MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển của thế giới, nhân loại đã chứng kiến sự xuất hiện
của nhiều nền văn minh lớn mà trong đó là nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Đó
không chỉ là một trong những cái nôi văn minh sớm nhất của loài người mà
còn được biết đến là nơi triết học phát triển sớm nhất, đạt được nhiều thành
tựu và cũng xuất hiện nhiều nhà triết học nổi tiếng như Hêraclít, Đêmôcrít,
Platôn, Arixtốt…
Nền triết học Hy Lạp cổ đại được xem như một khúc nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học phương Tây, một giai đoạn khởi nguyên
tiềm tàng của triết học nhân loại. Như vậy, để có một nền triết học đồ sộ, thì
sự hiện diện của những triết gia và tư tưởng của các triết gia chính là điều chi
phối, quyết định. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng
để nâng cao nghệ thuật hùng biện, bảo vệ quan điểm triết học của mình, để
tìm ra chân lý.
Trên cơ sở kiến thức đã học, các tài liệu đã nghiên cứu và vốn hiểu
biết của mình về Triết học nói chung và Triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng, Em
xin được trình bày tiểu luận với Đề tài: “Triết học Hy Lạp cổ đại và ánh hào
quang của những trí tuệ bách khoa kỳ diệu”.
Mặc dù, đã cố gắng tìm tòi, học hỏi và có nhiều sự cố gắng trong quá
trình thực hiện Đề tài. Tuy nhiên, sự hiểu biết của bản thân còn hạn chế, do đó
mà không thể tránh được một số thiếu sót. Em kính mong nhận được ý kiến
tham gia của Quý Thầy Cô để em có thể bổ sung kiến thức cho bản thân và
hoàn thiện Đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn Quý Thầy Cô!
1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HY LẠP CỔ ĐẠI
Người Hy Lạp ngày nay thường tự hào rằng đất nước của họ là cái nôi
của văn minh Châu Âu. Niềm tự hào này thật chính đáng, lịch sử đã từng biết
đến một thời kỳ “Hy Lạp hóa” (334-30 trước công nguyên), văn hóa Hy Lạp
truyền bá khắp châu Âu, sang cả châu Phi, châu Á. Trong sự phát triển rực rỡ,
xán lạn đó thì Triết học Hy Lạp cổ đại và những nhà Triết học cổ đại đóng vai
trò quan trọng. Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là cội nguồn của Triết học
châu Âu.
1. Địa lý và dân cư
Trước đây các bộ lạc Hy Lạp gọi bộ lạc của mình bằng những tên
riêng. Đến khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên (TCN), người Hy Lạp gọi
mình là Helen (Hellenes), bởi thờ nữ thần Helen. Sau đó là Hêla (Hellas), tức
là Hy Lạp.
Lãnh thổ cổ đại Hy Lạp rộng lớn hơn đất nước Hy Lạp ngày nay rất
nhiều, bao gồm: miền nam bán đảo Bancăng, các đảo trên biển Egiê và miền
ven biển Tây Tiểu Á, trong đó quan trọng nhất là miền nam bán đảo Bancăng,
tức là vùng lục địa Hy Lạp.
Gọi là lục địa Hy Lạp, nhưng ở đây không có những đồng bằng phì
nhiêu, rộng lớn như các quốc gia cổ đại phương Đông. Trái lại, đất đai ở đây
ít, không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, địa hình lại bị chia cắt
thành những vùng sinh thái nhỏ xen lẫn đồi núi, đồng bằng, bờ biển. Bù lại,
Hy Lạp có nhiều nguồn nguyên liệu, nhiều hải cảng thuận tiện cho việc phát
triển thủ công nghiệp và thương nghiệp. Vì vậy người Hy Lạp sớm quan tâm
đến thương mại và nghề hàng hải hơn là đi khai phá những vùng đất đai cằn
cỗi của mình.
Cư dân Hy Lạp cổ đại bao gồm nhiều tộc người: Người Eôliêng,
Iôniêng, Đôniêng Akêăng… cư trú thành từng vùng, theo từng bộ tộc trên bán
đảo Hy Lạp.
