Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh lào cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.07 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THỊ NGA

VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa Xã hội

Người hướng dẫn khoa học

TS. Lê Thị Minh Thảo

Hà Nội, 2018

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa được ai
công bố. Các thông tin, tài liệu, trích dẫn trong khóa luận được ghi nguồn
gốc và rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công bố của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Nga



LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người hướng dẫn khoa học cô
giáo, TS. Lê Thị Minh Thảo khoa Giáo dục chính trị, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã hướng dẫn tận tình, động viên, khích lệ tôi trong suốt
quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào
Cai đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn
bè, người thân đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khóa
luận này.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN TỘC VÀ
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC ............................................................................ 6
1.1. Quan điểm về dân tộc............................................................................. 6
1.2. Chính sách dân tộc ................................................................................. 9
Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TỈNH LÀO CAI ...................................................................................... 18
2.1.Khái quát về tỉnh Lào Cai ..................................................................... 18
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai ..................... 21
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC
HIỆN HIỆU QUẢ HƠN NỮA CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH LÀO
CAI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ..................................................... 44
3.1. Phương hướng thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai ............... 44
3.2. Một số giải pháp ................................................................................... 45
KẾT LUẬN ................................................................................................. 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 56


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em là 54 màu sắc
văn hóa khác nhau. Dân tộc kinh chiếm đa số 86,2% dân số, còn 53 dân tộc
thiểu số chiếm 13,8% dân số. Dân tộc thiểu số ở nước ta đa số sống ở miền
núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa-những địa bàn có vị trí chiến
lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Do đó, Đảng ta luôn coi
việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược quan trọng trong tiến trình cách mạng.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Bên cạnh đó, tình hình chính trị - xã hội thế giới có nhiều
biến đổi lớn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc vẫn là vấn đề phức tạp, gay
gắt và vô cùng nhạy cảm ở nhiều quốc gia.Vì vậy, việc hoạch định và thực
hiện đúng đắn chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong
việc giải quyết vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta.
Giải quyết tốt vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc không những
tạo nên sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội, rút ngắn khoảng
cách phát triển chênh lệch giữa các dân tộc mà còn phát huy được truyền
thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, tạo
nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Chính
sách dân tộc là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó,
thực hiện chính sách dân tộc phải gắn với kế hoạch phát triển tổng thể kinh
tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng của đất nước.
Lào Cai là tỉnh vùng cao, biên giới, diện tích tự nhiên 6.360 km2, dân
số 60 vạn người, gồm 25 dân tộc anh em, trong đó dân tộc thiểu số chiếm


1


64%, có xã 100% là người dân tộc thiểu số, toàn tỉnh có 164 xã, phường,
thị trấn. Ở Lào Cai các dân tộc thiểu số sống tập trung chủ yếu ở miền núi,
đời sống còn rất nhiều khó khăn. Những năm qua, các chính sách dân tộc
và miền núi của Đảng và nhà nước được thực hiện trên địa bàn tỉnh đã góp
phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc đặc
biệt là dân tộc thiểu số và miền núi, rút ngắn dần khoảng cách giữa miền
núi và đồng bằng. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời
gian qua vẫn còn những hạn chế cần được nhận thức và có những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn
tỉnh, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Công tác dân tộc ở Lào Cai còn một số mặt hạn chế như: chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá diễn ra chậm, chưa vững
chắc, nhân dân các dân tộc tiếp cận với cơ chế thị trường còn lúng túng,
sản phẩm hàng hoá chất lượng thấp, sức cạnh tranh không cao. Kết cấu hạ
tầng ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số còn thiếu và còn nhiều khó khăn,
nhất là hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi và điện lưới. Chất lượng xoá
đói, giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ đói nghèo còn cao (31%), thậm chí
có xã trên 80%. Chất lượng giáo dục - đào tạo còn hạn chế, trình độ dân trí
thấp, hệ thống y tế còn nhiều bất cập. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng cao,
vùng xa nhìn chung còn yếu, nhiều nơi cán bộ chưa chủ động được công
việc. Tình trạng di dịch cư tự do chưa giảm, các vi phạm, tội phạm về ma
tuý đang là vấn đề bức xúc, việc lợi dụng hoạt động tôn giáo, truyền đạo
trái pháp luật diễn ra phức tạp. Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân còn
mang nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số chưa tương xứng với tỷ lệ dân số của tỉnh.
Để tiếp tục thực hiện tốt công tác dân tộc, trong thời gian tới Lào Cai

