Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học môn xã hội học ẢNH HƯỞNG của tôn GIÁO đến các LĨNH vực xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.62 KB, 18 trang )

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi ra đời và tồn tại cho đến ngày nay, tôn giáo nắm giữ một vai trò
vô cùng quan trọng đối với xã hội, tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống
của con người, sở dĩ tôn giáo có tầm ảnh hướng lớn như vậy đối với đời sống
của con người là do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân đầu
tiên phải kể đến đó là nguồn gốc hình thành của tôn giáo và tại sao tôn giáo
lại ra đời. Có ba nguồn gốc chính làm nảy sinh tôn giáo đó là nguồn gốc xã
hội của tôn giáo, nguồn gốc nhận thức của tôn giáo và nguồn gốc tâm lý của
tôn giáo. Trong quá trình con người tham gia lao động để duy trì sự sống thì
tôn giáo đã ra đời và phục vụ cho chính nhu cầu của con người vì vậy mà tôn
giáo có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân.
Trong quá trình con người tha gia cải tạo, chinh phục tự nhiên, con
người cảm thấy bất lực với hiện tượng tự nhiên do trình độ sản xuất yếu kém,
trình độ sản xuất yếu kém làm cho con người không có khả năng nắm được
một cách thực tiến yếu kém các hiện tượng tự nhiên, thế giới bao quanh người
nguyên thủy đã trở thành mối đe dạo, trở thành sự đe dọa đối với người dân,
lúc này con người phải tôn thờ những hiện tượng tự nhiên, coi hiện tượng tự
nhiên như những vị thần, họ cho rằng phải tôn thờ, suy tôn những hiện tượng
này để cầu mong thời tiết ôn định, ôn hòa để cho mùa màng được bội thu.
Trong quá trình sản xuất thì xuất hiện mối quan hệ giữa con người với con
người, sự phân biệt giai cấp khiến cho những người nô lệ cảm thấy bị bần
cùng cả về mặt kinh tế, bị áp bức cả về mặt chính trị, bị tước đoạt những
phương tiện và khả năng phát triển tinh thần, quần chúng không thê tìm ra lối
thoát hiện thực khỏi sự kìm kẹp và áp bức trên trái đất nhưng họ đã tìm ra lối
thoát ở trên trời và thế giới bên kia. Chính do nhận thức của con người còn
thấp cũng với sự áp bức về mọi mặt khiến họ không có tiếng nói, họ chỉ biết

1


hi vọng vào một thế giới không có sự bóc lột, một thế giới mà họ có quyền


nói lên những tiếng nói của mình, vì vậy tôn giáo ra đời.
Tôn giáo ra đời còn là do nguồn gốc tâm lý, khi con người bị rơi vào
các trạng thái buồn đâu, cô đơn, khổ hạnh thì mọi người luôn hi vọng có thể
thoát ra khỏi cảm xúc đó bằng việc tin tưởng vào một thế giới ảo, một thế giới
không có thực để cầu xin sự may mắn, hạnh phúc đến. Khi con người còn có
mong muốn hay ước mơ thì họ cũng sẽ tìm đến tôn giáo để cầu mong sự may
mắn sẽ đến với họ, cầu mong cho những ước mơ của họ sẽ trở thành hiện
thực. Chính vì những lý do trên mà tôn giáo đã ra đời, tôn giáo ra đời lúc đầu
là để phục vụ con người, để giải tỏa những yếu tố tâm lý sau đó tôn giáo lại có
những ảnh hưởng lớn đến chính cuộc sống của con người, tôn giáo tác động
trở lại con người, tôn giáo có ảnh hưởng vô cùng lớn đối với sự phát triển của
con người bao gồm tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, mỗi tôn giáo
khác nhau thì sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đến các mặt của đời sống.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN CHÍNH TRỊ.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, hiện nay ở Việt Nam có các tôn
giáo như Phật Gi áo, Thiên Chúa Gi áo, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài… tuy
nhiên dân số Việt Nam hiện nay theo Phật Gi áo chiếm tỉ lệ cao nhất, theo
thống kê dân số năm 2009 thỉ số tín đồ theo Phật giáo là 6.802.318 người, tiếp
đó đến Thiên chúa giáo có hơn 5 triệu tín đồ tôn giáo, sau cùng là các tôn giáo
khác. Như vậy tỉ lệ tín đồ theo Phật giáo chiếm tỉ lệ cao nhất, điều này cũng
làm cho Phật giáo có một ảnh hưởng rất lớn đến các mặt trong xã hội bao
gồm cả chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục… Ở nước ta từ ngay thời Đinh –
Tiền Lê việc xây dựng và củng cố chế độ phong kiến tập quyền sau khi đất
nước vừa thoát khỏi một nghìn năm Bắc thuộc. đến thế kỉ X thực sự là một
thử thách chinh trị.