2
2. Sơ lược lịch sử Hy Lạp cổ đại
Lịch sử Hy Lạp cổ đại có thể chia thành 4 thời kỳ gồm: Thời kỳ văn
hóa Crét – Myxon, thời kỳ Hôme, thời kỳ các thành bang, thời kỳ Makêđônia.
2.1. Thời kỳ văn hóa Crét – Myxen
Đây là nền văn hóa có từ rất sớm trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, Trung
tâm của nó là đảo Crét và vùng Myxen (bán đảo Pêlônedơ). Nhưng gần cuối
thế kỷ XIX, người ta mới biết đến nó qua những cuộc khai quật khảo cổ. Nền
văn minh Crét có những cung điện, có những thành quách, có chữ viết, tồn tại
khoảng 18 thế kỷ (từ đầu thế kỷ III đến thế kỷ XII trước công nguyên). Văn
minh Myxen rực rỡ nhất vào những năm 1194 – 1184, vì Myxen từng tấn
công thành Tơroa ở Tiểu Á và tiêu diệt quốc gia này. Cuối thế kỷ XII trước
công nguyên (TCN), người Đôriêng từ phía Bắc tràn xuống đã tiêu diệt toàn
bộ Crét – Myxen. Thời kỳ Crét – Myxen kết thúc.
2.2. Thời kỳ Hôme
Thời kỳ Hôme kéo dài từ thế kỷ XI đến thế kỷ IX (TCN). Thời kỳ
này, xã hội Hy Lạp tồn tại dưới hình thức công xã nguyên thủy, nhưng do
đồ sắt được sử dụng rộng rãi nên nền kinh tế phát triển mạnh. Buôn bán
mở rộng khắp vùng.
2.3. Thời kỳ các thành bang
Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Do sự
phân hóa giai cấp và sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, đến thế kỷ
XVIII (TCN), ở Hy Lạp xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ, những nhà nước
này đều có những trung tâm nên gọi là các thành bang (thành bang XPac;
thành bang ATen)
2.4. Thời kỳ Makêđônia
Đến thế kỷ IV (TCN), nhiều cuộc khởi nghĩa của nô lệ và dân nghèo
nổ ra, nền kinh tế của Hy Lạp bị đình trệ và suy thoái. Lợi dụng tình hình đó,
một quốc gia bé nhỏ ở Đông Bắc Hy Lạp là Makêđônia đã đánh chiếm Hy
Lạp. Đến giữa thế kỷ II TCN (năm 146), Hy Lạp bị La Mã xâm lược. Nhiều
3
nước khác ở khu vực Địa Trung Hải và kể cả phương Đông cũng bị La Mã
thôn tính. Nhưng tất cả những nước này đều học theo văn minh Hy Lạp.
Người ta gọi đó là thời kỳ “Hy Lạp hóa”.
Tóm lại, nền văn hóa Hy Lạp cổ đại đã đạt được những thành tựu
khổng lồ về mọi mặt và đã có những cống hiến vô cùng to lớn cho nhân loại.
So với ngày nay, văn minh Hy Lạp cổ đại đã lùi xa, nhưng văn hóa, tư tưởng
của nó vẫn giữ nguyên những giá trị. Mác, Ăngghen, Lênin gọi những nhà
bác học Hy Lạp cổ đại là “những bộ óc khổng lồ”.
4
Chương 2
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái quát chung
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là cội nguồn của Triết học châu Âu
và cũng là một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Lịch
sử triết học Hy Lạp chủ yếu là lịch sử hình thành, phát triển và đấu tranh giữa
hai phái duy tâm và duy vật. Trong đó, tên tuổi của nhiều nhà triết học vẫn tỏa
sáng và các nhà triết học Hy Lạp cổ đại có những khả năng tư duy triết học
thiên tài và Mác nhận định rằng “Người Hy Lạp mãi mãi vẫn là bậc thầy của
chúng ta”.