sẽ đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, vai

2


trò của công tác dân tộc trong tình hình mới. Huy động các nguồn lực để
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn, thực
hiện có hiệu quả các chương trình, mục tiêu nhằm đẩy mạnh xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thường
xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, nâng cao sức chiến đấu, hiệu lực, hiệu
quả lãnh đạo, quản lí của tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân các cấp, nhất là cấp cơ sở. Tiếp tục thực hiện
phương châm hướng mạnh về cơ sở, lắng nghe ý kiến của nhân dân, thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy
sinh ngay từ cơ sở, không để phát sinh thành “điểm nóng”, chủ động phòng
ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, giữ gìn
cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Xuất phát từ lý do trên em chọn đề tài: “Việc thực hiện chính sách dân
tộc ở tỉnh Lào Cai hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Nội
dung vấn đề khá là rộng khuân khổ kiến thức còn hạn chế nên không thể
tránh khỏi những sai sót mong nhận được sự đóng góp của Thầy,Cô. Em
xin trân thành cảm ơn!
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới có nhiều thành phần tộc người
cư trú. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu các tộc người ở Lào Cai đã được giới
khoa học quan tâm chú ý. Và trong những năm gần đây ở nước ta đã có
nhiều công trình nghiên cứu và được tiếp cận dưới góc độ của các các môm
khoa học như: Xã hội học, sử học, CNXHKH….tiêu biểu là một số tác
phẩm như sau:
-


Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội –

Khóa Dân tộc (1995), “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và

3


Nhà nước”. Trên góc độ dân tộc học và chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước trong những năm đổi mới đất nước.
-

PGS.TS Trần Quang Nhiếp (1997), “Phát triển quan hệ dân tộc ở

Việt Nam hiện nay”,Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. tác giả đã nêu những
đặc điểm chủ yếu, thực trạng của quan hệ dân tộc, những yếu tố tác động,
các hình thức biểu hiện quan hệ dân tộc ở nước ta.
-

Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), “Vấn đề

dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cuấn sách đã trình bày về cơ sở lý luận và thực
tiễn về chính sách dân tộc của Đảng và những định hướng cơ bản trong
việc quy hoạch dân cư và đẩy mạnh phát triển kinh tế hang hóa.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về dân tộc
nói chung và chính sách dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai
còn ít được quan tâm, chú ý. Trong nghiên cứu này, tôi sẽ cố gắng làm rõ
thực trạng của chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai, từ đó đề xuất

một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chính sách dân
tộc ở tỉnh Lào Cai.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu
Đề tài làm rõ lý luận về việc thực hiện chính sách dân tộc, đánh giá
được thực trạng chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai. Từ đó đề ra được những
biện pháp phù hợp có thể áp dụng vào trong điều kiện của tỉnh Lào Cai
hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, khóa luận thực hiện các nhiệm vụ sau:

4


+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam về dân tộc và chính sách dân tộc.
+ Thực trạng chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai.
+ Biện pháp thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên địa bàn tỉnh Lào Cai từ năm 2010 đến nay
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về dân tộc và chính sách dân tộc
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp phân tích, tổng hợp,

phân loại.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, đánh giá.
6 .Đóng góp của đề tài
Đề tài làm rõ hơn việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai, từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả hơn nữa chính sách
dân tộc ở tỉnh Lào Cai nói riêng và góp phần trong việc thực hiện dân tộc ở
các địa phương khác trên cả nước nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì khóa
luận gồm có 3 chương và 6 tiết.

