Nhận xét của giáo viên
Điểm
STT
MSSV
HỌ VÀ TÊN
PHỤ TRÁCH
KÝ TÊN
1
2
3
4
5
6
7
MỞ ĐẦU
Cuộc cách mạng xã hội nhằm chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Đó là bước nhảy
vọt vĩ đại trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm
một loạt những cải tiến cách mạng có tính chất quyết định trong cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội,
văn hóa và xã hội. Giai cấp công nhân thông qua chính đảng cách mạng của mình nắm quyền
lãnh đạo cách mạng, liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác thực hiện
nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền, phá bỏ bộ
máy chuyên chính tư sản, xác lập bộ máy chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, xây dựng một chế độ mới có nền kinh tế phát triển trên cơ sở chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu, loại bỏ mọi đối kháng giai cấp, xóa bỏ mọi áp bức và bóc lột, phát triển
dân chủ xã hội chủ nghĩa và công bằng xã hội, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Quá
trình đó bao hàm nhiều giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa và
kinh tế mới.
A. NGUYÊN LÝ CỦA MÁC – LÊNIN VỀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa
lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp
lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội mới, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị,
kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính
quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản
Theo nghĩa rộng: Cách mạng XHCN bao gồm cả hai giai đoạn: giai đoạn đầu là tiến hành
cuộc cách mạng chính trị, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản. Giai đoạn thứ hai là sử
dụng nhà nước để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội XHCN và CSCN
II. NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN, MÂU THUẪN CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1. Nguyên nhân của cuộc cách mạng XHCN
Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản
xuất,, khiến quan hệ sản xuất vốn phù hợp với nó trở thành lỗi thời, cản trở sự phát triển của nó.
Nguyên nhân trực tiếp của cuộc cách mạng XHCN là do mâu thuẫn kinh tế giữa lực lượng
sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân
TBCN, biểu hiện mâu thuẫn đó về mặt xã hội là mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp công nhân (đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến) với giai cấp tư sản (đại diện cho quan hệ sản xuất đã lỗi
thời. Tuy nhiên cuộc cách mạng XHCN không tự diên ra, nó phải có những tình thế, thời cơ nhất
định, sự nỗ lực chuẩn bị của giai cấp công nhân.
2. Điều kiện ra đời và mâu thuẫn của cách mạng XHCN
a) Điều kiện khách quan
Mâu thuẫn về kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến mâu thuẫn về xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền đại công nghiệp phát triển sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng và cao về chất lượng. Họ gắng
bó hữu cơ với nền sản xuất hiện đại và giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra ngày càng nhiều
của cải vật chất cho xã hội, những của cải đó lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt điều đó giúp cho
công nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp tư sản và họ trở thành kẻ thù của giai cấp tư
sản, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các
nước, mà với lòng tham vô hạn, với khát vọng quyền lực, giai cấp tư sản đã tiến hành những
cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước này thành thuộc địa của chúng. Điều
đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.
Những mâu thuẫn trên dẫn tới nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nó đòi hỏi
phải giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản,
thiết lập một chế độ xã hội mớ – xã hội chủ nghĩa.
b) Điều kiện chủ quan
Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân,
đặc biệt là khi nó đã có đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Lúc đó giai cấp công nhân
mới có đủ khả năng điều kiện để đứng ra đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình là tổ chức phát
động quần chúng nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có
điều kiện chủ quan này thì cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra. Bằng chứng là ở các nước
tư bản chủ nghĩa hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp… Mâu thuẫn kinh tế - xã hội đã có, nhưng
giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản ở những nước đó chưa muốn phát động cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự khống chế của giai cấp tư sản ở những nước đó quá chặt chẽ nên
cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa thể nổ ra được. Điều kiện chủ quan thứ hai là sự liên minh
công - nông và tầng lớp lao động khác để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức mạnh to lớn để đảm
bảo cho cách mạng thắng lợi.
