Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận nêu quan điểm của émile dukheim về tôn giáo và từ đó rút ra những hiểu biết của cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.49 KB, 13 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO

Đề bài:
Nêu quan điểm của Émile Dukheim về tôn giáo và từ đó rút ra
những hiểu biết của cá nhân?

Họ và tên:
Lớp:
Mã số học viên:
Khoa:
Trường:

1. Quan điểm của Durkheim về tôn giáo
1


1.1.Định nghĩa tôn giáo của Emile Durkheim
Định nghĩa về tôn giáo là một vấn đề gây tranh cãi trong xã hội học tôn giáo
đương đại.
- Tylor: tôn giáo là niềm tin vào đấng siêu nhiên
- P. Berger: tôn giáo là sản phẩm của con người qua đó vũ trụ linh thiêng được
thiết lập
- Spiro: tôn giáo là một thiết chế bao gồm tương tác được khuôn mẫu về mặt
văn hóa với đấng siêu nhiên được thừa nhận về mặt văn hóa
- Lenski: tôn giáo được định nghĩa là một hệ thống tín ngưỡng về các thế lực
của tự nhiên sắp đặt số phận của con người và các hoạt động liên quan tới
điều đó, được chia sẻ bởi các thành viên trong nhóm.
- Yinger: tôn giáo là một hệ thống những niềm tin và thực hành mà nhờ đó các
nhóm người đương đầu với các vấn đề tối hậu/ cơ bản của cuộc sống.
- R. Bellah “tôn giáo là một tập hợp các hình thức biểu tượng và các hành


động, chúng nối kết con người với những điều kiện tối hậu của sự tồn tại.
- …
M.Southwold: đưa ra 12 tiêu chuẩn để xác định một hiện tượng có phải là tôn giáo
hay không, bao gồm:
1. Mối quan tâm đến các thực thể giống như thượng đế và quan hệ con
người với thượng đế
2. Phân đôi thế giới thành cái thiêng và cái trần tục, đặc biệt quan tâm đến
cái thiêng
3. Hướng về sự cứu rỗi khỏi những điều kiện sinh tồn thường ngày
4. Thực hành nghi lễ
5. Có những niềm tin vốn không thể chứng minh được về thức nghiệm
nhưng phải giữ bằng một đức tin.
6. Một bộ quy tắc đạo đức được các niềm tin hỗ trợ
7. Những trừng phạt siêu nhiên đối với sự vi phạm bộ quy tắc đó
8. Có hệ thống các câu chuyện mang tính huyền thoại về nguồn gốc của
vũ trụ hay loài người
9. Có giới thầy tu hoặc tăng lữ - những tầng lớp chuyên gia về tôn giáo
(những người có thể tiếp xúc với thần linh)
10. Có mối liên hệ với 1 cộng đồng đạo đức
11. Có mối liên hệ với một nhóm tộc người nào đó (Đạo Hồi chủ yếu ở
Trung Đông, Inddooneexxia, ….)
12. Có hệ thống văn bản được in hoặc truyền miệng.
Qua đó có thể thấy rằng, tôn giáo là một chủ đề được nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu, trong đó có nhà xã hội học. Xã hội học tôn giáo tập trung nghiên
cứu những hành vi xã hội có liên quan đến hoạt động tôn giáo, hoặc trực tiếp được
quyết định bởi hình thức và nội dung của tôn giáo. Chuyên ngành này chia thành
các trường phái khác nhau. Nếu như trường phái xã hội học tôn giáo các nước Anh,
Pháp tập trung nghiên cứu tôn giáo trong xã hội nguyên thủy, thì xã hội học tôn
2



giáo các nước Đức, Mỹ lại chú trọng nghiên cứu tôn giáo trong xã hội văn minh và
xã hội công nghiệp hiện đại. 1
Durkheim là một trong số những nhà xã hội học sáng lập ra bộ môn khoa học
này. Ông nổi tiếng với quan điểm cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là
sự kiện xã hội. Các công trình nghiên cứu của Durkheim có tầm ảnh hưởng lớn đến
tư duy xã hội học. Ông có đóng góp cho nhiều lĩnh vực, trong đó có xã hội học tôn
giáo.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đương thời, nhà xã hội học người Pháp này nhận
thấy tôn giáo đang giảm dần tác dụng của nó, đặc biệt so với thời kỳ trung cổ khi
mà tôn giáo có những tác động rất lớn giúp hợp nhất Châu Âu. Chính mối bận tâm
này đã khiến ông bắt tay vào việc nghiên cứu tôn giáo nhằm góp phần tìm ra lời
giải đáp cho câu hỏi rất cấp thiết: “Có phải tôn giáo suy tàn đồng nghĩa với xã hội
tan rã?”.
Trung thành với Các quy tắc của phương pháp xã hội học (1895) của mình,
Durkheim muốn xác định phạm vi của nghiên cứu khoa học về các hiện tượng tôn
giáo khi đưa ra một định nghĩa về tôn giáo. Định nghĩa này được kết nối với sự xây
dựng từng bước khái niệm linh thiêng ở ông và các học trò của ông, dựa trên sự
phân biệt giữa cái linh thiêng và cái phàm tục. “Mọi tín ngưỡng tôn giáo đã được
biết đến, cho dù là đơn giản hay phức hợp, đều có một đặc điểm chung: chúng giả
định một sự phân loại của các sự vật hiện thực hay ý tưởng mà con người thể hiện
thành hai giai cấp, hai giới đối lập nhau, được chỉ định theo cách chung bởi hai
thuật ngữ khác nhau mà các từ phàm tục và linh thiêng thể hiện khá rõ”(les formes
élémentaires de la vie religieuses (1912), Quadrige, PUF,1985, p. 50).
Emile Durkheim cho rằng:
“Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và những
thực hành liên quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là được tách biệt, cấm
đoán. Những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng
đồng tinh thần, được gọi là giáo hội.”2
Định nghĩa của E. Durkheim vừa là một định nghĩa bản thể (nhấn mạnh cái linh