Trong lịch sử tôn giáo thường đi song song với chính trị. Điều này được
thể hiện rõ nét nhất ở Trung Quốc khi mà các hoàng đế Trung Quốc lấy căn
cứ quyền của họ từ Thiên mệnh. Mỗi khi ban chiếu các hoàng đế thường bắt
đầu chiếu bằng câu “Thuận thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết”. ở Trung
Quốc tôn giáo có một ảnh hưởng vô cũng lớn đến chính trị, hoàng đế của
Trung Quốc được coi là con trời chính vì vậy mà họ có quyền lực trong tay,
hoàng đế như là sợi dây trung gian để truyền đạt ý trời cho nhân dân, mỗi khi
ai làm gì trái với vua thì bị coi là đại nghịch bất đạo và bị xử phạt rất nghiêm
khắc. còn ở Châu Âu, Giáo hội Công giáo Rôma đã thống trị phần lớn châu
Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành. Đến Thời đại Ánh sáng vào thế kỷ 18 tại
châu Âu, nhiều triết gia tin vào việc tách biệt giữa giáo hội và nhà nước).
Trên thế giới hiện nay, một số nước có tôn giáo độc lập với hiến pháp,
tách biệt hoàn toàn với hiến pháp như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Việt Nam...
hiến pháp tách biệt giáo hội và nhà nước. Các quốc gia này thường cho phép
người dân tự do tín ngưỡng, tự do theo tôn giáo nhưng không công nhận bất
3


cứ tôn giáo nào là quốc giáo để trách bị xem là thiên vị. Hiện nay vẫn còn một
số nước có tôn giáo được công nhận là quốc giáo tuy nhiên người dân ở đây
họ vẫn có quyền tự do tôn giáo như một số nước Hồi giáo, Công giáo và
những nước như Thái Lan (Phật giáo) hay nước Anh (Anh giáo), những nhà
nước này chính thức nhận thuế từ dân, hàng năm dân phải đóng một khoản
phí để duy trì bộ máy nhà nước. Không chính có những nước có quốc giáo mà
trên thế giới hiện nay vẫn còn những nước thần quyền, tại một số quốc gia
điển hình là Iran và tòa thành Vatican, tôn giáo và chính quyền nhà nước là
một, những người nắm giữ chức vụ quan trọng trong nhà nước cũng là những
người nắm giữ chức sắc quan trọng trong tôn giáo.
Ngoài ra có có một số tin giáo mà nhà nước kiểm soát đó là ở Việt Nam
và ở Trung Quốc, ở những nước này tôn giáo nằm dưới sự kiểm soát của nhà

nước, các tôn giáo muôn được hoạt động phải được nhà nước chấp thuận và
việc bổ nhiệm các chức sắc quan trọng trong tôn giáo cũng cần được sự chấp
thuận từ chính quyền.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN KINH TẾ.
Tôn giáo không chỉ ảnh hưởng đến chính trị mà còn ảnh hướng lớn đến
kinh tế, môt trong những nguồn gốc của tôn giáo là khi mà các giai cấp mâu
thuẫn, xuất hiện những bất công trong xã hội thì tôn giáo đã ra đời nhằm xoa
dịu đi những nỗi khổ, nỗi bất hạnh, bất công trong xã hội, trong xã hội có sự
phân chia giai cấp, giai cấp thông trị sẽ sử dụng quyền lực của mình để chiếm
những của cải vât chất của giai cấp bị trị, những người nô lệ phải lao động
khổ sai cho những người chủ của mình, những người chủ của mình có bóc lột
hêt sức có thể sức lực của người nô lệ từ đó những người nô lệ, những người
có địa vị thấp trong xã hội luôn coi tôn giáo, những vị thần thành như một chỗ
dựa tinh thần cho họ, một trong những nguồn gốc khiến tôn giáo ra đời là do
sự áp bức bất công trong xã hội, tuy nhiên từ khi ra đời và tồn tại cho đến nay
thì tôn giáo lại có những tác động trở lại đối với kinh tế. Những nhà khoa học
4


như Mã Weber đã nghiên cứu về giáo phái Calvin của đạo Tin lành đã dần đến
kết luận tôn giáo có tác dụng thúc đẩy kinh tế xã hội. Các cải cách của Tin
lãnh đã dẫn đến việc duy lú hóa xã hội, con người thay vì chấp nhận số phận
và hướng về đời sống sau khi chết theo truyền thông phải đat tới cuộc sống
thinh vượng, phải phấn đấu để thành công tỏng mọi lĩnh vực để thực hiện
hoạch định của chúa. Weber cho rằng chính vì thế chủ nghĩa tư bản hình thành
vững chắc ở những nơi mà giáo phái Calvin phát triển mạnh, thậm chí còn gọi
tinh thần của tôn giáo này là cốt tủy của chủ nghĩa tư bản.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, giáo hội tham gia nhiều hơn
vào việc xóa đói giảm nghèo, cho tín đồ vay vốn phát triển sản xuất, điều này
khác với trước đây, trước đây khi mà nói đến hỗ trợ cho người nghèo thường