5


Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1.1. Quan điểm về dân tộc
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu quy luật phát triển khác quan
của từng dân tộc, thực chất mối quan hệ giữa các dân tộc, lý giải những
nguyên nhân dẫn tới tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác, để từ đó
nêu ra phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện quyền tự quyết của mỗi
dân tộc trên cơ sơ tự nguyện bình đẳng.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Anghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp. Căn cứ vào kinh nghiệm của phong trào các mạng
thế giới, thực tiễn cách mạng của nược Nga. Lênin đã khái quát thành một
cương lĩnh dân tộc. Cương lĩnh khẳng định “Các dân tộc hoàn toàn bình
đẳng, các dân tộc có quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
lại. Đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới

và kinh nghiệm nước Nga dạy cho công dân” [2, tr.375].
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Theo Lênin thì bình đẳng dân tộc là không phân biệt đối xử về trình đồ
văn hóa hay kinh tế, không phân biệt tôn giáo, màu da…
Theo Lênin ‘ Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với
đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số….bất cứ một đặc quyền nào
dành riêng cho một dân tộc, bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của
một dân tộc thiểu số đều bị bác bỏ’ [2, tr.179].
- Bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa- xã hội

6


Lênin cho rằng việc bình đẳng về văn hóa là không tách rời với kinh
tế- chính trị. Lênin phê phán ‘ tự trị dân tộc văn hóa’ của những người
thuộc phái Bum và những người dân chủ Áo. Vì khẩu hiệu này là thu hẹp
các quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc.
- Các dân tộc có quyền tự quyết
Theo Lênin quyền tự quyết là quyền tự chủ của mỗi dân tộc đối với
vận mệnh của dân tộc mình.
Quyền tự quyết gồm: tự quyết về chính trị - xã hội và con đường phát
triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết cũng được thể hiện ở quyền tự do
phân lập thành các quốc gia độc lập hay quyền tự nguyện liên hiệp lại của
các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của nhân dân các dân tộc vì mục tiêu phát triển hòa bình.
- Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định rằng quyền bình đẳng và quyền tự
quyết các dân tộc không phải tự nhiên mà có được, chúng là kết quả đấu
tranh chống lại mọi thế lực xâm lược, áp bức dân tộc. Đồng thời bình đẳng
dân tộc còn phụ thuộc và sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân , các

dân tộc trong từng quốc gia cũng như trên thế giới.
Trong thực tế hiện nay chúng ta không bác bỏ mà còn cung cấp thêm
sự kiện, con số để xác nhận sự đúng đắn của Cương lĩnh đó khi vận dụng
vào mỗi quốc gia, dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu cho tinh thần dân
tộc. Bác đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tư tưởng của Người về chính sác dân tộc thể hiện rõ ở những điểm sau:
Thứ nhất, tư tưởng giải phóng dân tộc và con đường giải phóng dân
tộc ở Việt Nam.

7


Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến giàu truyền
thống yêu nước Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết được nỗi đau của một dân
tộc mất nước. Với lòng yêu nước Hồ Chí Minh quyết định ra đi tìm đường
cứu nước với khát vọng giải phóng dân tộc. Trước khi gặp chủ ngĩa Mác –
Lênin và đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga , Hồ Chí
Minh đã đọc và tìm hiểu nhiều học thuyết và các hình mẫu cách mạng điển
hình như cách mạng tư sản Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã nhận rõ điều căn
bản của các cuộc cách mạng đó là không triệt để giải phóng người lao động
và các dân tộc bị áp bức, ngược lại các cuộc cách mạng ấy lại nhằm duy trì
áp bức, bóc lột và thay thế bằng hình thức bóc lột mới.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin , Hồ Chí Minh đã sớm ý
thức được tính chất của thời đại mới, thời đại thắng lợi của cách mạng vô
sản mở đầ là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.
Thứ hai, chính sách dân tộc phải thực hiện sự bình đẳng, giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc để cùng nhau đoàn kết tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình cách mạng, sự bình đẳng giữa các dân tộc được thể