thiêng) vừa là một định nghĩa chức năng (chức năng liên kết của tôn giáo). Định
nghĩa này cho thấy tôn giáo với tư cách là một hệ thống thống nhất gồm các niềm
tin và hành động nghi lễ đối với những thứ được kiêng thờ thần thánh hóa tạo
thành một cộng đồng đạo đức cá nhân theo tôn giáo đó cảm thấy có sức mạnh hơn
để chịu đựng và vượt qua khó khăn của cuộc sống cho dù nhiều khi cách thức hành
động của họ chỉ giới hạn trong phạm vi tinh thần ý thức. Như vậy trong định nghĩa
của mình, E.Durkheim đã chỉ ra được tôn giáo là hệ thống tín ngưỡng và thực hành
tín ngưỡng, đồng thời ông cũng chỉ ra rất rõ ràng chức năng tôn giáo là đoàn kết xã
hội. Đây được đánh giá là một trong những định nghĩa tiêu biểu của xã hội học về
tôn giáo.
Lê Tâm Đắc, Tôn giáo học phải chăng là một chuyên ngành của Triết học ? (Qua thực tế đào tạo sau đại
học ở Việt Nam hiện nay), Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2, năm 2009.
2
EMILE DURKHEIM, Những vấn đề nhân học tôn giáo, dịch giả: Đào Hùng (Đà Nẵng: Đà Nẵng,
2006), trang 60.
1

3


Cách tiếp cận của Durkheim được coi là lý thuyết về cái linh thiêng và coi nó
như là sự siêu việt hóa của tình cảm tập thể. Tôn giáo là tình cảm tập thể, nhận
định này là sai lầm khi coi nó như một hiện thực tự nó. Xã hội gợi ra ở các cá nhân
của nó cái tình cảm phụ thuộc và tôn trọng. Nó là cái gene tôn giáo của xã hội. Khi
coi tính tôn giáo như một chiều cạnh vốn có của xã hội, ông nhấn mạnh vào chức
năng quan trọng của tính tôn giáo. Đó là chức năng tích hợp xã hội và xác nhận trật
tự xã hội.
Như vậy, Định nghĩa về tôn giáo của Emile Durkheim đã thể hiện được hai ý :
+ Các yếu tố cấu thành: những tín ngưỡng, thực hành liên quan đến sự vật thiêng
+ Chức năng tôn giáo: liên kết xã hội

Nhưng việc định nghĩa tôn giáo bằng cái linh thiêng, theo Durkheim, năm 1899,
cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề. Câu hỏi “liệu hai khái niệm này có thể thay thế
cho nhau?” luôn tác động đến môn xã hội học về các tôn giáo. Với Durkheim, ông
coi chúng là tương đương với nhau khi bảo vệ chính đề về tính phổ quát của cái
linh thiêng và khu biệt nó theo cách khá hình thức.
1.2.Quan điểm về niềm tin và nghi lễ tôn giáo của Emile Durkheim
Nghi lễ tôn giáo là nền tảng, thậm chí sáng tạo ra niềm tin đi cùng với nó. Tôn
giáo và xã hội luôn cần tới nghi lễ. Nội dung tri thức của niềm tin tôn giáo có thể
thay đổi nhưng nhu cầu về nghi lễ là bất biến, là nguồn gốc của sự thống nhất.
Cái thiêng thường xuyên được đặt sang một bên như là cái cao hơn, có uy quyền
hơn và bị ngăn cấm đối với các liên hệ bình thường, và xứng đáng được kính
trọng. Cái trần tục đối lập lại: chúng thuộc về cái thông thường, không biến đổi và
là lệ thường trong cuộc sống hàng ngày.
“Những vật linh thiêng là những vật được bảo vệ và cách ly bằng những cấm kỵ;
những vật phàm tục, là những vật không được áp dụng các cấm kỵ này và chúng
phải giữ khoảng cách với các vật linh thiêng. Những tín ngưỡng tôn giáo là những
biểu trưng thể hiện bản chất của các vật linh thiêng và các quan hệ mà chúng duy
trỳ hoặc là giữa các vật linh thiêng, hoặc là với các vật phàm tục. Cuối cùng, các
nghi lễ là các quy tắc ứng xử cụ thể hóa cách ứng xử của con người với các vật
linh thiêng ra sao” (les formes élémentaires de la vie religieuses (1912, tr.36.)
Ví dụ như, Đạo Hồi kiêng ăn thịt heo. Mỗi tôn giáo đều có những giáo điều và
qui luật riêng. Đạo hồi Muslim kiêng ăn thịt heo vì cho rằng con heo là loài dơ bẩn.
Theo Thánh Ala và kinh của đạo Hồi dạy rằng lúa gạo là hạt ngọc của Trời cho, vì
vậy người Đạo Hồi không dùng đũa hay muỗng để xúc và gắp lấy thức ăn, vì như
vậy là không tôn trọng hạt ngọc của Thánh Ala. Và người đạo Hồi ăn cơm là bốc
bằng tay để tôn kính hạt gạo. Sau này người theo đạo Hồi biết ăn bốc là ngược với
cả thế giới cho nên trong bữa ăn người ta đóng cửa sợ người ngoài thấy. Đạo Hồi
khuyến cáo nên ăn thịt bò trong khi Ấn Độ giáo lại thờ Bò xem bò như là mẹ,
người Hindu chỉ ăn thịt heo mà không được ăn thịt bò, chỉ được lấy sữa bò làm
thực phẩm. Đi ngoài đường gặp bò thì hôn vào đuôi nó, xe cộ đều phải tránh bò.

