra.
Thứ hai, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan điểm được
xác định từ Đại hội XIII, Đại hội XI khẳng định, cần phải thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển. Điều đó được thể hiện qua
các nội dung sau:
- Thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Một vấn đề có tính
quy luật là chỉ có trên cơ sở phát triển kinh tế mới có điều kiện để làm tốt chính
sách xã hội. Như vậy, yêu cầu này nhằm nhấn mạnh phải tập trung phát triển kinh
tế, một nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội, không chỉ

đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế mà còn thúc đẩy kinh tế phát
triển. Sự gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ là vấn đề có
tính nguyên tắc trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà ta đang xây dựng là do nhân dân
thực hiện. Nhà nước chỉ tạo điều kiện và môi trường để nhân dân bằng lao động
của mình không ngừng nâng cao đời sống cho mình và tham gia vào sự phát triển

10


của xã hội. Gắn nghĩa vụ với quyền lợi cống hiến với hưởng thụ là bảo đảm sự
công bằng trong đời sống xã hội, chống ỷ lại, trông chờ, thụ động.
- Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con
người (HDI). Từ điểm xuất phát thấp, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải rất quan tâm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Vì vậy, coi trọng chỉ tiêu tăng trưởng GDP là rất cần thiết. Mặt khác,
mục tiêu phát triển kinh tế là để phục vụ con người, để con người phát triển toàn
diện. Chỉ tiêu HDI liên quan trực tiếp đến các mức độ đáp ứng các nhu cầu xã hội
của con người đến chất lượng cuộc sống. Tăng trưởng GDP là cơ sở để thực hiện
chiến lược con người và các chính sách xã hội. Vì vậy, Đại hội X xác định yêu
cầu coi trọng chỉ tiêu GDP phải gắn liền với chỉ tiêu con người HDI trong suốt quá
trình phát triển và trong từng chính sách kinh tế- xã hội. Từ thực tiễn xây dựng đất
nước trong những năm qua, nhằm từng bước thực hiện quan điểm của Đảng để xây
dựng và phát triển các vấn đề xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, chúng ta cần đồng thời triển khai thực hiện các chủ trương và giải pháp
lớn như sau:
Trước hết là khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện
có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Với nội dung này, trong những
năm tới cần thực hiện các yêu cầu là tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng
nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên xoá đói

giảm nghèo bền vững ở các vùng, khắc phục tình trạng bao cấp dàn đều, tư tưởng
ỷ lại, phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh hộ giàu, từng
bước xây dựng gia đình cộng đồng và xã hội phồn vinh. Tạo được động lực làm
giàu trong đông đảo các tầng lớp dân cư, khuyến khích những người đã thoát
nghèo mạnh dạn vươn lên làm giàu và giúp những người khác sớm thoát khỏi hộ
nghèo. Xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo sát với điều kiện cụ thể của
từng địa phương, dành nguồn ưu tiên hỗ trợ các vùng xa, khó khăn, có nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số. Giảm dần chênh lệch về phát triển kinh tế và đời sống của
nhân dân giữa các vùng, miền và các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến năm 2010

11


giảm 1/2 tỷ lệ nghèo theo Chuẩn quốc tế so với năm 2000. Giảm 3/4 tỷ lệ nghèo
về lương thực, thực phẩm so với năm 2000. Giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm
2000 theo chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia.
Thứ hai, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch
vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo
việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng hệ
thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đadạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo
việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao;
Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương; Phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp
lý để tạo được động lực phát triển mạnh, góp phần phòng chống tiêu cực, tệ nạn xã
hội; Tăng nguồn lực đầu tư của nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và thực
hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, coi đây là một chính
sách có tính chiến lược, nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần
kinh tế, của các tổ chức xã hội, của mọi người.
Thứ ba, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi
người dân được chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới

y tế cơ sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân. Đổi mới cơ chế khám, chữa bệnh. Nhà nước tăng đầu tư, nâng cao mức và
chất lượng chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho toàn dân, quan tâm nhiều hơn nữa cho
các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa, hộ
nghèo. Chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển
đa dạng, các dịch vụ y tế ngoài công lập. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Có chiến lược, quy hoạch phát triển và cơ chế chính sách hợp lý để phát triển
hệ thống sản xuất, lưu thông, phân phối thuốc chữa bệnh, từng bước xây dựng
ngành công nghiệp dược, ngành công nghiệp thiết bị y tế trở thành ngành kinh tếkỹ thuật đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Thứ tư, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con
người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Cụ thể, phát triển

12


mạnh thể dục thể thao với phương châm kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao
thành tích cao, dân tộc và hiện đại, chú trọng phát triển thể dục thể thao trường
học, nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng. Có chính sách và
cơ chế cần thiết để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao phù hợp với
điều kiện và tố chất người Việt Nam, đưa nền thể thao nước ta tới vị trí cao của
khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và quốc tế ở những bộ môn thể thao
mà Việt Nam có ưu thế. Nghiên cứu xây dựng và tuyên truyền hướng dẫn chế độ
dinh dưỡng trong cơ cấu bữa ăn phù hợp với lứa tuổi. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ
sinh sản. Đẩy mạnh phong trào xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo
điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển
hài hoà về trí tuệ, đạo đức, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Đẩy mạnh
công tác bảo vệ giống nòi, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thực hiện các giải pháp mạnh
mẽ, kiên trì và có hiệu quả để phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
Thứ năm, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Cụ

thể là giảm tốc độ dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh, phấn đấu sớm đạt
mục tiêu mức sinh quy định, đảm bảo quy mô và cơ cấu dân số hợp lý. Nâng cao
chất lượng dân số. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây
dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi
người, là tế bào lạnh mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách của con người, bảo tồn nuôi dưỡng và giáo dục
nhâncách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ sáu, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Cụ thể là thực hiện tốt
chính sách xã hội đối với người có công, gia đình thương binh liệt sỹ như vấn đề
nhà ở, khám chữa bệnh và điều dưỡng phục vụ sức khoẻ, các chính sách ưu tiên
trong giáo dục, vấn đề trợ cấp cho những người có công với cách mạng. Vận
động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối
với các lão thành cách mạng, người có công với nước, người được hưởng chính

13


sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già. Giúp đỡ nạn
nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi.
Thứ bảy, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng cụ thể là phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ
công cộng, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của
các đơn vị công lập và huy động mạnh mọi nguồn lực của xã hội. Nhà nước tiếp
tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cơ sở vật chất- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi
chung cho toàn xã hội... Quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng đồng bảo
dân tộc thiểu số. Từng bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang
hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự
chủ, không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận. Công khai mức phí tại

các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập. Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài
công lập về dịch vụ công cộng cả về quy mô và chất lượng.
Các vấn đề xã hội có vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thức mới của Đảng ta về những vấn đề xã hội thể
hiện ở hệ thống quan điểm, giải pháp về xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội,
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quán triệt để vận dụng quan
điểm, giải pháp trên vào thực tiễn là yêu cầu quan trọng hiện nay để đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trở thành hiện thực.

14



×