Triết học Hy Lạp hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN) trên cơ
sở kinh tế là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ.
Xã hội đã có sự phân chia giai cấp và sự phân công lao động, phân công rõ
hình thức lao động trí óc và hình thức lao động chân tay. Chính từ việc phân
chia rõ hình thức lao động trí óc và hình thức lao động chân tay mà qua đó,
dẫn đến sự hình thành một bộ phận các nhà triết học và khoa học. Những
người lao động trí óc, có điều kiện nghiên cứu và học hỏi, trau rồi kinh
nghiệm dẫn đến sự hình thành các tư tưởng triết học và khoa học, sự xuất hiện
của các thành tựu triết học, khoa học. Sự xuất hiện của triết học và khoa học
này đã phá vỡ ý thức thần thoại và tôn giáo nguyên thủy. Mặt khác, cách tư
duy bài bản, lớp lang thông qua “Thần thoại Hy Lạp” đã phần nào giải thích
rõ ràng nguồn gốc của các vị thần, nguồn gốc của các hiện tượng tự nhiên…
chính là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên triết học
Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại được chia làm 3 thời kỳ chính, đó là:
Thời kỳ hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ; Thời kỳ phồn vinh của chế độ nô
lệ Hy Lạp với triết học Empêđốclơ và Anaxago; Thời kỳ tan rã của chế độ nô
lệ Hy Lạp cổ đại.
5
Xuất phát từ nhu cầu sản xuất thực tiễn của đời sống, thông qua các
hoạt động sản xuất kinh tế như sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp, hàng hải… do đó mà hình thành tri thức khoa học khác như: thiên
văn, toán học, vật lý, khí tượng… Thời kỳ này, ở Hy Lạp cổ đại khoa học
chưa có sự phân ngành, triết học vẫn được coi là khoa học của các ngành
khoa học khác. Các sáng kiến của các ngành khoa học khác đều được trình
bày trong triết học, nêu lên trong triết học, điều này khiến cho triết học Hy
Lạp gắn liền với thực tiễn hơn. Cũng bởi do vị trí địa lý và quá trình giao
thương giữa người Hy Lạp cổ đại với các quốc gia, khu vực khác như Ai Cập,
Lưỡng Hà mà một số thành tựu khi được phát kiến ra tại các quốc gia, khu
vực này không được biết đến mà người Hy Lạp lại tiếp thu và phát triển nó,
biến nó thành những thành tựu của họ nói riêng và của đất nước Hy Lạp cổ
đại nói chung.
2. Những đặc điểm của Triết học Hy Lạp cổ đại
Một là, triết học Hy Lạp cổ đại là triết học của giai cấp chủ nô, cho
nên nó mang tính đảng, tính giai cấp sâu sắc. Điều này được thể hiện rất rõ ở
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; điển hình là ở
“đường lối” Đêmôcrít và “đường lối” Platôn.
Hai là, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã đề cập đến
nhiều vấn đề khác nhau thuộc về thế giới quan của người Hy Lạp cổ đại.
Trước hết là những vẫn đề: tồn tại là gì? Nguồn gốc của thế giới là gì? Và
những vấn đề này luôn được giải quyết theo hai quan điểm trái ngược nhau:
hoặc là duy vật, hoặc là duy tâm.
Ba là, triết học Hy Lạp cổ đại chứa đựng mầm mống của nhiều thế
giới quan hiện đại sau này. Bởi lẽ, triết học Hy Lạp được nảy sinh từ nhiều
vùng khác nhau thuộc Hy Lạp cổ đại và nó phát triển đa dạng, phong phú.
Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó chặt chẽ với khoa học đương
thời. Các nhà triết học cũng đồng thời là các nhà khoa học. Vì vậy, đã xuất
hiện quan niệm sai lầm cho rằng, triết học là khoa học của các khoa học.
6
Năm là, trong triết học Hy Lạp cổ đại, đã có tư tưởng biện chứng.