Như vậy, thịt heo, lúa gạo,… là vật linh thiêng của Đạo Hồi, cũng như thịt bò là vật
linh thiêng của Ấn Độ giáo.
4


Thay vì định nghĩa cái linh thiêng theo cách thay thế, Durkheim đặc trưng nó
bằng cách đối lập nó với cái phàm tục. Tôn giáo là cái, theo cách này hay cách
khác, tạo ra một khoảng cách với những sự vật thông thường, với đời sống hàng
ngày. Nó chỉ ra cái hình thái nào đó của thế giới bên kia mang tính tiên nghiệm hay
siêu nghiệm, hơn là hiện thực nào khác- sự khác biệt mà nó tạo ra chính là tôn giáo
hay khả năng của nó tách cái gì đó ra khỏi cái phàm tục. Durkheim từ chối định
nghĩa tôn giáo bằng cái “siêu nhiên” hay bằng ý tưởng về “thần linh”.
Emile Durkheim đặc biệt nhấn mạnh đến quyền lực ưu việt của xã hội vượt quá
tất cả các thành viên hợp sức hình thành. Ông xem xã hội như một hệ thống phức
tạp gồm nhiều bộ phận tương thuộc vẫn còn ổn định tương đối qua thời gian dài.
Thậm chí, Durkheim còn nhìn nhận xã hội “giống như thần” so với những cá thể là
các tín đồ của mình.3
Emile Durkheim nhận diện các hiện tượng tôn giáo qua ba đặc tính căn bản sau:
niềm tin, lễ nghi và giáo hội. Trước hết, nghi thức chỉ có thể được xác định và phân
biệt với những thực hành thường nhật của con người, bằng bản chất đặc biệt của
đối tượng niềm tin. Chính trong niềm tin mà bản chất của đối tượng được biểu
hiện. Khi bàn về niềm tin, ông cho rằng các tôn giáo dù đơn giản hay phức tạp luôn
có cùng điểm chung ở điểm phân loại sự vật. Sự vật thường được phân biệt nhau
thành hai thế giới khác biệt được biết với hai tên gọi: “trần tục” (profain) và
“thiêng liêng” (sacred).4
Những gì được hiểu là trần tục bao hàm tất cả mọi thứ thông thường của đời
sống. Trái lại, những vật thiêng liêng ám chỉ những gì được định cho là phi thường,
tạo cảm giác kính sợ hay sùng kính. Đây chính là nền tảng cho niềm tin tôn giáo
trong lịch sử con người.5
Ví dụ: Cơ Đốc giáo lấy biểu tượng linh thiêng là cây thập tự, nơi mà Chúa Jesu

đã bị hành hình bằng cách đóng đinh lên đó. Đây cũng là biểu hiện niềm tin vào sự
thần thánh của Chúa Jesu đối với tất cả tín đồ Cơ Đốc giáo. Trong khi đó Hồi giáo,
thông qua đấng tiên tri là Mohammad - người ghi lại lời của thánh Allah - một vị
thánh của Hồi giáo thể hiện những lời răn này trong quyển Kinh Koran. Vì thế đối
với tín đồ Hồi giáo, kinh Koran rất linh thiêng như lời răn dạy của thánh. Việc tín
đồ nghiền ngẫm và phần lớn phải học thuộc lòng kinh Koran là biểu hiện cho đức
tin của họ. Là một trong những hệ tư tưởng thuộc về lịch sử tôn giáo, việc phân
biệt cái thiêng với cái trần tục (cái phàm) hay cái thiêng với tín ngưỡng nhằm nắm
bắt được thực chất, nội hàm của từng hiện tượng tôn giáo cụ thể.
Các vật thiêng (vật tổ) ấy không những ám chỉ về thượng đế hay ma quỷ mà còn
dùng cho bất kể vật nào, miễn sao nó được con người gán thêm cái thiêng liêng

RICHARD T.SCHAEFER, Xã hội học, dịch giả: Huỳnh Văn Thanh (Sài Gòn: Thống Kê, 2003), trang
489-490.
4
EMILE DURKHEIM, Những vấn đề nhân học tôn giáo, dịch giả: Đào Hùng (Đà Nẵng: Đà Nẵng,
2006), trang 49.
5
JOHN&MACIONIS, Xã hội học. Sài Gòn: Nxb. Thống Kê, 1987, trang 521.
3

5


vào.6 Cuối cùng, Durkheim cho thấy ranh giới giữa tôn giáo và ma thuật rất mong
manh do bởi cả hai đều giống nhau ở hai đặc tính: niềm tin và nghi thức.7
Với tư cách là kinh nghiệm về cái linh thiêng, tôn giáo cũng không thể tách rời
kinh nghiệm về cộng đồng: tôn giáo tạo ra những tập hợp người, nên nó cũng đồng
thời mang tính tập thể. Đó cũng chính là cái phân biệt tôn giáo với ma thuật.
Chính vì vậy, ông cho rằng tính liên kết trong giáo hội là đặc tính thứ ba, một