thường các tôn giáo thường cho họ gạo hoặc cung cấp cho họ một khoản tiền
nhỏ để trang trải cuộc sống, tuy nhiên cách hỗ trợ này về mặt lâu dài không
đêm lại những lợi ích bền chặt bằng việc cung cấp cho họ vốn để họ tự mở
rộng sản xuất, kiếm sống cho bản thân.
Mặc dù tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến kinh tế nhưng tôn giáo không
trức j tiếp sản xuất để cung cấp của cải cho xã hội nhưng tôn giáo cũng có
phần nào trách nhiệm trong việcgiúp các tín đồ tạo ra một cuộc sống tươi đẹp
hơn mà tôn giáo gián tiếp thúc đấy kinh tế nên cũng đã góp phần trong một
cách cách gián tiếp thông qua những yếu tốsau:
-

Tôn giáo khuyến khích việc lao động chân tay bằng giảng dạy và

gương sáng, chúa Giê-su được coi như một hình mẫu lý tưởng cho các tín đồ
của mình, Chúa Giê - su mẫu gương tuyệt hảo của người Ki-tô cũng đã chia
sẻ thân phận của một người lao động trong suốt thời gian 30 năm ẩn dật tại
Na-da-rét, chúa Giê – su được sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, sống như
một người nghèo khó và phải chịu chết trên cây thành giá khi mà không một
manh áo che thân như một người nghèo nhất.
-

Mặc dù hòa cảnh nghèo khó, cơ cực đến như thế nhưng trong thời

gian giảng đạo gần ba năm, Đức Giê-su luôn khuyên dạy mọi người phải tránh
5


thói ích kỷ chỉ tìm cách hưởng thụ một mình, vị kỉ, phải biết nghĩ đến người
khác, quan tâm, chăm sóc cho người khác, phải biết giúp đỡ khi người khác
gặp khó khăn, trong quá trình đi giảng đạo chúa Giê – su đã đi nhiều nơi và gặp

nhiều hoàn cảnh khó khăn, mặc dù bản thân chùa Giê su cũng khó khăn nhưng
ông luôn giúp đỡ người khác, Chúa khuyên con người nên chấp nhận đi con
đường gian khổ leo dốc là khiêm nhường phục vụ tha nhân. Người dạy: “Ai
muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”, “Anh em
muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. “Ai
muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn
làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ anh em”.
-

Chúa Giê-su cũng kêu gọi những người lao động chài lưới theo làm

môn đệ của Người như Người đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên: “Các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Tông
đồ Phao-lô cũng khẳng định lập trường của Ki-tô giáo về việc lao động như
sau: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn”. Chúa kêu goi tất cả mọi người
phải tham gai lạo động để tạo ra của cải vật chất để nôi sống chính bản thân
mình, ai cũng phải lao động, ngừng lao động là làm lãng phí thời gian như thế
cũng là có tội, ai lao động thì được hưởng thành quả lao động của mình, ai lao
động tích cực thì được hưởng nhiều thành quả, ai không lao động thì sẽ không
được hưởng thành quả và không được ăn thành quả của người khác. Lời
khuyên này của chúa đã phát huy tính tự giác lao động cho các tín đồ, khuyên
can họ bắt buộc phải lao động để tạo ra của cải cho chính bản thân mình, đồng
thời chúa cũng phê phán những kẻ chí biết thụ hưởng trên sức lao động của
người khác, mọi người phải lao động không biết mệt mỏi, kể cả khi đã có
những thành quả nhất định cũng không được dừng lao động, lao động không
chỉ tạo ra của cải vật chất mà trong quá trình lao động con người hoàn thiện
bản thân hơn, lao động mang lại cho con người sức khỏe dẻo dai. Chính ngài
cũng nêu gương lao động: dù bận rộn với bao công việc truyền giáo, nhưng
ngài vẫn dành ra thời giờ làm việc dệt vải để mưu sinh, không dám cậy nhờ
6



hoàn toàn vào sự trợ giúp vật chất của các tín đồ, dù ngài có quyền làm như
thế. Ngoài ra, trong Giáo hội cũng có nhiều dòng tu coi trọng công việc lao
động theo châm ngôn như sau: “Ora et labora” (Cầu nguyện và làm việc).
Những người theo tôn giáo này cho rằng việc cầu nguyên và làm việc phải
luôn đi song song với nhau, không tách rời, họ khuyến khích lao động vầ làm
việc, những giáo lý của tôn giáo này mặc dù không trực tiếp tạo ra của cải vật
chất trong xã hội nhưng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế,
tất cả mọi người phải lao động, họ coi lao động cũng như những việc làm
thường ngày như việc đi cầu nguyện.
-