hiện bằng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm
giáo dục, thức tỉnh đồng bào các dân tộc về lòng yêu nước, tổ chức đấu
tranh giải phóng dân tộc xây dựng quê hương, đất nước.
Thứ ba, chính sách dân tộc phải chú ý đến tính đặc thù dân tộc.
Phong tục tập quán của đồng bào miền núi khác so với đồng bào
miền xuôi. Do điều kện địa lý – văn hóa miền núi nên Hồ Chí Minh đòi hỏi
chính sách dân tộc phải có nội dung, biện pháp và bước đi thích hợp.
Thứ tư, chính sách dân tộc phải hướng vào sự phát triển toàn diện
miền núi.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm tới yêu cầu phát triển của đồng bào
miền núi, khả năng phát triển của miền núi. Theo Hồ Chí Minh đi lên chủ

8


nghĩa xã hội phải đi bằng hai chân, công – nông nghiệp ở miền núi, tiềm
năng và thế mạnh là đất rừng. Người chỉ ra một số nhiệm vụ cụ thể như:
Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển giao thông đến
từng bản làng, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, xây dựng đời
sống văn hóa – xã hội cho đồng bào các dân tộc, cải tạo dần những phong
tục tập quán lạc hậu. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ lưu ý là làm dần dần,
không chủ quan và nóng vội.
Thứ năm, chính sách dân tộc phải chú trọng đến công tác đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển và chăm sóc đội ngũ cán bộ, con em của
đồng bào dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh thì cán bộ là gốc của mọi công việc và công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người đòi hỏi cán bộ
phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi. Cử cán bộ
người Kinh giúp đỡ cán bộ an hem địa phương và làm cho cán bộ địa
phương tiến bộ.

Từ những tư tưởng của Người về chính sách dân tộc được thực tiễn
trong mấy chục năm qua chứng minh là đúng đắn. Việc thực hiện hóa
những tư tưởng ấy đã đem lại những thành tựu vô cùng to lớn trong việc
xây dựng vùng đồng bào các dân tộc trong cả nước.
1.2. Chính sách dân tộc
1.2.1. Khái niệm dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, có những
nét đặc thù về văn hoá; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao
hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự
giác tộc người của dân cư cộng đồng đó [2, tr.316].

9


Theo nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia, là dân tộc - tộc người.
Theo nghĩa rộng, dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền
lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước [2, tr.316].
Theo nghĩa này dân tộc là dân cư của một quốc gia nhất định, là quốc gia dân tộc.
Trong đề tài này, chúng tôi hiểu dân tộc theo nghĩa thứ nhất.
Tuy nhiên khi đặt nó bên cạnh nghĩa thứ hai thì chúng ta thấy được
mối liên hệ giữa chúng.
1.2.2. Vai trò của chính sách dân tộc đối với sự phát triển của đất nước
Chính sách dân tộc là chính sách để giải quyết vấn đề dân tộc và mối
quan hệ giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngay từ
khi mới dựng nước và giữ nước đất nước ta đã là một quốc gia đa dân tộc.

Tuy nhiên các dân tộc trên đất nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc đã
tạo nên một quốc gia đa dân tộc bền vững, thống nhất. Chính vì vậy, ngay
từ khi mới ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân
tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt
Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Có thể khẳng
định chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực
hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ

10


thể, chính sách dân tộc của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu
cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước.
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi
mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi
mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn
đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Từ Đại hội IV đến Đại hội X của Đảng, chính sách dân tộc đã được
Đảng ta đề ra trên các vấn đề cốt lõi là: Vị trí của vấn đề dân tộc trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng, các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc,
những vấn đề trọng yếu của chính sách dân tộc trong những điều kiện cụ
thể. Các nội dung cơ bản trên đây đã được thể chế hóa và triển khai thực
hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Khoá IX về công tác dân tộc đã khẳng định chính sách dân tộc trong giai

đoạn hiện nay là: Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các vùng dân
tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ
tầng, xoá đói, giảm nghèo, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội
lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng
cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa
phương trong cả nước.
Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tiếp nối các kỳ đại hội trước đó đến Đại hội XII của Đảng quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là quan điểm nhất quán

11


theo nguyên tắc “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau
cùng phát triển”. Điều này một mặt thể hiện trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, mặt khác cho thấy việc giải
quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết cần phải có những chỉ đạo
kịp thời.
Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc đặc
biệt quan tâm tới các vùng dân tộc thiểu số. Xuất phát từ những quan điểm
trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số được tập
trung chú trọng như:
- Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong những năm
trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số
đặc biệt khó khăn.

- Phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng
vùng dân tộc. Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế
mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán
bộ và đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số.
- Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân
tộc thiểu số góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong phú,
giàu bản sắc dân tộc.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi,
nâng cao dần mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi
mới vừa qua và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số

12


một cách đồng bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Đồng thời, đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát
triển trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình phát
triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa
(Chương trình 135),…
Với sự quan tâm sâu sắc, chăm lo đầy đủ, cụ thể của Đảng và Nhà
nước, cùng với tinh thần nỗ lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc, tình
hình kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc đã có bước chuyển biến, tiến
bộ đáng kể, cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa được cải thiện rõ rệt, quyền của các dân tộc thiểu số được bảo đảm
đầy đủ và toàn diện.

Chính sách dân tộc ở Việt Nam là cụ thể hoá quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc. Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc
của Đảng nhằm khai thác mọi tiềm năng đất nước để phục vụ đời sống
nhân dân các dân tộc, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch, xoá
đói giảm nghèo, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nguyên
tắc cơ bản đó là: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển.
Các nội dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
hợp thành một thể thống nhất đây vừa là mục tiêu lại vừa là động lực của
sự phát triển. Có bình đẳng thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc có
đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau thì mới thực hiện được
bình đẳng dân tộc.
1.2.3. Một số quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được biểu
hiện cụ thể như:

13


Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng
Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi
âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, quan tâm phát triển,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát
huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong

sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và kết cấu hạ tầng, xóa đói,
giảm nghèo, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội lực, tinh thần tự
lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm
hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị, nhằm thực
hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng.
Thứ hai, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân
tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Trước
mắt cần tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó khăn,
giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực,
thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh
hoạt tối thiểu, xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng

14


xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất,
đất ở và vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là
ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơme Tây Nam Bộ.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới.
Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới.
Quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo đảm an
ninh, quốc phòng. Thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát
thanh, truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên
truyền hướng về cơ sở, tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương

trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số, làm tốt công
tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt
đẹp trong văn hóa của các dân tộc. Thực hiện chương trình phổ cập giáo
dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân
tộc nội trú các cấp, đẩy mạnh việc tổ chức các trường mẫu giáo công lập,
mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình
đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc, đưa chương trình dạy nghề
vào các trường dân tộc nội trú, tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử
tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học và cao
đẳng. Tổ chức hệ thống trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán
bộ là người dân tộc thiểu số. Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y
tế cho các xã, bản, thôn, ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm
sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ ba, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở
các vùng dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, kiên
quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân của một số cán bộ, thực hiện

15


tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển
cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc. Xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức
mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù
địch, tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, không để xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng
dân tộc và miền núi. Tiếp tục xây dựng, phát triển nhanh các khu kinh tế
kết hợp quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Thực hiện tốt chính
sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và miền núi, kiên quyết ngăn

chặn việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng để hoạt
động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, tạo
điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây dựng, thực hiện và
giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Thông qua các chính
sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý
chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống ngày
càng ấm no, hạnh phúc.
Quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc nói chung đã đoàn kết
được tất cả các dân tộc trên đất nước ta cùng phấn đấu cho mục tiêu chung
là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.