Đỉnh cao là biện chứng của Hêraclít. Mặc dù phép biện chứng này còn thô sơ,
chất phác nhưng đã là hình thức lịch sử đầu tiên của phép biện chứng duy vật
và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tư duy biện chứng của nhân loại.
Sáu là, triết học Hy Lạp cổ đại đề cập đến vấn đề con người và số
phận con người. Mặc dầu các nhà triết học còn có nhiều ý kiến khác nhau về
bản chất con người, nhưng họ đều coi con người là tinh hoa cao quý của tạo
hóa, con người cần chinh phục thiên nhiên phục vụ cho mình.
Bảy là, các trường phái trong triết học Hy Lạp cổ đại đều đại diện cho
những giai cấp, tầng lớp trong xã hội lúc bấy giờ. Nếu như, tầng lớp chủ nô
dân chủ đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, vô thần, đấu tranh cho sự
phát triển của xã hội, thì tầng lớp chủ nô quý tộc lại đứng trên lập trường duy
tâm, tôn giáo, lạc hậu chống lại tầng lớp chủ nô dân chủ nhằm duy trì trật tự
xã hội và địa vị xã hội của mình.
Tóm lại, những đặc điểm trên đã làm rõ sự khác biệt của lịch sự triết
học Hy Lạp cổ đại với các thời kỳ khác. Đồng thời, những đặc điểm trên còn
chỉ ra được vai trò nền móng của triết học Hy Lạp cổ đại trong nền triết học
thế giới từ đó về sau này. Đồng thời cũng khẳng định rõ vị trí và vai trò của
nó đối với lịch sử triết học thế giới, làm phong phú tư duy triết học.
7
Chương 3
NHỮNG TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Talét
Talét (624 – 546 TCN), ông là nhà triết học, toán học, thiên văn học
đầu tiên của Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng, nước là cơ sở ban đầu của tất cả
mọi vật. Nước vận động và sinh ra vạn vật.
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện
chứng tự phát. Ông chủ trương giải thích thế giới tự nhiên không phải bằng
tín điều và bằng sự kiện quan sát. Từ chỗ nhận thấy mọi hạt giống, thức ăn,
bản thân của mọi sự vật đều ẩm ướt… mà nguồn gốc của các vật thể ẩm ướt
chính là nước, hơn nữa đại lục nổi lên trên đại dương mà ông kết luận rằng,
nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật thể trong thế giới. Mọi vật
đều sinh ra từ nước và khi phân hủy đều biến thành nước. Theo Talét, vật chất
tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng mà nền
tảng là nước. Tuy nhiên các quan điểm triết học duy vật của Talét chỉ dừng lại
ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Talét chưa thoát khỏi ảnh hưởng của
quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy khi ông cho rằng thế giới đầy
rẫy những vị thần linh.
2. Anaximanđơ
Anaximanđơ (611 – 546 TCN), ông là người kế tục xuất sắc của Talét.
Ông cho rằng có một chất không giới hạn “Apâyrôn” sinh ra vạn vật và khi
vạn vật chết đi lại trở về Apâyrôn. So với Talét thì Anaximanđơ có bước tiến
xa hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất.
3. Anaximen
Anaximen (585 – 525 TCN), ông cho rằng, không khí là nguồn gốc
của vạn vật, không khí loãng sinh ra lửa, không khí đặc sinh ra nước, gió,
mây, đất đá… không khí là nguồn gốc của sự sống.
8
4. Ampêđốc
Ampêđốc (495 – 435 TCN), ông cũng là một nhà triết học nổi tiếng
của Hy Lạp. Ông cho rằng, có 4 yếu tố cấu thành thế giới vật chất, đó là: đất,
nước, lửa, không khí. Ông là người sáng lập ra lý thuyết cổ điển về 4 nguyên
tố, đặt cơ sở khoa học cho việc nhận thức về các yếu tố.