điểm quan trọng giúp phân biệt tôn giáo với ma thuật. Thực tế, các tôn giáo luôn
bao hàm một cộng đồng chung giúp gắn bó những tín đồ của nó qua những nghi
thức được cử hành chung với nhau.8
Emile Durkheim nhìn nhận hoạt động của tập thể chính là yếu tố quan trọng chi
phối đời sống tôn giáo. Khi đề cập đến vấn đề này, Durkheim đưa ra lý do để lý
giải cho vai trò ưu việt của phụng tự trong tôn giáo. Ông cho rằng xã hội chủ yếu là
do có sự hợp tác giữa các thành viên và nó chỉ cho thấy nó hoạt động tốt khi các cá
nhân tụ họp và cùng nhau hoạt động. Ngay cả các ý nghĩa và tâm tình tập thể thì
cũng nhờ những phong trào biểu thị chúng từ bên ngoài. Theo cách nhìn nhận này,
hoạt động là yếu tố chi phối đời sống tôn giáo với lý do là nó bắt nguồn từ xã hội.9
Thứ đến, Durkheim cho thấy lý tưởng tôn giáo chỉ là sản phẩm của đời sống xã
hội. Lý tưởng tôn giáo sở dĩ được hình thành là vì khi đạt đến một mức độ nào đó,
đời sống tập thể sẽ khơi dậy tư duy tôn giáo. Nói cách khác, quá trình hình thành lý
tưởng không có gì là thần bí vì chúng bị phụ thuộc vào các điều kiện mà con người
có thể tri nhận. Một cách cụ thể, đây chỉ là một sản phẩm của đời sống xã hội. Sở
dĩ có thể kết luận như vậy là do đời sống tập thể sẽ khiến cho đạo đức được đề cao
và sau đó được diễn dịch thành lý tưởng. Lý tưởng này được phác họa trong một
đời sống mới, hay một thế giới chỉ hiện hữu trong tư duy con người nhưng được
gán cho một phẩm vị thần thiêng nào đó.10
Lý tưởng niềm tin tôn giáo không chỉ có nền tảng từ xã hội mà còn là lý tưởng
của tập thể. Lý tưởng tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội vì khả năng bẩm sinh con
người không thể tạo ra lý tưởng. Đúng hơn, con người hình dung ra lý tưởng nhờ
thâu nhận trong lớp học của đời sống tập thể. Chính xã hội đã truyền cho con
người ý thức phải hướng lên một thế giới lý tưởng. Có thể nói, thế giới mới này
chính là do xã hội dựng lên khi tự xây dựng chính nó. Nói cách khác, một xã hội
không khi nào tự tạo ra chính mình mà không đồng thời tạo ra lý tưởng của nó; thế
nên tôn giáo đang diễn tả chính lý tưởng xã hội.11
Durkheim đã thay thế chữ thần linh bằng tên gọi “thực thể tâm linh” để có thể có
một cách hiểu đầy đủ hơn. Thực thể tâm linh được ông định nghĩa là “những vật có
EMILE DURKHEIM, Những vấn đề nhân học tôn giáo. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2006, trang 49.

EMILE DURKHEIM, Những vấn đề nhân học tôn giáo, dịch giả: Đào Hùng (Đà Nẵng: Đà Nẵng,
2006), trang 55.
8
EMILE DURKHEIM, Những vấn đề nhân học tôn giáo, dịch giả: Đào Hùng (Đà Nẵng: Đà Nẵng,
2006), trang 56.
9
KARL-HEINZ WEGER, Phê bình tôn giáo qua các tác giả, dịch giả: không rõ (Sài Gòn: Đại chủng
viện thánh Giuse, 1991), trang 194-195.
10
KARL-HEINZ WEGER, Phê bình tôn giáo qua các tác giả, dịch giả: không rõ (Sài Gòn: Đại chủng
viện thánh Giuse, 1991), trang 196-197.
11
KARL-HEINZ WEGER, Phê bình tôn giáo qua các tác giả, dịch giả: không rõ (Sài Gòn: Đại chủng
viện thánh Giuse, 1991), trang 196-198.
6
7

6


ý thức, cao hơn con người binh thường; sự đánh giá đó phù hợp với linh hồn
người chết, thần linh, ma quỉ cũng như với thượng đế. Tôn giáo được coi như có
mục đích là điều hòa quan hệ giữa con người và những vật thể đó, và chỉ có thể có
tôn giáo khi cầu kinh, hiến tế và lễ cầu phúc… Đó là định nghĩa do thói quen tư
duy của con người có được từ giáo dục tôn giáo. Để lý giải những sự kiện không
thể vận dụng định nghĩa trên những vẫn thuộc về tôn giáo, ông đưa ra quan niệm
về tôn giáo vô thần với ví dụ về Phật giáo. Ông cho rằng Phật giáo “vô thần theo
nghĩa nó không quan tâm đến vấn đề có hay không có thượng đế”, nội dung căn
bản nhất trong giáo lý đạo phật và Tứ diệu đế và Bát chính đạo, những điều chỉ dẫn
con người tự thoát khỏi khổ hạnh mà không phải dựa vào bất cứ một quyền lực hay