Không chỉ gián tiếp thúc đấy sự phát triển kinh tế, Tôn giáo còn

cộng tác trong việc xây dựng một xã hội trật tự, an ninh… yếu tố này là điều
kiện cần để mọi người an tâm sản xuất: Hoàng đế Na-po-lê-ông người Pháp
(1769-1821) đã quả quyết về giá trị của tôn giáo trong việc duy trì an ninh trật
tự xã hội như sau: “Một dân tộc không tôn giáo phải được cai trị bằng súng
đạn, nhà tù và bạo lực”. Chính trị gia Xa-tô-bi-ăng : cũng đồng quan điểm khi
tuyên bố: “Tiêu hủy việc thờ tự theo Tin Mừng, thì mỗi làng phải xây nhiều
nhà ngục và phải có nhiều đao phủ thủ”. Chính việc tạo ra một môi trường an
toàn, ổn định để mọi người yên tâm lao động và cống hiến. Tôn giáo có chức
năng duy trì sự ổn định xã hội, làm cho xã hội phát triển bền vững hơn, nếu
không có tôn giáo thì chỉ có thể cai trị bằng bạo lực, bằng sức mạnh của súng
đạn và tù ngục, như vậy tôn giáo làm ổn định xã hội, môi trường xã hội, môi
trường để con người lao động có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả lao động, có
thể thấy rất rõ điều này ở nước ta trong giai đoạn chiến tranh khi mà toàn dân
phải dốc sức để phục vụ chiến tranh thì tất cả của cái làm được đều trở thành
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ,

nhưng đến khi xã hội ổn định, chiến tranh kết thúc thì của cải trong quá trình
lao động được phục vụ chó chính cuộc sống của họ cho nên đời sống được
nâng cao, kinh tế phát triển, chính vì vậy việc tôn giáo góp phần duy trì sự ổn

7


định xã hội có một vai trò vô cùng lớn góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả sản xuất làm cho kinh tế phát triển hơn.
Như vây, về lĩnh vực kinh tế, tuy tôn giáo không trực tiếp sản xuất làm
ra của cải vật chất như tiền bạc, quần áo, đồ dùng… phục vụ cho đời sống của
các tín đồ nhưng tôn giáo cũng đã gián tiếp đóng góp công sức trong việc tạo
lập một xã hội ấm no hạnh phúc. Chính nhờ lời giảng dạy và gương lành của
các vị mục tử và tu sĩ nam nữ, mà xã hội đã nên tốt hơn, con người bớt làm
điều xấu hơn. Cũng nhờ giáo lý về sự công bình bác ái của Đức Giê-su, mà
hòa bình giữa các quốc gia trên thế giới đã được duy trì. Tất cả những điều ấy
là điều kiện cần để xã hội có thể phát triển kinh tế.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN VĂN HÓA
1.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa Việt Nam
Đạo Phật là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, được ra đời vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên ở vùng Tây Bắc ẤN Độ do thái tử Tât
Đạt Đa sáng lập, lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thời xa xưa và gắn bó sâu vào
tiềm thức của người Việt Nam, sự gắn bó này đến một cách tự nhiên và không
do áp đặt từ bất cứ một thế lực nào hay từ chính quyền. Sự tồn tại lâu dài của
Phật giáo đã in in sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, chính vì vậy mà Phật
giáo đem lại những đóng góp đáng kể trong mọi lĩnh vực của đời sống bao
gồm cả chính trị , kinh tế cho đến văn hóa.
Tôn giáo được xếp vào phạm trù văn hóa, nếu như hiểu tôn giáo là toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và phục vụ cho

nhu cầu của con người thì tôn giáo cũng là những giá trị tinh thần và do con
người sáng tạo ra, từ đó phục vụ cho nhu cầu của con người. Khi tìm hiểu về
bản sắc văn hóa của một cộng đồng thì nhất định phải tìm hiểu tôn giáo của
cộng đồng đó. Chẳng hạn để tìm hiểu văn hóa của người Khơ me thì trước
tiên phải tìm hiểu xem dân tộc đó họ theo tôn giáo gì bởi vì theo tôn giáo nào
8


sẽ quyết định chủ yếu đến văn hóa của dân tộc đó, những biếu hiện của tôn
giáo trong đời sống sinh hoạt và sản xuất sẽ là những biểu hiện của văn hóa.
Trải qua các triều đại trong lịch sử cho đến những năm kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ ta thấy ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa là vô
cùng lớn, tuy có một bộ phận tăng ni trong Phật giáo có sự phân hóa lớn, tuy
nhiện thì phần đông các tín đồ, chức sắc trong tôn giáo thì đến tham gia tích
cực vào cuộc cánh mạng giải phóng dân tộc. trong những năm gần đây, Việt
Nam abc đổi sang nền kinh kế mở cửa, hội nhập. Phật giáo Việt Nam cũng từ
đó phát triển mạnh mẽ thu hút nhiều tín đồ tham gia hơn, từ đó các đền chùa,
nơi thờ tự cũng được sửa sang đẹp đẽ hơn. Trước đây thì hầu như chùa là nơi
dựa cho những người cao tuổi nhưng hiện nay chùa còn là chỗ dựa lấy được
nhiều thiện cảm của những người trẻ.
Chính vì sự ăn sâu bám rễ của Phật giáo vào Việt Nam mà vô hình
chung văn hóa Việt Nam mang đậm màu sắc Phật Giáo. Các giá trị của văn
hóa tôn giáo được xây dựng trên cơ sở tiếp nhận những thành tựu đời thường
của văn hóa cộng đồng, vì vậy mà rất khó tách biệt đâu là văn hóa đời thường,
đâu là văn hóa tôn giáo. Các giá trị văn hóa của tôn giáo thấm thấu sâu vào
đời sống xã hội đáp ứng nhu cầu về văn hóa cho các cá nhân và cộng đồng có
tôn giáo, xuất phát từ những nhu cầu về tín ngưỡng tôn giáo xuất hiện những
hiện tượng văn hóa mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng tôn giáo.
Cũng như các dân tộc khác trên thế giới, từ lúc sơ khỏi thì Người Việt
Nam đã có tín người và tôn thờ các vị thần có sức mạnh vô hình hay hữu hình