5. Hêraclít
Hêraclít (520 – 463 TCN), ông là nhà biện chứng nổi tiếng của Hy
Lạp cổ đại, sinh ra ở thành phố Êphedơ và xuất thân từ tầng lớp chủ nô, quý
tộc. Tuy vậy, cuộc đời ông phải sống trong sự nghèo khổ và cô đơn, đến
những năm cuối đời, Hêraclít bỏ lên núi sống và chết ở đó. Người đời gọi ông
là “tăm tối”, bởi lẽ ông là người có rất nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc,
song cách diễn đạt của ông lại rất rối và khó hiểu.
Quan niệm của Hêraclít về thế giới được xếp vào chủ nghĩa duy vật sơ
khai, ông cho rằng thế giới vật chất không phải do người hoặc do thần tạo ra
mà nó được tạo ra từ lửa. Ông nói: “mọi cái biến đổi thành lửa và lửa tạo
thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”.
Tất nhiên mọi vật không phải trực tiếp sinh ra từ lửa và khi mất đi cũng biến
trực tiếp thành lửa. Ông giải thích rằng: “cái chết của lửa – là sự ra đời của
không khí và cái chết của không khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của
nước sinh ra không khí, từ cái chết của không khí sinh ra lửa và ngược lại”.
Nhờ có sự biến hóa của lửa mà vật chất mới biến đổi thành nước, đất, không
khí. Theo vậy, một thể lửa biến thành nhiều, tức là thành vạn vật, vạn vật ấy
lại theo đường ngược lại quay về thành lửa.
Hêraclít đã thể hiện quan niệm duy vật ở việc nhấn mạnh tính vĩnh
viễn và bất diệt của thế giới, có nguyên nhân tự nó chứ không phải do một lực
lượng siêu nhiên hay thánh thần nào tạo ra. Theo ông, nó “mãi mãi đã, đang
và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi.
Phép biện chứng thô sơ, chất phác của Hêraclít thể hiện rõ ở việc ông
nhìn nhận mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi, vận động, phát
9
triển không ngừng. Ông tuyên bố một câu bất hủ: “Người ta không thể tắm
hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước không ngừng trôi”. Nguyên nhân
của sự vận động, biến đổi được ông nhận định là do bản thân Logos (chuẩn
mực của sự vật – theo Hêraclít còn có nghĩa là quy luật khách quan của vũ
trụ, quy định trật tự và chuẩn mực của mọi thứ trong thế giới). Vì vậy mà giữa
Logos và lửa không thể tách rời nhau.
Hêraclít cũng thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập,
trong các mối liên hệ khác nhau, chúng chuyển hóa và có tác động liên hệ lẫn
nhau. Sự xuất hiện của mặt đối lập này lại quy định mặt đối lập kia. Tuy
nhiên, do giới hạn của lịch sử và sự nhận thức nói chung còn hạn chế, Hêraclít
mới chỉ nhận thức sự vật vận động và biến hóa theo quy luật tuần hoàn mà
chưa nhận thức theo sự phát triển.
Về nhận thức luận và nhân bản học: Hêraclít đánh giá cao vai trò của
các giác quan trong nhận thức các sự vật đơn lẻ, cho rằng chúng đem lại cho
ta những hiểu biết xác thực và sinh động về sự vật. Ông cũng cho rằng, mục
đích tối cao của chúng ta là nhận thức Logos, nhận thức sự thống nhất của vũ
trụ và sự thông thái tối cao; ông cho rằng linh hồn con người cũng chỉ là biểu
hiện của lửa, là sự thống nhất của hai mặt đối lập: cái ẩm ướt và lửa.
6. Đêmôcrít
Đêmôcrít (khoảng 460 – 370 TCN), ông là một nhà triết học duy vật
nổi tiếng. Ông sinh ra ở thành phố Ápđe, vùng Tơraxơ, trong một gia đình
giàu có. Vì vậy mà ông có điều kiện đi nhiều nơi, đặc biệt là Ai Cập và Lưỡng
Hà. Đêmôcrít là học trò của Lơxíp. Ông đã tiếp tục phát triển và hoàn thiện
học thuyết nguyên tử. Ông được người đương thời coi là nhà bách khoa toàn
thư đầu tiên của thời cổ đại. Arítxtốt đã viết về Đêmôcrít: “Ngoài Đêmôcrít
ra, hầu như chưa có ai nghiên cứu một cách cặn kẽ về một vấn đề gì.