thần linh nào. Ông cũng chỉ ra rằng sự tồn tại của những bậc bồ tát trong Phật giáo
không phải do quyền lực hơn người của họ mà chỉ là do “mức độ tăng tiến” của họ
trên con đường ngộ đạo. Chính vì vậy, thực chất của Phật giáo không nằm ở tính
thần linh mà nằm ở khái niệm về giải thoát và tự giải thoát. Durkheim cũng chỉ ra
rằng có sự tồn tại của những nghi thức không mang ý tưởng về thần linh của chính
những tôn giáo hữu thần. Từ đó ông đưa ra kết luận về tính thần linh của tôn giáo,
ông khẳng định rằng tôn giáo vượt ra khỏi ý tưởng về thần linh hay ma quỉ, vì vậy
không thể coi tôn giáo chỉ là để giải thích riêng về chức năng của thần linh.
1.3.Quan điểm về chức năng của tôn giáo của Emile Durkheim
Một mối quan tâm khác trong cách tiếp cận của Durkheim là sự nhấn mạnh của
ông vào khía cạnh động lực của tình cảm tôn giáo. Với ông, tôn giáo là một sức
mạnh, một sức mạnh cho phép hành động.Trước hết, tôn giáo có vai trò rất quan
trọng trong việc tăng cường sự liên kết trong xã hội. 12
Thật vậy, nhờ có các giá trị và tiêu chuẩn chung mà tôn giáo thúc đẩy rất mạnh
tinh thần đoàn kết các thành viên trong xã hội. Đúng hơn, sự đoàn kết mà tôn giáo
tạo ra là sự đoàn kết dựa trên niềm tin. Trong các xã hội thô sơ, vật tổ là biểu tượng
hữu hình của sự đoàn kết này.13
Tôn giáo không chỉ thuần tuý là tập hợp của một bộ phận quần chúng có tín
ngưỡng tâm linh, có niềm tin vào các đấng siêu nhiên mà mỗi một tôn giáo còn là
một lực lượng quần chúng có đức tin và sự cố kết chặt chẽ vì niềm tin và tổ chức
tôn giáo riêng của họ.14.
Durkheim cho rằng các ràng buộc tôn giáo thường tốt hơn so với các thế lực
khác ở tính liên kết các cá nhân trong xã hội, mặc dầu các loại hình ngoài xã hội
khác cũng có phần đóng góp đáng kể, đặc biệt là tinh thần dân tộc.Tôn giáo không
chỉ đóng vai trò đoàn kết mà còn mang tính kiểm soát xã hội. Mỗi xã hội đều có
những phương cách khác nhau thúc đẩy tính tuân thủ trong xã hội. 15 Thực tế, có rất
nhiều tiêu chuẩn văn hóa quan trọng đã được niềm tin tôn giáo ban cho tính hợp
RICHARD T.SCHAEFER, Xã hội học, dịch giả: Huỳnh Văn Thanh (Sài Gòn: Thống Kê, 2003), trang
495.
13

JOHN&MACIONIS, Xã hội học, dịch giả: Trung Tâm Dịch Thuật (Sài Gòn: Thống Kê, 1987), trang
523.
14
BÙI HỮU DƯỢC, Đoàn kết tôn giáo để thực hiện sự nghiệp xây dựng đất nước, Ban Tôn giáo chính
phủ.
15
JOHN&MACIONIS, Xã hội học, dịch giả: Trung Tâm Dịch Thuật (Sài Gòn: Thống Kê, 1987), trang
524.
12

7


pháp thiêng liêng. Tôn giáo mang tính kiểm soát trong những trường hợp khi mà
những người cầm quyền tự mình hay được thừa nhận quyền hành cai trị như quyền
của thần thánh.
Durkheim cho rằng xã hội phải được phân biệt bởi đặc tính của đoàn kết xã hội.
Đoàn kết cơ học rất thịnh hành trong xã hội truyền thống, khi phong tục tập quán,
niềm tin dựa vào gia đình vẫn là điều chi phối mạnh nhất đến các quan hệ xã hội.
Xã hội hiện đại thì khác, đó là quan hệ theo chức năng ở đó phân công lao động trở
nên quan trọng, cái điều mà xã hội truyền thống không rõ nét. Như vậy, đoàn kết
xã hội là quá trình liên kết, tương tác giữa cá nhân với nhau và nhóm trong xã hội.
Bất kỳ tôn giáo nào hay trong mọi xã hội thì nó cũng góp phần tạo dựng và duy trì
một ý thức tập thể. Nó có vai trò như một sự đoàn kết, gắn bó cá nhân với nhau
hơn. Khi các tín đồ thực hành nghi lễ, chính là lúc tình cảm của họ đều hướng đến
cái thiêng, và chính điều này đã gắn kết các cá nhân và nhóm với nhau, như một
chất keo thật bền chặt.
Trong các xã hội thô sơ, vật tổ là biểu tượng hữu hình của sự đoàn kết này. Các
cộng đồng tôn giáo trên thế giới đoàn kết, cố kết với nhau dưới vật thiêng của
mình. Người Hồi giáo có kinh Koran và thánh địa Jerusalem, người theo đạo Thiên

chúa có kinh Cựu ước, Tân ước và vùng đất thánh Vatican, tương tự đạo Phật cũng
có sách riêng của tôn giáo mình. Ở Mỹ, để thể hiện mục đích sự đoàn kết tập thể
dựa trên cơ sở niềm tin, tất cả tiền giấy của Mỹ đều in dòng chữ “Chúng con tin
tưởng tuyệt đối vào Chúa”, hơn nữa cờ Mỹ cũng có mục đích tương tự, biểu tượng
hóa ý chí “Một quốc gia dưới sự che chở của Chúa, không thể bị chia cắt”.
Tuy nhiên, tôn giáo, hay cái thiêng có thể rối loạn chức năng bằng cách gây sự
chia rẽ trong xã hội hoặc tạo ra mâu thuẫn giữa các xã hội. Ví dụ, vào đầu thời kỳ
Trung cổ, niềm tin tôn giáo đã thúc đẩy tín đồ Cơ Đốc châu Âu tổ chức thành
những đạo quân Thập tự chinh chống lại tín đồ Hồi giáo ở phương Đông. Về phần
mình, tín đồ Hồi giáo tìm cách bảo về đức tin của mình chống lại tín đồ Cơ Đốc
xâm lăng. Mâu thuẫn giữa tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo và Cơ Đốc vẫn là nguồn
bất ổn chính trị ở Trung Đông ngày nay, và công dân Bắc Isreal bị chia rẽ thành hai
phái vũ trang trên cơ sở trung thành với các niềm tin tôn giáo Cơ Đốc hay Tin
Lành.
Tôn giáo là một sức mạnh cho phép hành động. Tôn giáo giúp con người chịu
đựng hay vượt qua những khó khăn của sự tồn tại, giúp họ vượt qua sự bần cùng vì
đã vượt qua những điều kiện sống của con người, giúp họ tin rằng họ sẽ được cứu
chuộc khỏi cái ác. Nếu “Tôn giáo là hành động”, là “sự thúc đẩy hành động”,
Durkheim cho rằng khoa học không thể làm cho tôn giáo biến mất. Khoa học thu
hẹp các chức năng nhận thức của tôn giáo và thảo luận về xu hướng kiểm soát các
hoạt động nhận thức của nó. Con người vẫn luôn hành động theo sự thúc đẩy của
các niềm tin tôn giáo.
“Tín đồ, kẻ đã hiệp thông với chúa của mình không chỉ là kẻ được nhìn thấy
những chân lý mới mà kẻ vô đạo không biết; đó là kẻ có thể biết nhiều hơn. Nó
cảm nhận thấy trong mình có nhiều sức mạnh hơn, hoặc để chịu đựng những khó
khăn của sự tồn tại, hoặc để chiến thắng chúng. Nó như vượt lên trên những khốn
8


cùng của con người, vì nó đã vượt lên trên những điều kiện sống của con người; nó

tự tin là đã được cứu chuộc khỏi cái ác. Tín điều đầu tiên của mọi đức tin là niềm
tin vào sự cứu chuộc bởi đức tin” (Formes élémentaires (1912) sđd, tr.595)
Đề cao khoa học, các nhà xã hội học thời ấy cũng đề cao vai trò của loài người
như một tổng thể. Theo Émile Durkheim, cái tổng thể người hay xã hội đó có
những đặc điểm riêng, chúng không chỉ là tổng số đặc điểm của các cá nhân gom
lại. Khoa học có thể thu hẹp các chức năng nhận thức của tôn giáo và phản bác cái
xu hướng muốn thâu tóm việc truyền bá tri thức của nó. Nhưng nó không thể từ
chối một thực tế và ngăn cản việc con người vẫn tiếp tục hành động với sự thúc
đẩy của những đức tin tôn giáo.
Ngoài ra, tôn giáo còn có vai trò rất lớn trong việc tạo ra ý nghĩa và mục đích
cho đời sống con người.16. Cuộc sống đầy dẫy những đau khổ có thể khiến cho con
người đánh mất sự kiên nhẫn và đi đến tuyệt vọng. Vai trò của tôn giáo với niềm
tin vào một thế giới thần thiêng có tác dụng tạo ra cảm giác an ủi và giải thoát con
người. Với sự trợ lực của niềm tin tôn giáo, con người được nâng đỡ để có thể tiếp
tục hy vọng hơn vào cuộc sống cũng như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua
những đau khổ trong cuộc đời.
Theo E.Durkheim, xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân và có trước cá nhân với
nghĩa là cá nhân dược sinh ra trong xã hội và phải tuân thủ các chuẩn mực, phép
tắc xã hội đã có sẵn trước khi cá nhân đó được sinh ra. Vì vậy Xã hội học cần phải
xem xét hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội và các hiện tượng xã hội với tư cách là các
sự vật, các bằng chứng, các sự kiện đang tác động tới đời sống của các cá nhân.
Thực chất Xã hội học của E.Durkheim chủ yếu xoay xung quanh vấn đề mối quan
hệ giũa con người và xã hội. Sự kiện xã hội là sản phẩm của lịch sử, là kết quả của
hoạt động tập thể. Có thể coi quan niệm Xã hội học của Emile Durkheim thuộc về
“chủ nghĩa tập thể” bởi ông luôn lấy cuộc sống cộng đồng làm xuất phát điểm của
sự kiện xã hội, của các phương pháp tiếp cận các sự kiện xã hội. Sự kiện xã hội
xuất hiện là để đáp úng nhu cầu của tổng thể hệ thống xã hội, cần tìm hiểu và chỉ ra
chúc năng của một sự kiện xa hội trong mối quăn hệ của nó với cả hệ thống xã hội
đang theo đuổi những mục đích nhất định nào đó.
Tại sao tôn giáo là sản phẩm của xã hội ? Durkheim đã đưa ra câu trả lời hoàn

hảo cho câu hỏi trên.
Theo ông, tôn giáo là sản phẩm của xã hội bởi vì nó tồn tại như một nguồn cung
cấp sự đoàn kết và dấu hiệu xác nhận các thành viên trong một xã hội. Đặc biệt với
các xã hội tồn tại đoàn kết cơ học, các cá nhân gắn kết khăng khít với nhau thì tôn
giáo càng cần để mỗi cá nhân tự gắn mình vào một tập thể và một tập thể thừa
nhận các cá nhân thành viên. Cụ thể hơn, tôn giáo cung cấp cơ hội để:
 Thể hiện chủ quyền
 Nhấn mạnh yếu tố đạo đức và chuẩn mực xã hội
 Điều khiển, duy trì sự tồn tại của xã hội như một phần không thể thiếu của
hệ thống các thành phần cấu thành xã hội
JOHN&MACIONIS, Xã hội học, dịch giả: Trung Tâm Dịch Thuật (Sài Gòn: Thống Kê, 1987), trang
524.
16