III. Mục tiêu, động lực và nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải phóng xã hội, giải phóng con người là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Cho nên có thể nói, chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. Chủ nghĩa xã
hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà phải từng bước hiện thực
hóa qua thực tiễn sự nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người với
người và tiến tới thực hiện mục tiêu cao cả nhất: "biến con người từ vương quốc của tất yếu sang
vương quốc của tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen xác định mục tiêu của cách
mạng vô sản là: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó,
xuất hiện một liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
của tất cả mọi người”.
Từ đó, có thể thấy mục tiêu cao cả nhất của các mạng xã hội chủ nghĩa phải được hiện thực
hóa qua từng chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lao động đầy nhiệt huyết và sáng
tạo của quần chúng nhân dân lao động, bằng công tác tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất
cả các lĩnh vực, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của CMXHCN: là giai cấp công nhân phải đoàn kết với những
người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột: “phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của CMXHCN: giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp
nhân dân lao động và công cuộc tổ chức một xã hội mới về mọi mặt, thực hiện xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người để không còn tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột dân tộc khác. Đến giai
đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản, khi đó không còn giai cấp, không còn nhà nước, giai cấp vô sản
tự xóa bỏ mình với tư cách là giai cấp thống trị.
2. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Động lực chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là các giai cấp và tầng lớp mà lợi ích của
họ liên quan đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực
hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa
số, mưu lợi ích cho khối đại đa số".
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động
ra khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho họ, do vậy thu hút
được sự tham gia của quần chúng nhân dân lao động trong suốt quá trình cách mạng.
Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp, do vậy ngày càng
tăng lên về số lượng, nâng cao về chất trong xã hội hiện đại. Giai cấp công nhân là lực lượng lao
động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã hội hiện đại, là lực luợng xã hội đi đầu trong cuộc đấu
tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy có thể khăng định: giai cấp công nhân là lực lượng hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích
của giai cấp công nhân, giai cấp này trở thành một động lực to lớn trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Trong một xã hội khi nông dân còn là lực lượng đông đảo thì trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi lôi kéo được giai cấp nông
dân đi theo mình.
Khi nói về vai trò của giai cấp nông dân trong cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp
công nhân. C.Mác đã chỉ ra, nếu giai cấp công nhân không thực hiện được bài đồng ca cách
mạng với giai cấp nông dân thì bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành bài ai điếu.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng vậy, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn
thành được sứ mệnh lịch sử của mình, khi đại đa số giai cấp nông dân đi theo giai cấp công nhân.
Đứng về phương diện kinh tế, giai cấp nông dân là một lực lượng lao động quan trọng trong xã
hội. Đứng về phương diện chính trị - xã hội, giai cấp nông dân là một lực lượng cơ bản tham gia
bảo vệ chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, "nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là
duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân". Trên cơ sở khối liên minh công - nông
vững chắc mới có thể tạo ra được sức mạnh của khối đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ
trong các tầng lớp nhân dân lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Kết luận: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là động lực to lớn, quan trọng của cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để, nó được thực hiện trên tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội.
a. Trong lĩnh vực chính trị
Đầu tiên cần thiết lập sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, muốn thực hiện được nội dung đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư
sản hoặc các chế độ nhà nước khác trong lịch sử, như C.Mác – Ph.Ănghen đã nói : “Giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vương lên thành giai cấp dân tộc”.
Xây dựng nhà nước dân chủ kiểu mới: dân chủ đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao
động; thực hiện chuyên chính kiểu mới, đè bẹp sự phản kháng của giai cấp tư sản và bọn phản
động chống lại nhân dân lao động.
Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi cho nhân dân,
đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về chính trị, tham gia vào công
việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
b. Trong lĩnh vực kinh tế
Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công dân và nhân dân lao động mới chỉ là
nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống nhân dân. Trong điều lệ quốc tế I, C. Mác đã viết: “Bất cứ cuộc cách mạng chính
trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế”. Trong hệ tư tưởng
Đức, ông cũng đã nói: “Xây dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có
giải phóng về kinh tế là cơ sở giải phóng giai cấp công nhân về mặt tinh thần, làm chủ được kinh
tế mới làm chủ được mặt tinh thần”. Vì vậy cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế
trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất với những hình thức thích hợp.