mà họ cho là có thể giúp đỡ họ hoặc cũng có thể làm hại đến họ nhưng những
vị thần mây, mưa, sấm, sét, lửa… trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần này, phật
giáo xuất hiện đã nhanh chóng hóa thân qua hình ảnh của bộ tượng tứ pháp ở
chùa Dâu, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên của Việt Nam ở luy lâu, bộ tượng này
là một hình ảnh sống động và gẫn gũi đối với người dân Việt Nam trong việc
cầu xin cho cuộc sống bình an, mưa thuận gió hóa, gặp nhiều may mắn trong
cuộc sống. Trong quan niệm từ thời xa xưa, người dân cho rằng Phật là đấng
9


cứu thế có thể ban cho con người may mắn và hạnh phúc, chính vì niềm tin
tôn giáo đó mà Phật giáo ngày càng phát triển hơn rất nhiều.
Khi Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo mang dáng dấp
của Phật giáo Tiểu thừa và Mật giáo vì vậy Phật giáo Việt Nam gắn với sự cầu
xin, sự ban phước lộc hơn là thiền định là tôi luyện trí tuệ. Điều nay cho thấy
khi con người ta gặp những khó khăn trong cuốc sống thì họ sẽ tìm đến chùa
để cầu xin sự may mắn, giải thoát họ và gia đình khỏi kiếp nạn, trong cuộc
sống đa số những người đi chùa đều là phụ nữ vì phụ nữ thường là những
người chịu nhiều khổ cực và bất hạnh, họ đi chùa để giái tỏa những vướng
mắc họ đang gặp phải, thực chất việc đến chùa không phải sẽ giúp họ giải
quyết được vấn đề nhưng khi đi chùa thì một phần tâm lý của họ sẽ thanh
thản, họ có đầu óc sáng suốt hơn để giải quyết những vướng mắc đó, hành
động đi chùa đó thể hiện niềm tin của họ đối với Phật, họ tin tưởng rằng đức
Phật sẽ giúp họ thoát qua khỏi những trở ngại trong cuộc sống.
Biểu hiện rõ nhất của Phật giáo trong đời sống nhân dân đó chính là nơi
thờ tự, chùa làng đã từng là nơi đóng vai trò là trung tâm văn hóa tinh thần
của cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa không phải chỉ là nơi giảng đạo, tụng
kinh là còn là nơi hội họp, du lịch, trấn an tinh thần. trước đây mỗi khi trong
làng có một công việc quan trọng cần được sự bàn bạc của người dân trong
làng thì hầu như đều đươc đưa ra đình, chùa để bàn bạc. Ngày nay những nhu

cầu này ngày càng trở nên quan trọng hơn, tuy nhiên do sự phát triển của xã
hội, những vấn đề quan trọng đó được đưa ra nơi sinh hoạt chung là nhà văn
hóa của các thôn xóm hay tổ dân phố. Văn hóa du lịch thì ngày càng ảnh
hưởng rất lớn, càng phát triển thì nhu cầu du lịch tâm linh và vãn cảnh càng
cao. Khi con người ta đã đạt được những thành tựu nhất định hoặc là chưa đạt
được những thành tựu nổi trội nào thì người dân có xu hướng đi chùa để cầu
may mắn hoặc là tạ ơn những đấng tối cao đã ban cho họ phước lành để họ
được thành đạt. Ngày nay các cơ sở thờ tự được trang hoàng lộng lẫy đáp ứng
nhu cầu tôn giáo của người dân trên cả nước cũng như thế giới.
10


Trong các lễ hội sẽ là lúc biểu hiện rõ nét nhất ảnh hưởng của tôn giáo
đến văn hóa mặc dù văn hóa đời thường và văn hóa tôn giáo luôn đan xem
vào nhau nhưng trong những lễ hội, giữa các tôn giáo khác nhau sống trên
cùng một địa bàn sinh sống sẽ khác nhau. Nhìn vào cách họ sinh hoạt trong
các lễ hội đó có thể dễ dàng nhận ra đó có phải là người theo tôn giáo đó hay
không, những nghĩ lễ đó gần như được thấm sâu vào tiềm thức của mỗi
người, họ hoạt động trong nhóm và có sự thuần thục của nó, do vậy ta có thể
nhận biết được đâu là người theo tôn giáo nào, chảng hạn khi đến chùa, nhìn
vào cách người ta cầu khấn có thể biệt được đó là người theo đạo Phật hay
không hay cách họ tham gia những lễ hội, nếu như những người theo đạo Phật
làm những công việc liên quan đến vấn đề nghi lễ thuần thục thì những người
không theo tôn giáo lại làm những việc đó một cách lóng ngóng thậm chí họ
làm nhưng không hiểu ý nghĩa của hành động đó là gì.
Trong các phong tục hiếu, hỉ cũng biểu hiện rất rõ ảnh hưởng của tôn
giáo đến văn hóa, mỗi người theo những tôn giáo khác nhau thì trong những
nghi lễ để cưới hỏi lại có những cách thức khác nhau.
Ảnh hưởng của tôn giáo không phải chỉ trong đời sống tinh thần người
dân mà còn trong cả tư tưởng. Tư tưởng căn bản của Phật giáo là đạo lý

Duyên Khởi, Từ s Diệu Đế và Bát Chánh đạo, ba đạo lý này là nền tảng cho
tất cả các tông phái Phật giáo, nguyên thủy cũng như đại thừa ăn sâu vào lòng
người dân Việt Nam. Trong những giáo lý của nhà Phật thường khuyên răn
con người ta làm những việc thiện, tránh những điều ác, nhà Phật dạy con
người phải biết giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, biết chăm sóc cho mọi
người, biết kính trên nhường dưới, biết lễ phép... và không được làm những
việc gây ảnh hưởng cho người khác, không được sát sinh, không được dâm ô,
không được vướng mắc vào các tệ nạn xã hội, nếu làm được như vậy khi chết
đi họ sẽ được lên cõi niết bàn, không chịu khổ cực, còn không làm như vậy,
sau khi chết đi họ sẽ bị đày xuống chín tầng địa ngục, sẽ phải chịu nhiều đày
ải, khổ cực.
11


Phật giáo có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn đến văn hóa Việt Nam,
ngay từ trong tư tưởng đến những thói quen hàng ngày, những yếu tố mang
đậm màu sắc tôn giáo được thể hiện trong đời sống của người dân, của tất cả
các tín đồ đang theo tôn giáo đó, Phật giáo ngày nay ảnh hưởng đến tất các
mọi người không phân biệt học thức hay tuổi tác, chính những ảnh hưởng của
tôn giáo đã đem lại những yếu tố văn hóa vô cùng phong phú nhưng lại vẫn
giữ được những nét đặc sắc vốn có của nó. Tuy nhiên, ngày nay, bên cạnh sự
phát triển không ngừng của tôn giáo trong đời sống đã đem lại những ảnh
hưởng tích cực cho người dân thì hiện nay, cũng với sự phát triển không
ngừng đó, nhiều kẻ xấu đã lợi dụng yếu tố tôn giáo để chuộc lợi cho bản thân,
trong các lễ hội đăc biệt là những lễ hội lớn như lễ hội chùa Bái Đình, lễ hội
chùa Yên Tử, lễ hội chùa Hương, nhiều cá nhân đã lợi dụng niềm tin tôn giáo
của các tín đồ để nhằm chuộc lợi cá nhân cho mình bằng những hành vị như
đổi tiền lẻ, bán hàng hóa với giá cao gấp nhiều lần so với giá trị thực có của
nó, hoặc là lợi dụng niềm tin của tín đồ đề bói toán, lên đồng nhằm kiếm lợi
cá nhân. Để những giá trị văn hóa của người Việt được bảo lưu thì mỗi cá

nhân chúng ta phải có những hành vi tôn giáo đúng đắn.
1.2 Ảnh hưởng của Công giáo đến văn hóa Việt Nam
Không chỉ có Phật giáo mới có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Việt nam,
mỗi tôn giáo tồn tại đều có những ảnh hưởng nhất định của nó. Công giáo có
số lượng tín đồ chỉ đứng sau Phật giáo vì vậy mà nó cũng có ảnh hưởng vô
cùng lớn đối với văn hóa Việt Nam. Khi Công giáo du nhập và hiện diện ở
Việt Nam thì đã có một số yếu tố mới làm giàu cho văn hóa của dân tộc Việt
Nam.Trong một bài viết, giáo sư sử học Phạm Cao Dương, một học giả không
theo công giáo đã từng viết: “ ngày nay người ta không thể nói tới văn hóa
của dân tộc Việt Nam hay cuộc sống của người Việt Nam trong bất cử phạm
vi nào mà không nói tới sự hiện diện, vai trò và sự đóng góp của đạo công
giáo, dù đó là cuộc sống của trong nước hay cuộc sống ở nước ngoài”. Ông đã

12


khẳng định rằng, văn hóa của Việt Nam hay văn hóa của nước ngoài đều
không thể không kể đến sự ảnh hưởng của Công giáo đến văn hóa.
Điều này được thể hiện trước tiên ở những giáo lý, giáo điều mà tín đồ
được giảng dạy, khác với những tôn giáo khác, Tín đồ Công giá từ khi sinh ra
đã được làm những nghi lễ cho sự ra đời của mình, khi sinh ra đứa trẻ đó
được tắm thánh, được nhận làm con nuôi của một tín đồ khác, khi lớn lên lại
được đi học những giáo lý, học kinh thánh, Công giáo khác với Phật giáo ở
chỗ nếu như những tín đồ của Phật giáo thường sinh hoạt chủ yếu vào những
ngày 30 mùng một thì tín đồ tôn giáo có số lần sinh hoạt thường xuyên hơn,
tuần nào các tín đồ Công giáo cũng đến nhà thờ để cầu nguyện hoặc là xưng
tội để được rửa sạch những tội lỗi mà mình mắc phải. Trong các buổi cầu
nguyện, các tín đồ ăn mặc thật đẹp, nữ chủ yếu mặc áo dài trắng đi đến nhà
thờ, chính những tuật tục này của Công giáo ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa,
khi những tín đồ này mặc áo dài đi nhà thờ đọc kinh thành thì vo hình chung

đã tạo nên nét đẹp cho con người và cả nơi mà họ sinh hoạt.
Trong những nghi lễ quan trọng của công giáo như ngày chúa giáng
sinh, ngày Ròng, các tín đồ Công giáo háo hức chuẩn bị thật kĩ lưỡng, chu
đáo, những nghi lễ của công giáo được thực hiện một cách thuần thục, mọi
người làm việc theo đúng những gì đã được sắp đặt khiến cho buổi lê được
trở nên trang trọng, có văn hóa, các tín đồ nghiêm túc thực hiện theo sự chỉ
dẫn của Cha sứ, tất cả đều có một lòng kính trọng cha sứ như kính trọng chính
cha đẻ của mình. Những người theo Công giáo họ có một niềm tin mãnh liệt
vào Chúa, họ cho rằng khhi chết đi họ sẽ được trở về với chúa, chính vì vậy
mà họ coi nhẹ cái chết hơn là những người theo các tôn giáo khác. Điều này
có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, trong những đám tang của nhừng tín đồ
theo công giáo thì sau khi an táng cho người quá cố xong, những tín đồ này
còn đến cầu kinh cho người đã khuất trong một thời gian khá dài, chính
những khi đến cầu kinh cho người đã khuất này cũng tạo nên sự đoàn kết, gắn

13


bó trong xã hội, làm cho mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội bền chặt
hơn khiến cho tính cố kết cộng đồng người Công giáo được bền chặt hơn.
Cùng với đó, những tín đồ Công giáo là những người rất sòng đạo, họ
đóng góp rất nhiều tiền bạc để xây dựng những nhà thờ nguy nga lộng lẫy
phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng cuả họ, chính sự xây dựng những kiến trúc
nhà thờ này làm xuất hiện những trường phái hội họa, những tác phẩm hội
họa, âm nhạc ra đời trở thành di sản văn hóa của nhân loạị

14


PHẦN III: KẾT LUẬN.

Tôn giáo ra đời có một chức năng vô cùng lớn, những chức năng của
tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như
toàn xã hội, ảnh hưởng của tôn giáo đến con người chính là ảnh hưởng đên
các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, vă hóa. Không phải tự nhiên tôn giáo
ra đời, tôn giáo ra đời có những sứ mệnh riêng của nó, ngoài việc tâm linh ra
thì tôn giáo cũng có ảnh hưởng nhất định đến chính trị, kinh tế văn hóa.
Như vậy tầm ảnh hưởng của tôn giáo đến chính trị sẽ khác nhau giữa
các tôn giáo khác nhau, mỗi tôn giáo có những ảnh hưởng riêng đến chính trị,
nhiều quốc gia thì tôn giáo chính là chính trị, những người có chức sắc trong
tôn giáo đó sử dụng quyền lực của mình để thực hiện chính trị, cũng có những
quốc gia tôn giáo nằm ngoài chính trị và chịu sự kiểm soát của chính trị. Ở
Việt Nam hiện nay, chính quyền không công nhận tô giáo nào làm quốc giáo
để trách trường hợp bị cho là thiên vị, mọi người đều có quyền theo tôn giáo
mà mình cho là phù hợp, mọi người đều có quyền tự do tôn giáo nhưng phải
trong phạm vi của pháp luật, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay chịu sự quản lý
của chính quyền.
Ảnh hưởng của tôn giáo đến kinh tế cũng không phải là nhỏ, tôn
giáo có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển, tôn giáo không trực tiếp tạo ra
những của cải vật chất phục vụ cho đời sống của con người mà những giáo lý
của các tôn giáo khuyên con người nên tham gia lao động không ngừng nghỉ
kể cả khi đã có của cải dư thừa, không được lãng phí thời gian, lãng phí thời
gian được coi là có tội với chúa. Ngoài việc giáo lý khuyên răn con người nên
lao động ra thì các tổ chức giáo hội còn có ảnh hưởng đến kinh tế bằng việc
các giáo hội tổ chức các hoạt động từ thiện, mở ra các trung tâm đào tạo và
dạy nghề cho các tín đồ, dạy cho các tín đồ cách duy trì sự sống, hỗ trợ cho
những tín đồ có hoàn cảnh khó khăn. Giáo lý, giáo điều của các tôn giáo còn
khuyên con người phải luôn luôn biết giúp đỡ, đùm bọc lần nhau. Trong quá
15



trình sinh hoạt hoặc đi cầu nguyện thì vốn xã hội được hình thành, mọi người
có vốn xã hội nhiều thì cơ may có công ăn việc làm càng cao, họ tận dụng hết
mối quan hệ của mình để tìm kiếm việc làm, như vậy cũng đã góp phần vào
sự phát triển kinh tế. Tôn giáo còn tạo ra môi trường thuận lợi để phát triển xã
hội, tôn giáo góp phần duy trì sự ổn định xã hội, khuyên mọi người nên sống
hòa thuận, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, không được mắc phải các tệ nạn xã
hội làm suy giảm sự phát triển kinh tế.
Tôn giáo còn có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, các công trình để
thờ tự như đền chùa, nhà thờ đang ngày một phát triển, trong những công
trình đó thể hiện rất rõ yếu tố văn hóa, mỗi tôn giáo sẽ có những kiến trúc
riêng biệt thể hiện được bản săc của tôn giáo đó, đi kèm với các công trình đó
là một loạt các tác phẩm hội họa, điêu khắc , các tác phẩm âm nhạc đã trở
thành di sản văn hóa của nhân loại, ở Việt Nam hiện nay, chùa Bái Đính là đại
diện cho Phật giáo, đây là ngôi chùa có diện tích lớn nhất Đông Nam Á, là nơi
thờ tự lớn nhất của Phật Giaó Việt Nam, còn nhà Thờ Bùi Chu là công trình kì
vĩ nhất nước ta đồi với những tín đồ theo đạo Thiên chúa giáo, chính những
công trình kĩ vì này hàng năm cũng thu hút một lượng khách du lịch và khách
thập phương về đây để cầu nguyện, góp phần không nhở vào du lịch nước
nhà. Có thể thấy một điều là ở Việt Nam do là quốc gia đa tôn giáo, những
nghi lễ tôn giáo gắn bó với đời sống hàng ngày của người dân nên khó có thể
tách biệt được đâu là ảnh hưởng của tôn giáo đến văn hóa hay là những tín
ngưỡng thường ngày. Mỗi tôn giáo lại có những ảnh hướng khác nhau tới văn
hóa, tuy nhiên sự khác biệt này đã tạo nên bản sắc cho những tôn giáo đó.
Nói tóm lại, tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội, những ảnh hưởng này có cả các mặt tích cực và các mặt tiêu cực,
mặc dù vậy thì dù theo tôn giáo nào đi chăng nữa thì mỗi tín đồ phải có trách
nhiệm, nghĩa vụ giữ gìn sự trong sạch của các tôn giáo, phải phát huy những
ảnh hưởng tích cực của tôn giáo và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo đến đời sống.
16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths. Nguyễn Thị Tuyết Minh, đề cương bài giảng xã hội hộc tôn
giáo. Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Hà Nội, 2013
2. Lê Thị Thanh Hương: “sự can thiệp của tôn giáo vào chính trị ở
Philippin”. Nghiên cứu tôn giáo số 3 (129), 2014.
3. Đỗ Quang Hưng: “phật giáo và chính trị ở Đại Việt đầu kỷ
nguyên độc lập – tiếp cận từ một luận đề Max weber” số 8 (134), 2014/
4. Nguyễn Thi Minh Ngọc: “mối quan hệ giữa tôn giáo với kinh tế ở
Việt Nam từ góc nhìn vốn xã hội” nghiên cứu tôn giáo số 8 (133), 2014.
5. Thích Đồng Bồn (2006). “ vai trò chính trị của các tăng sĩ Phật
giáo ở thời đại Lý – Trần”, nhà xuất bản tôn giáo Hà Nội.
6. Một số trang web:
-

/>
-



-

.

-

/>
hoaiNamDTVD18A.htm


17


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.......................................................................................3
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN CHÍNH TRỊ...................................3
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN KINH TẾ.......................................4
III. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN VĂN HÓA...................................8
1.1 Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa Việt Nam.......................................8
1.2 Ảnh hưởng của Công giáo đến văn hóa Việt Nam....................................12
PHẦN III: KẾT LUẬN...................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17

18



×