9


 Liên kết, trao đổi thông tin, thúc đẩy những tương tác xã hội
Những nhu cầu tương tác, trao đổi thông tin, xác nhận chuẩn mực, nhấn mạnh
vai trò đạo đức xã hội… được đáp ứng một phần thông qua tôn giáo. Nói cách
khác, tôn giáo ra đời nhằm phục vụ chức năng đảm bảo các nhu cầu trên mà các
thành phần khác của hệ thống xã hội không thể đáp ứng. Đó chính là nguồn gốc xã
hội của tôn giáo theo quan điểm của Emile Durkheim.
Khi niềm tin tôn giáo được chia sẻ trong xã hội, thì chiều hướng có ý nghĩa và
có mục đích sẽ phát sinh trong sự cố kết xã hội và ổn định xã hội. Durkheim phân
tích về chức năng tôn giáo không ngụ ý một niềm tin tôn giáo bất kỳ là có giá trị
hay vô giá trị. Chắc chắn thế giới có rất nhiều niềm tin tôn giáo, phần lớn niềm tin
này mâu thuẫn với nhau, những gì một người cho là vấn đề đức tin, thì người khác
lại cho rằng phi lý. Nhưng khi đối mặt với cái chết, bệnh tật, thiên tai và vô số
những thất bại của con người, đời sống có vẻ dễ bị tổn thương, hỗn độn và vô

nghĩa một cách vô vọng. lúc này, dù là niềm tin tôn giáo nào chăng nữa đều tạo
cảm giác an ủi rằng nhiều kinh nghiệm con người – từ khi sinh ra cho đến khi mất
đi - đều có mục đích nhiều hơn. Củng cố niềm tin như thế, con người ít bị sự tuyệt
vọng quật ngã hơn khi đối mặt với những tai họa trong đời sống, và rất có thể đóng
góp tích cực nhiều hơn vào phúc lợi xã hội.
Qua đó có thể thấy rằng những quan điểm, nhận định, lập trường tôn giáo của
Durkheim có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội học nói
chung và xã hội học tôn giáo nói riêng.
2. Nhận xét về quan điểm về tôn giáo của Durkheim
2.1. Về ưu điểm:
Điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu của Emile Durkheim chính là ở việc ông đã
thấy được bản chất của quan niệm tôn giáo từ hình thức căn bản, sơ khai nhất đã có
sự phân chia, phân định hai thực trạng cơ bản của một thế giới có tôn giáo, đó
chính là yếu tố cái thiêng (cái thần thánh) được phân biệt với cái thế tục (cái phàm
trần).
Durkheim tuy quan niệm thần linh nơi các tôn giáo có nguồn gốc từ xã hội và do
con người gán cho các sự vật, nhưng ít ra ông cũng có cái nhìn tích cực về tôn
giáo. Durkheim có một nhận định khá gần với tôn giáo khi đưa ra ba đặc tính căn
bản của một tôn giáo dựa trên niềm tin, nghi thức và cộng đồng.
Durkheim nhấn mạnh tôn giáo ở khía cạnh ‘hoạt động’ cộng đồng qua những
nghi thức cũng giúp phản tỉnh cho thái độ sống đạo mang tính ‘hình thức’ nhưng
thiếu chiều sâu.
Tính liên kết trong niềm tin là một ưu điểm không chỉ trong các tôn giáo mà còn
trong các tổ chức xã hội, khi các thành viên cùng chung chia một niềm tin nào đó.
Durkheim phần nào đã đúng khi cho thấy có một mối liên hệ rất gần giữa tôn giáo
và văn hóa. Phải nói rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tôn giáo và văn hóa.
Cái khác biệt mà Emile Durkheim chỉ ra từ phép so sánh ma thuật với tôn giáo
đã phần nào lí giải nguồn gốc xã hội mà tôn giáo phát sinh.
Ma thuật cũng gồm có niềm tin và nghi thức giống như tôn giáo. Nó có những
nghi lễ riêng, những lễ hiến sinh, lễ rửa tội, cầu nguyện, ca khúc và nhảy múa.

10


Những vật thể mà người pháp sư viện dẫn và những vật thể được nói đến trong tôn
giáo thường là cùng một vật thể. Ví dụ: linh hồn người chết. Linh hồn người chết
là vật thể vô cùng thiêng liêng và chúng là đối tượng của nghi thức tôn giáo. Đồng
thòi chúng cũng giữ một vai trò đáng kể trong ma thuật. Linh hồn người chết, tóc
của họ, xương của họ được coi là những vật trung gian mà người pháp sư thường
sử dụng. Tuy nhiên, những niềm tin và nghi thức của ma thuật thô sơ hơn là trong
tôn giáo. Nó không mất thời gian vào việc biện minh bởi lẽ nó nhằm vào những
mục đích kỹ thuật và thực dụng.
2.2. Về nhược điểm
Nghịch lý trong cách tiếp cận của Durkheim về tôn giáo là ở chỗ, một mặt nó
quy giản tôn giáo vào tính xã hội, mặt khác nó lại quy tính xã hội về tính tôn
giáo… khi cho rằng một xã hội chỉ có thể tồn tại bằng sự linh thiêng hóa cái tình
cảm tập thể. Do đồng nhất tôn giáo với tính xã hội ông không coi các tín ngưỡng tự
nhiên là tôn giáo. Tôn giáo không phải là vật linh giáo cũng không phải là tự nhiên
giáo.

Vật linh giáo, theo quan điểm của Taylor (1871) là sự tin vào những vật có
linh hồn: các linh hồn, hồn, các vị thần bản mệnh, …các tác nhân sống và có ý
thức như con người (không thể nhận thấy, nhưng có quyền lực). Như trong một
giấc mơ.
Tự nhiên giáo, do Muler nêu ra (1856), đó là niềm tin vào những sức mạnh của
vũ trụ: gió, sông, sao, trời; ngay cả các vật thể trên mặt đất: đá, cây, động vật…gợi
lên cảm giác về sự nhỏ bé (của con người).
Điểm giả tạo chung của hai học thuyết: coi tín ngưỡng như một thứ hoang
tưởng, không có giá trị khách quan.
Khi đặt nền tảng xã hội học để đánh giá về tôn giáo, Émile Durkheim đã giới
hạn tôn giáo ở tính ‘hiệu quả’ đối với xã hội thay vì nhìn sâu vào bản chất của tôn