16


Tiểu kết chương 1
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách dân
tộc là cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu đổi mới việc thực hiện chính
sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt những
nguyên lý, những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đó là thực hiện giải phóng dân tộc khỏi áp bức của đế quốc phong
kiến giành độc lập dân tộc. Giải phóng các dân tộc khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
cùng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những nguyên lý đó đã được vận dụng sang tạo vào tình hình thực

tiễn nước ta với tinh thần sang tạo và đổi mới. Từ đó nhận thức sâu sắc và
toàn diện hơn về nội dung cơ bản chính sách dân tộc của Đảng để thực hiện
có hiệu quả cao hơn.
Đảng và Nhà nước ta nhất quán các quan điểm về dân tộc, xuyên suốt
mọi thời kỳ của cách mạng là: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ
cùng phát triển”, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “Nhà
nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định “Các dân tộc trong
đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

17


Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC T HỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC Ở TỈNH LÀO CAI
2.1.Khái quát về tỉnh Lào Cai
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Lào Cai là một tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Việt Nam,
diện tích tự nhiên 6.383,89km2. Vị trí nằm ở các điểm: Phía Bắc giáp tỉnh
Vân Nam - Trung Quốc; phía Nam giáp tỉnh Yên Bái; phía Đông giáp tỉnh
Hà Giang; phía Tây giáp tỉnh Lai Châu. Lào Cai có 203,5 km đường biên
giới với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc.
Lào Cai có vị trí địa lý quan trọng trên tuyến hành lang kinh tế Côn
Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, là “cửa ngõ”, “cầu
nối” của Việt Nam, các nước ASEAN với thị trường Vân Nam và miền
Tây Nam Trung Quốc. Với vị trí địa lý như vậy tạo cho Lào Cai có những
lợi thế phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Địa hình: Địa hình tỉnh Lào Cai đặc trưng là núi cao xen kẽ với đồi

núi thấp, bị chia cắt lớn, với phần thung lũng dọc sông Hồng và các tuyến
đường bộ, đường sắt chạy qua vùng trung tâm của tỉnh. Các huyện miền
núi nằm bao quanh hành lang trung tâm này từ Đông - Bắc sang Tây –
Nam, gồm nhiều dãy núi và thung lũng nhỏ biệt lập, nơi có các cộng đồng
dân cư sinh sống. Những vùng có độ dốc trên 250 chiếm tới 80% diện tích
đất đai của tỉnh. Địa hình tự nhiên của tỉnh có độ cao thay đổi từ 80 m đến
3.143 m so với mực nước biển tại đỉnh Phan Si Păng, đỉnh núi cao
nhất Việt Nam. Địa hình vùng núi với các tác động tiểu khí hậu đã
giúp tạo nên một môi trường thiên nhiên rất đa dạng với nhiều vùng
sinh thái khác nhau (tiểu vùng).

18


Dải đất dọc theo sông Hồng và sông Chảy gồm thành phố Lào Cai Cam Đường - Bảo Thắng - Bảo Yên và phần phía đông huyện Văn Bàn
thuộc các đai độ cao thấp hơn (điểm thấp nhất là 80 m thuộc địa phận
huyện Bảo Thắng), địa hình ít hiểm trở hơn, có nhiều vùng đất đồi thoải,
thung lũng, là địa bàn thuận lợi cho sản xuất nông lâm nghiệp hoặc xây
dựng, phát triển cơ sở hạ tầng.
2.1.2. Điều kiện xã hội
Sản xuất nông, lâm nghiệp và phát triển nông thôn
+ Trồng trọt:
Các địa phương thu hoạch cây trồng vụ Đông, chuẩn bị giống, vật tư
phân bón phục vụ cho sản xuất vụ Xuân 2018 đảm bảo đủ số lượng
và chủng loại.
+ Chăn nuôi:
Công tác phòng chống đói, rét cho đàn gia súc, gia cầm được các địa
phương tích cực thực hiện. Công tác kiểm soát giết mổ, kiểm dịch vận
chuyển, kiểm tra vệ sinh thú y đảm bảo an toàn dịch bệnh và an toàn vệ
sinh thực phẩm được tăng cường nhằm đảm bảo an toàn.

+ Phát triển nông thôn:
Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tiến
hành đánh giá công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017, đồng thời
đẩy mạnh đôn đốc, hướng dẫn các địa phương, các sở, ngành liên quan xây
dựng kế hoạch năm 2018 và tổ chức triển khai , đăng ký thực hiện xây
dựng thôn nông thôn mới và thôn, kiểu mẫu năm 2018.
Phong trào làm đường giao thông nông thôn tiếp tục được nhân dân
hưởng ứng tích cực.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản:
+ Sản xuất công nghiệp:

19


Hoạt động sản xuất công nghiệp duy trì ổn định, giá trị sản suất công
nghiệp trên địa bàn (theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.150,4 tỷ đồng, đạt
7,8% kế hoạch và tăng 28,4% so với cùng kỳ. Các ngành công nghiệp
(công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp điện,
nước) đều tăng so với cùng kỳ . Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp
tăng như: Axit sunfuric (tăng gấp 5,9 lần), phân DAP (tăng gấp 2,6 lần),
vàng (tăng gấp 2 lần, xi măng (tăng gấp 2 lần),...
Tình hình tiêu thụ sản phẩm công nghiệp cơ bản ổn định so với tháng
trước, giá trị tiêu thụ ước đạt 2.021 tỷ đồng, giá bán các sản phẩm công
nghiệp ổn định ở mức khá cao .
+ Xây dựng cơ bản:
Kế hoạch năm 2018: Tổng kế hoạch vốn giao đầu tư phát triển năm
2018 đến 31/01/2018 là 2.207,802 tỷ đồng, đã giải ngân 7,784 tỷ đồng. Các
chủ đầu tư đang tiếp tục thực hiện các thủ tục và hoàn thiện hồ sơ thanh
toán tại Kho bạc Nhà nước tỉnh, huyện để giải ngân vốn 2018 theo
đúng quy định.

Thương mại, dịch vụ
+ Hoạt động thương mại:
Hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi
động do nhu cầu tiêu dùng tăng cao.
+ Hoạt động xuất nhập khẩu:
Hoạt động xuất khẩu tại cửa khẩu quốc tế đường bộ và đường sắt
được duy trì tốt và tăng cao.
+ Du lịch:
Do có đợt nghỉ lễ Tết dương lịch 2018 và thời tiết trên địa bàn rét
đậm, xuất hiện hiện tượng băng tuyết tại huyện Sa Pa, đã thu hút một lượng

20


lớn khách du lịch tới Lào Cai, tổng doanh thu du lịch ước đạt 935,1 tỷ
đồng, đạt 121,1% , tăng 24,7%. [15, tr.32].
+ Dịch vụ bưu chính, viễn thông:
Mạng lưới dịch vụ bưu chính, viễn thông đáp ứng được yêu cầu
sản xuất kinh doanh, công tác quản lý và nhu cầu thông tin liên lạc
của nhân dân.
+ Hoạt động vận tải cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hành khách và
hàng hóa của nhân dân dịp trước Tết Nguyên đán.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Lào Cai
2.2.1. Đặc điểm tình hình dân tộc ở tỉnh Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc), phía tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang,
phía nam giáp Yên Bái và Sơn La. Hiện nay Lào Cai có 25 nhóm ngành
dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
64,09% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc Mông chiếm
22,21%, Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các

dân tộc đặc biệt ít người như Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí. Các dân
tộc thiểu sốphân bố cư trú trên địa bàn 9/9 huyện của tỉnh [ 15, tr3].
Đơn vị hành chính: Có 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện là Sa Pa, Bát
Xát, Bảo Yên, Bảo Thắng, Si Ma Cai, Văn Bàn, Mường Khương, Bắc Hà,
với 164 xã, phường, thị trấn. Tỉnh Lào Cai được chia làm 3 khu vực:
Khu vực I, là các xã có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi.
Chủ yếu là các xã ở vùng thấp, gần trung tâm các huyện, thành phố, giao
thông và các dịch vụ xã hội thuận lợi.
Khu vực II, là các xã có điều kiện phát triển kinh tế- xã hội khó khăn,
phần lớn các xã này nằm ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại còn tương
đối khó khăn; các dịch vụ xã hội cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt.

21


×