Đêmôcrít hầu như đã suy nghĩ đến tất cả mọi cái”. Đêmôcrít viết rất nhiều tác
phẩm và thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: đạo đức, triết học, tâm lý, toán
học, sinh học, vật lý, mỹ học, ngôn ngữ, âm nhạc…
10
Về học thuyết nguyên tử: Đêmôcrít cho rằng, khởi nguyên của thế
giới không phải là một sự vật cụ thể nào đó như các nhà tư tưởng trước đó
quan niệm (Talet – nước; Pitago – con số; Hêraclit – lửa…) mà đó là
nguyên tử. Theo ông, các sự vật do nguyên tử liên kết lại với nhau mà
thành. Nguyên tử là hạt bé nhất không thể phân chia được nữa. Nguyên tử
tồn tại vĩnh cửu, không thay đổi và rất đa dạng. Sự vận động, sắp xếp của
nguyên tử là do tự bản thân nó, mọi sự vật khác nhau là do các nguyên tử
có hình dạng và sự đa dạng làm nên. Mặc dù vậy, Đêmôcrít vẫn chưa giải
thích được một cách cụ thể hơn nguồn gốc của sự vận động.
Về lý luận nhận thức, Đêmôcrít cho rằng linh hồn cũng là một dạng
vật chất được cấu tạo từ các nguyên tử đặc biệt có hình cầu, linh động như
ngọn lửa, luôn luôn động và nóng vì thế làm nên cơ thể hưng phấn và vận
động. Đêmôcrít khẳng định rằng, linh hồn không bất tử, nó chết cùng với thể
xác. Đây cũng chính là hạn chế của ông, không coi linh hồn là hiện tượng tinh
thần mà là hiện tượng vật chất; Đêmôcrít chia nhận thức của con người thành
hai dạng đó là: nhận thức do các cơ quan cảm giác đem lại và nhận thức nhờ
lý tính; ông cũng đề cao quyết định luận gần như định mệnh luận. Ông cho
rằng không gì xảy ra không có nguyên nhân tất yếu, không hề có tính ngẫu
nhiên…
Về chính trị - xã hội, Đêmôcrít đứng trên lập trường tư tưởng của giai
cấp chủ nô dân chủ, tích cực bảo vệ nền dân chủ Aten, luôn luôn khẳng định
cho chế độ cộng hòa của chủ nô dân chủ, song ông cũng chỉ đề cập đến dân
chủ của chủ nô, của công dân tự do.
7. Platôn
Platôn (427 – 347 TCN), ông được coi là người mở đầu cho siêu hình
học phương Tây. Là một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại,
xuất thân trong một gia đình giàu có ở Aten. Ông là học trò xuất sắc của
Xôcrat, là “đối thủ tư tưởng” chủ yếu của Đêmôcrít.
11
Platôn là một nhà duy tâm khách quan, ông là người đầu tiên xây
dựng hoàn chỉnh hệ thống duy tâm khách quan và điểm nổi bật trong hệ thống
triết học của ông là học thuyết về ý niệm. Theo đó, Platôn đưa ra quan niệm
về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biến và thế giới ý niệm. Tương ứng
với hai thế giới đó, Platôn đưa ra khái niệm “tồn tại – phi vật chất” và
“không tồn tại – vật chất”. Điều này chứng tỏ rằng, học thuyết về ý niệm và
tồn tại của Platôn mang tính duy tâm khách quan rõ rệt.
Về lý luận nhận thức: Platôn cho rằng nhận thức con người không phải
là phản ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi
tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng quên trong quá khứ. Ông phân ra hai
loại tri thức: Tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy và Tri thức mờ nhạt.