giáo. Trong quan điểm của mình, Durkheim đặt ưu thế quyền lực xã hội lên hàng
đầu, lên trên cả tôn giáo và cá nhân, thậm chí hy sinh cá thể cho tập thể. Việc
Durkheim đồng hóa lý tưởng xã hội với lý tưởng tôn giáo là một điều không ổn,
mặc dù cả hai cùng có lý tưởng nhưng thực ra chúng hoàn toàn biệt lập.
Durkheim thậm chí nâng văn hóa thành tôn giáo, nhưng tôn giáo hoàn toàn có
thể được diễn tả qua văn hóa. Mẫu nghiên cứu về tôn giáo của Durkheim quá bó
hẹp trong các tôn giáo thô sơ nên không thể lột tả hết được các đặc điểm đa dạng
được diễn tả trong các tôn giáo khác.
Tôn giáo là tình cảm tập thể, nhận định này là sai lầm khi coi nó như một hiện
thực tự nó. Xã hội gợi ra ở các cá nhân của nó cái tình cảm phụ thuộc và tôn trọng.
Cách tiếp cận của ông không tính đến cái chiều cạnh ngược lại, tức tôn giáo như
là nhân tố giải thể xã hội, như vật truyền dẫn sự phản kháng.
Những đức tin tôn giáo cũng là những vật nâng đỡ sự phản kháng của thế giới
trần tục, sự phản kháng có thể mang hình thức ở bên trong hay bên ngoài thế giới
xã hội, được thể hiện bằng cuộc đấu tranh chống lại hiện trạng của các sự vật hay
bằng những thái độ tập thể (hiện thực hóa các lựa chọn xã hội) hay cá nhân (mang
tính huyền bí) bằng sự từ bỏ thế giới.
11


Những hạn chế trong cách tiếp cận của Durkheim là do nó được hình thành từ sự
phân tích một xã hội, nơi tập hợp xã hội (thị tộc) và tập hợp tôn giáo (tôn giáo thờ
vật tổ) hoàn toàn chồng khít lên nhau và trộn lẫn với nhau. Trong trường hợp đó,
không có sự khác biệt giữa xã hội tôn giáo và xã hội dân sự.
Vì thế sự khác biệt giữa các tập hợp tự nhiên và xã hội với các tập hợp tôn giáo
là một đặc trưng quan trọng cần tính đến (Joachim Wach (1898-1955). Nhưng
những giới hạn này cũng chính là sức mạnh trong cách tiếp cận của Durkhiem.
Trong nhiều xã hội, tôn giáo đã trở thành một yếu tố quan trọng trong sự khẳng
định bản sắc tập thể (Islam chiite ở Iran, công giáo ở Balan, chính thóng giáo ở Hy
lạp, Luther giáo ở Thụy điển)… như thể sự xác nhận mạnh mẽ tình cảm quốc gia

không thể không có một chiều cạnh tôn giáo. Ngay cả một nứơc thế tục như nước
Pháp, người ta vẫn ngạc nhiên khi nhận thấy ảnh hưởng quan trọng của sự cảm
nhận có tính công giáo trong cách thể hiện tình cảm tập thể.
Vì thế vấn đề của Durkheim khuyến khích sự suy nghĩ theo hướng mà các xã hội
tự định vị cho chúng, phải chăng theo cách rất ám chỉ dưới một « cái vòm linh
thiêng »(Peter Berger mạnh cho phép hành động), như giả định là cần phải ghi
nhận cái trật tự xã hội ngẫu nhiên vào trong quỹ đạo của cái linh thiêng
3. Kết luận
Emile Durkheim đã xây dựng được một lý thuyết về tôn giáo, theo đó điểm then
chốt của tôn giáo không những là niềm tin của nó mà là những nghi lễ xã hội mà
các tín đồ thực hiện. Tôn giáo là chìa khóa của sự đoàn kết xã hội, các niềm tin tôn
giáo là quan trọng nhưng không phải ở chính bản thân chúng mà ở chỗ chúng là
biểu trưng của các nhóm xã hội.
Những nghiên cứu của Durkheim đã mang lại cái nhìn khác biệt về tôn giáo thời
bấy giờ. Nó không những chỉ ra được yếu tố xã hội trong nguồn gốc của tôn giáo,
tách biệt khái niệm tôn giáo ra khỏi những yếu tố thần linh và siêu nhiên, mà còn
chỉ ra được những đặc điểm chung nhất của các loại hình tôn giáo khác nhau ở
những điểm cấu thành căn bản. Song song với hai việc làm sáng tỏ hai mục đích
chính của nghiên cứu tôn giáo, Emile Durkheim còn đặt tôn giáo trong mối quan
hệ với đoàn kết xã hội, mối quan tâm lớn của sự nghiệp nghiên cứu của ông. Từ
đó, chỉ ra được rằng đoàn kết xã hội như là nền tảng của tôn giáo, cũng như tôn
giáo là nguồn “cung cấp năng lượng” cho sự tồn tại của đoàn kết xã hội.

12


MỤC LỤC

1. Quan điểm của Durkheim về tôn giáo.................................................................2
1.1. Định nghĩa tôn giáo của Emile Durkheim.......................................................2

1.2. Quan điểm về niềm tin và nghi lễ tôn giáo của Emile Durkheim....................4
1.3. Quan điểm về chức năng của tôn giáo của Emile Durkheim...........................7
2. Nhận xét về quan điểm về tôn giáo của Durkheim...........................................10
2.1. Về ưu điểm:......................................................................................................10
2.2. Về nhược điểm..................................................................................................11
3. Kết luận.............................................................................................................12

13



×