Cùng với việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa,
phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó, từng
bước cải thiện đời sống nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về việc phân phối sản phẩm và phân phối lao động
giữa các thành viên trong xã hội. Năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước đo số lượng lao
động của mọi người đóng góp cho xã hội, trên cơ sở đó, thực hiện phân phối theo lao động.
c. Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa
Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là những người sáng tạo ra
những giá trị văn hóa, tinh thần.
Giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến
của thời đại. Thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần, thông qua từng
bước xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành những con
người mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong tuyên ngôn của Đảng sộng sản C.Mác – Ph.Ănghen đã
chỉ rõ: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu
kế thừa của quá khứ; không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó
đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ”
Kết luận: Ba nội dung cơ bản trên của cách mạng xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết, tác
động, thúc đẩy lẫn nhau đưa đến sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
IV. LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN – NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP
LAO ĐỘNG KHÁC TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tính tất yếu và khách quan của liên minh công – nông và tầng lớp lao động khác
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tính tất yếu: giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân và các tầng lớp lao động khác
vì lợi ích chung đi đến thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng,
Cơ sở khách quan bảo đảm sự liên minh:
Thứ nhất, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng như
nhiều tầng lớp lao động khác đều là những người lao đông, đều bị áp bức bóc lột.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế quốc dân là một thể thống
nhất của nhiều ngành, nghề.... nhưng trong đó công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất
chính trong xã hội. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân thì hai
ngành kinh tế này cũng như các ngành, nghề khác không thể phát triển được. Công nghệ tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và các ngành nghề khác. Nông nghiệp tạo ra lương
thực, thực phẩm phục vụ cho toàn xã hội, tạo ra nông sản phục vụ cho công nghiệp. V.I.Lênin
khẳng định: "Công xưởng xã hội hóa sẽ cung cấp sản phẩm của mình cho nông dân và nông dân
sẽ cung cấp lại lúa mì. Đó là hình thức tồn tại duy nhất có thể được của xã hội xã hội chủ nghĩa,
là hình thức duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Thứ ba, xét về mặt chính trị - xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động khác là lực lượng chính trị to 1ớn trong xây dựng, bảo vệ chính quvền nhà nước, trong
xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Do vậy, giai cấp nông dân và nhiều tầng lớp lao động khác trở
thành những người bạn "tự nhiên”, tất yếu của giai cấp công nhân. Do đó có thể thấy liên minh
công - nông và các tầng lớp lao động khác là mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và thống nhất về lợi
ích cơ bản của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. Giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác cũng là giai cấp bị bóc lột do đó là người gần gũi với giai cấp công nhân.
Liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông
nghiệp, đó là hai ngành sản xuất chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ
cho nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu của
toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Liên minh
công - nông và các tầng lớp lao động khác là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng vững chắc của
khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, nông dân và các tầng
lớp lao động khác trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu của giai cấp công nhân.
2. Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động
khác trong cách mạng XHCN
2.1 Nội dung cơ bản của liên minh
Liên minh về chính trị: giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền là nhằm giành chính quyền về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao
động. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công - nông chính là việc cùng tham
gia vào chính quyền nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân không phải
là sự dung hoà về lập trường tư tưởng mà giai cấp nông dân phải đứng trên lập trường chính trị
của giai cấp công nhân.
Liên minh về kinh tế: Đây là nội dung liên minh quan trọng nhất, chủ yếu trong thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa công nhân và nông dân về kinh tế khi
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, để thực hiện các nôi dung:
Kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội. Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhà
nước xã hội chủ nghĩa xây dựng một chính sách phù hợp đảm bảo cho sự phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Từng bước hướng dẫn giai cấp nông dân tự giác, tạo ra nền sản xuất lớn trong kinh tế nông
nghiệp, với các hình thức và bước đi phù hợp với thay đổi tâm lý, tập quán kinh tế tiểu nông.