Về chính trị, ông phản đối nền dân chủ chủ nô. Ông đưa ra một mô
hình thành bang lý tưởng dựa theo mẫu nhà nước XPac. Theo mô hình của
Platôn, tất cả các công dân được chia làm ba tầng lớp: Tầng lớp các nhà triết
học (nắm quyền điều hành nhà nước và nghiên cứu văn học, nghệ thuật);
Tầng lớp binh sỹ (có nhiệm vụ bảo vệ quốc gia); Tầng lớp nông dân, thợ thủ
công, thương nhân (sản xuất ra của cải vật chất). Tư tưởng triết học Platôn
được phát triển thành chủ nghĩa Platôn ở thời kỳ suy vong của đế quốc La Mã
và có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ tư tưởng của Châu Âu phong kiến sau này.
Hệ thống triết học duy tâm khách quan của Platôn khá hoàn chỉnh và
nhất quán. Nó đối lập với hệ thống triết học duy vật của Đêmôcrít về mọi lĩnh
vực: bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức luận; quan niệm chính trị - xã hội.
Điều này làm hình thành cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật trong lịch sử triết học. Triết học của Platôn đã có công lớn trong việc
khẳng định bản chất, vai trò của khái niệm. Ông đặt nền móng cho việc xây
dựng các phạm trù và tư duy lý luận nói chung.
8. Arixtốt
Arixtốt (384 -322 TCN) tại Maxêđôni. Ông là nhà triết học, bác học
nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông làm một ngự y trong triều đình của Vua
12
PhiLip II (Maxêđônia). Ông là học trò thông tuệ, xuất sắc nhất của Platôn.
Ông được Platôn cho đề ở phòng hàng chữ: “Phòng của người thiên kinh vạn
quyển”. Sau khi Platôn chết, ông rời ATen đi du lịch và trở thành thầy dạy của
hoàng tử Alexanđrơ, sau đó ông được đi chu du ở nhiều nước phương Đông
thời bấy giờ, có dịp khảo cứu văn hóa bản địa. Vì thế mà, ông để lại cho đời
một di sản triết học đồ sộ cùng với một loạt chuyên khảo về các lĩnh vực
logic, tâm lý học, sử học, chính trị học, đạo đức học, mỹ học và các khoa học
tự nhiên khác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác coi Arixtốt là nhà bách khoa
toàn thư vĩ đại nhất trong số các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp.
Về triết học: Arixtốt dung hợp trong triết học của mình cả duy tâm và
duy vật. Ông kịch liệt phê phán thuyết ý niệm của người thầy Platôn, ông
thường nói “Platôn là thầy nhưng chân lý vẫn quý hơn”. Ông thừa nhận sự
tồn tại của thế giới khách quan và sử dụng những phương pháp duy vật để
nghiên cứu, nhưng toàn bộ sự phát triển của sự vật lại được ông giải thích một
cách duy tâm. Giá trị của triết học Arixtốt đặc biệt thể hiện ở quan điểm về
thế giới tự nhiên. Theo ông, tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể
vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên
được biểu hiện ra. Ông đã nhìn nhận đúng đắn rằng vận động không tách rời
vật thể tự nhiên. Arixtốt quan niệm tồn tại nói chung xuất phát từ 4 nguyên
nhân cơ bản: hình dạng, vật chất, vận động và mục đích. Trong 4 nguyên nhân
ấy, nguyên nhân hình dạng có vai trò quyết định.
Về lý luận nhận thức: được ông xây dựng trên cơ sở phê phán học
thuyết Platôn về “ý niệm” và “sự hồi tưởng”. Ông khẳng định thế giới khách
quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc của kinh nghiệm và cảm giác.
Arixtốt cũng thừa nhận tính khách quan của thế giới.
Arixtốt coi logic là phương pháp luận chung của sự nhận thức khoa
học. Phương pháp quy nạp là do ông nêu ra. Ông lý luận về điều này rất sắc
bén: cái riêng bắt nguồn từ cái chung, giữa khái niệm và phán đoán, giữa phán
13
đoán và kết luận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có ảnh hưởng sâu sắc đến
sự phát triển của logic học và triết học.
Về chính trị học, Arixtốt thừa nhận có 3 hình thức tổ chức nhà nước:
nhà nước dân chủ (chính quyền của một người); nhà nước quý tộc (chính
quyền của một nhóm quý tộc); nhà nước dân chủ (chính quyền của mọi
người). Ông ủng hộ hình thức chính quyền của một nhóm người – “những
người ưu tú”, tức là giới quý tộc.
Arixtốt có ảnh hưởng rất lớn đến khuynh hướng triết học thời trung cổ
và thời cận đại. Theo Ph.Ăngghen đã gọi Arixtốt là con người có “khối óc
toàn diện nhất”, còn C.Mác đã đánh giá: “Tư tưởng thâm thúy của Arixtốt
vạch ra những vấn đề trừu tượng nhất một cách thật đáng kinh ngạc…” Tư
tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của triết học và khoa
học tự nhiên sau này. Arixtốt là nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại và
xứng đáng được xem là “bộ óc bách khoa toàn thư” thời cổ Hy Lap
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu tư tưởng biện chứng nổi bật của một
số nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã giúp cho chúng ta nhận thấy được khả năng
thiên tài trong việc đưa ra các học thuyết, ý niệm…, và nhất là khả năng biện
chứng bẩm sinh của các nhà Triết học Hy Lạp cổ đại.
14
KẾT LUẬN
Trong lịch sử triết học thế giới, Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là
một nền móng của Triết học Phương Tây và Triết học thế giới. Cho đến nay,
những thành tựu mà Triết học Hy Lạp cổ đại đạt được có sự ảnh hưởng to lớn
đối với sự phát triển của lịch sử triết học. Nhưng trong đó tên tuổi của những
trí tuệ bách khoa kỳ diệu như: Hêraclít, Đêmôcrít, Platôn, Arixtốt… vẫn tỏa ra
những ánh hào quang rực rỡ. Đây là sự cống hiến to lớn đối với sự phát triển
của triết học nhân loại.
Bằng những kiến thức đã học và quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu
và qua phân tích trong bài tiểu luận đã cho ta hiểu rõ hơn về Hy Lạp cổ đại,
Triết học Hy Lạp cổ đại và các triết gia tiêu biểu – “Ánh hào quang của
những trí tuệ bách khoa kỳ diệu”.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Thị Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại: “Khái Lược lịch sử Triết
học”, Khoa Triết học, Học Viện Báo chí và Tuyên truyền. Nhà xuất bản
Chính trị - Hành chính Hà Nội – 2013.
2. Vũ Dương Ninh (chủ biên): “Lịch sử văn minh thế giới”, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội 1999
3. TS.Lê Thị Hải Vân: “Lịch sử các nền văn minh thế giới”, Khoa Ngữ Văn,
Đại học Quy Nhơn.
4. Nguyễn Quang Thông – Tống Văn Chung: “Lịch sử triết học cổ đại Hy
La”, tủ sách trường Đại học Tổng hợp, H.1990.
5. Trần Văn Phòng (Chủ biên) – Nguyễn Thế Kiệt: “Hỏi – Đáp môn Triết học
Mác – Lênin”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. .
16
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HY LẠP CỔ ĐẠI..........................................2
1. Địa lý và dân cư............................................................................................2
2. Sơ lược lịch sử Hy Lạp cổ đại.......................................................................3
Chương 2: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI..................................................5
1. Khái quát chung............................................................................................5
2. Những đặc điểm của Triết học Hy Lạp cổ đại...............................................6
Chương 3: NHỮNG TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA TRIẾT HỌC HY
LẠP CỔ ĐẠI....................................................................................................8
1. Talét...............................................................................................................8
2. Anaximanđơ..................................................................................................8
3. Anaximen......................................................................................................8
4. Ampêđốc.......................................................................................................9
5. Hêraclít..........................................................................................................9
6. Đêmôcrít......................................................................................................10
7. Platôn...........................................................................................................11
8. Arixtốt.........................................................................................................12
KẾT LUẬN....................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................16
17