Liên minh về văn hóa, xã hội: xã hội XHCN đặt nên tảng của nên sản xuất công nghiệp hiện
đại, là xã hội mang đậm tính nhân văn, nhân đạo, đòi hỏi và tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, xã hội, đồng thời phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn,
trình độ văn hóa của các giai cấp và tầng lớp liên minh
2.2 Nguyên tắc cơ bản của liên minh
Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân: V.I. Lênin khẳng định: chỉ có sự lãnh đạo
của giai cấp vô sản mới có thể giải phong nông dân thoát chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ
nghĩa xã hội.
Nguyên tắc tự nguyện của liên minh công – nông: những người cộng sản và giai cấp công
nhân nhận thức được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội nới giải phóng được họ ra khỏi áp bức, bóc
lột, khỏi sự phân chia giai cấp, từ đó lôi cuốn họ tự nguyện liên minh với nhau để thực hiện hai
nhiệm vụ trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân. Sự thống nhất
về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện liên minh. Giai Đây là hai giai cấp có lợi ích
căn bản thống nhất cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là thống nhất,
bởi vì họ đểu là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Song, giữa giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân là những chủ thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại diện
cho phương thức sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân gắn với chế độ tư hữu nhỏ.
Mà chế độ tư hữu nhỏ thì mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là xóa bỏ chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này, phải thường
xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải quyết kịp thời, phải chú ý tới những lợi ích
thiết thực của nông dân
PHẦN B. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CÁCH MẠNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
I.
Sự ra đời, các giai đoạn và nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Sự ra đời
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5-6-1911 người thanh
niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội
nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các
nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6-1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái
Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Véc-xây. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái
Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng
đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của
thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con
đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn
Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách
mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm
1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa
học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế,
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công
nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm
“Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính
trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng
phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người
lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ
tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở
Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ
cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín
muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận
thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm
dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ
chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1
đến ngày 7-2-1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An
Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông
qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng.
Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính
là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập
Đảng.
2. Các giai đoạn và nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a. Giai đoạn 1: Cuộc cách mạng dân tộc dân dân chủ nhân dân ở Việt Nam
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với truyền thống yêu nước, nhân dân ta
đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp giành lại độc lập cho dân tộc.
Các sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ "Cần Vương" mong giành lại độc lập cho dân tộc khôi
phục chế độ phong kiến, đã bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Những người nông dân
với lòng căm thù giặc sâu sắc, cầm gươm giáo đứng lên khởi nghĩa chống Pháp cuối cùng
cũng thất bại.
Với ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, mà trực tiếp nhất là cách mạng Tân
Hợi Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng Việt Nam như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu,
Nguyễn Thái Học v.v. muốn giành độc lập cho dân tộc, đưa đất nước theo con đường tư
bản chủ nghĩa, noi gương các nước phương Tây cuối cùng đều bị thất bại.
Sở dĩ các phong trào đấu tranh trên đều bị thất bại, bởi vì cách mạng lúc đó thiếu đường
lối đúng đắn, các phong trào không đáp ứng được những yêu cầu dân chủ của thời đại
mới, tư tưởng phong kiến, tư sản đã nên lạc hậu với thời đại. Tuy những phong trào cách
mạng đó đã thất bại, nhưng đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh cách mạng của
nhân dân, góp phần nâng cao chí khí, khai thông dân trí cho dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên giành
độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành qua các cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp, tuy số lượng không đông nhưng đã sớm tiếp thu được tinh thần yêu nước của
dân tộc, lại bị ba tầng áp bức là đế quốc, địa chủ, và tư sản, nên đã tỏ rõ là một lực lượng
kiên cường trong các cuộc đấu tranh.
Nỗi nhục của người dân bị mất nước, bị áp bức bóc lột nặng nề của thực dân, đế quốc là
một trong những nhân tố làm cho giai cấp công nhân Việt Nam từng bước có ý thức gắn
liền với quyền lợi giai cấp, cuộc đấu tranh giành độc lập của cả dân tộc ta.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX, sự áp bức của thực
dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân lao động vô cùng tàn bạo, những
phong trào đấu tranh theo xu hướng phong kiến, tư sản đều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt
để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân. Hồ Chí Minh viết: "Sự tàn bạo
của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu
lịch sử: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức", do vậy
Người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam đưa đến việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 – 2 – 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng về đường lối chính trị.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã
kết hợp hai sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp những người
lao động. Đi theo ngọn cờ của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc hai
nhiệm vụ đó để đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
b. Giai đoạn 2: Chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng ta:
"Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Thực tế của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng ta lãnh đạo cũng thể hiện rõ tính tất yếu
nêu
trên.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước
ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vừa phải kháng chiến, vừa phải kiến quốc với
phương châm dựa vào sức mình là chính, phải dựa vào dân, huy động sức dân mà kháng
chiến.
Muốn kháng chiến thắng lợi chúng ta phải xây dựng chính quyền của nhân dân, làm cho
nhân dân là người chủ thực sự của đất nước. Quyền hành, lực lượng đều ở nhân dân, một
khi dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm
cũng không nên.
Để thực hiện được điều đó Nhà nước dân chủ nhân dân phải từng bước xoá bỏ sở hữu địa
chủ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân, phải tạo điều kiện cho công nhân làm
chủ xí nghiệp. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã quy tụ sức mạnh của nhân dân lao động,
giúp chúng ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải
phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nửa nước, nhân dân miền Bắc đã có điều
kiện huy động sức người sức của cùng với nhân dân miền Nam thực hiện thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của sự chuyển từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam chính là: đường lối và mục tiêu cách mạng Việt Nam là nhất quán, dù
có phân chia hai giai đoạn, nhưng đều do một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Không lý gì một Đảng một giai cấp đang lãnh đạo thắng lợi đối với một dân tộc
lại tự rời bỏ vai trò của mình cho đảng khác, giai cấp khác (điều này trái cả với quy luật
của nhân loại, từ khi có giai cấp và Đảng chính trị)
Hơn nữa, những kết quả, thắng lợi của giai đoạn cách mạng do Đảng ta lãnh đạo cũng
đồng thời là điều kiện, mở đầu cho giai đoạn cách mạng mới cũng do Đảng ta lãnh đạo
trên phạm vi cả nước. Cả dân tộc ta có đủ những điều kiện và tư liệu thực tiễn lịch sử để
hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa của nước ta, dân tộc ta.
Sở dĩ Đảng ta khẳng định như vậy bởi lẽ, hiện nay chủ nghĩa tư bản tuy có thay đổi hình
thức áp bức, bóc lột, nhưng vẫn không hề thay đổi bản chất, vẫn là nguyên nhân gây ra sự
nghèo đói cho các nước chậm phát triển, vẫn là nguồn gốc gây ra những cuộc chiến tranh
và tạo nên bao tai họa về văn hoá, xã hội, môi sinh... trên thế giới. Ngay trong các nước
tư bản phát triển như Mỹ, Anh, v.v. tình trạng phân hoá giàu nghèo vẫn diễn ra rất gay
gắt, người nghèo vẫn sống trong tình trạng không nhà cửa. Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa,
sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng đất
nước vẫn đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột dân tộc, tôn
giáo, v.v.. Sự nghèo khổ của những người lao động ở những nước này ngày càng trở nên
trầm trọng. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho các nước đó không thể có độc lập thật
sự.
Nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc cải tổ, cải cách,
đã mắc nhiều sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí có sự phản bội lại chủ
nghĩa xã hội muốn đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa
xã hội dân chủ, ảo tưởng mong chờ sự giúp đỡ của thế giới tư bản, hiện nay đang rơi vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất
nước. Nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn. Xung đột dân tộc, tôn giáo, phe
phái gia tăng. Đời sống của những người lao động ngày càng khó khăn. Sự phân hoá giàu
nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng. Vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày
càng suy giảm.
II.
Thực trạng, phương hướng và đặc trưng
1. Thực trạng
a. Trước đổi mới
Trong Đường cách mệnh và tiếp đó là những văn kiện do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn
thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã thể hiện rõ đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam:” Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Làm cách mạng tư
sản dân quyền kiểu mới, do giai cấp công nhân lãnh đạo để thực hiện giải phóng dân tộc,
giành lấy độc lập dân tộc và dân chủ để tiến tới cách mạng vô sản, không phải kinh qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam”
Từ đó đến nay, Đảng ta đã kiên trì với sự lựa chọn lịch sử đó. Chủ nghĩa xã hội vẫn là
mục tiêu, lý tưởng không thay đổi của cách mạng Việt Nam. Đó là một nhận thức khoa
học và thể hiện rõ lập trường cách mạng triệt để, kiên định của Đảng ta.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là điểm nổi bật, xuyên suốt và chủ đạo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, tiếp theo là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải
phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội đã khẳng định lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
Tiếp theo đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những thành tựu và những bài học kinh nghiệm trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và trong những năm đầu khi nước nhà thống nhất,
trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo
thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chủ
nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Quá trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối cách mạng chủ nghĩa
xã hội đã bước đầu hình thành.
Đại hội III của Đảng (năm 1960) đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: vạch ra con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà.
Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống phấn đấu anh
dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước
chủ nghĩa xã hội anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, góp phần tăng cường sức mạnh khối chủ nghĩa xã hội, bảo vệ hòa bình ở
Đông Nam Á và thế giới…
Đến Đại hội IV của Đảng (năm 1976), với khí thế của người chiến thắng, Đảng ta đã đề
ra đường lối đẩy nhanh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đại hội IV cũng xác định đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành
đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu…; xây dựng thành
công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng ta về mục
tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
đúng đắn - giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Điều này phù
hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề đặt ra là, vì sao bên cạnh những thành tựu đã đạt được nhưng việc thực hiện
đường lối đó, chỉ ít lâu sau Đại hội IV của Đảng nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời
sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối những năm 1970 nước ta lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng với sự thật,
nói rõ sự thật đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ rõ những khuyết
điểm, sai lầm. Đại hội chỉ rõ chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về
chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt
động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực
hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở
chặng đường đầu tiên.
Chúng ta đã có thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy
luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý vận dụng chúng
vào việc định chế các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.
b. Sau đổi mới đến nay
Từ thực tiễn cách mạng, cả thành công và khuyết điểm sai lầm, Đại hội VI đã rút ra 4 bài
học kinh nghiệm, trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan”.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, bước vào thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại hội, nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng sáng tỏ hơn. Những
điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những nét căn bản sau:
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư
duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VI - Đại hội
của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn.
Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu
một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ
tương ứng. Phải có “những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất”. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng
sản Việt Nam đưa ra đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng
đúng đắn quan hệ hàng - tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ
đạo và chi phối các thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết
là đổi mới kinh tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những
bước phát triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội
phát triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối
phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua
các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng
vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện:
Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”.
Hai là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn
lọc. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng
và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của
V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của
nhân loại”.
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Phương hướng và đặc trưng
a. Phương hướng
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã hội
mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, từ
việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội,
thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết
thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Những phương hướng cơ bản đó bao gồm:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám phương hướng nêu trên về cơ bản đã thể hiện rõ phương thức, con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các chủ trương trong
đường lối đối nội, đối ngoại. Mặt khác, vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như
trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã được thể hiện rõ trong một số phương hướng.
b. Đặc trưng
Cũng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác
họa với sáu đặc trưng. Tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm
cho mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự
thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên
cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong hai Văn
kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành
quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều
kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc
thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình chủ chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính
ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu
hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác – Lênin về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều
được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã
tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ
phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua
hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt
trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế
độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có
của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền
kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống
đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu
những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa
của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân
tộc thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực
văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện
trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn
được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện
con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con
người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con
người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính
đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác
định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện
nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì
con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ)
của Đảng và Nhà nước ta.
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ
dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt
Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong
giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm
mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn
bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng
quyền,
xâm
phạm
quyền
dân
chủ
của
công
dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân
các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp Quốc tế và pháp luật Quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn
quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta….
Bên cạnh việc xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ bản
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ lớn cần
nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện các phương hướng đã nêu: Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và
phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà
nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và
nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất